Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

Socrate


Socrate (-470 Athènes; -399) nhà hiền triết Hy Lạp

Mẹ ông là  nữ hộ sinh, cha là Sophronisque, điêu khắc gia. Ông được hưởng nền giáo dục của thời đại ông: thể thao, âm nhạc, học trường các giáo sư dạy đọc và viết (Ecole du grammatiste) 
Ông sống thời Périclès - thế kỷ rực rỡ nhất ở Athènes: Sophocle, Euripide. Trong suốt  70 năm sống của ông, ông  đã từng chứng kiến cảnh vinh quang và sự xuống dốc của  tổ quốc ông.
Mặt mày xấu xí , ông bị vợ là Xanthippe  ăn hiếp, hay gây lộn chửi mắng ông

Socrate không phải là triết gia chuyên nghiệp:

Ông là người dân Athènes trung bình, có thể nói là ông không hề rời xa  Athènes. Như những người dân Athènes, ông đi gặp những người cùng phố, gợi cho họ nói chuyện vì ông cần biết sự thật về con người. Ông đã chẳng  dạy học được ai  bởi ông đã nói là ông chỉ biết mỗi một điều là  ông không biết gì cả!
Ðiều mà ông muốn là đặt người đối thoại trước chính họ, để họ tự hiểu mình, để họ đến với lương tâm , tự xét để hiểu con người thật của họ. "gnôthi séauton" :  Hãy tự biết lấy chính mình.
Theo Socrate, không có ai tình nguyện dữ tợn. Kẻ dữ là người không biết điều tốt, không biết nhận ra đạo đức hiện ra  nơi vẻ mặt khác nhau của người thể hiện ra nó 
Cái mà Socrate dạy, là phải nhận biết đạo đức và điều tốt, hay ít nhất cũng phải muốn biết.
Mọi sự giả dối, giả đò, như những tài khéo léo của thuật hùng biện (artifices de la rhétorique; cf. le Gorgias de Platon), ông đều chối bỏ.
Ông không coi gì quan trọng. Lúc nào cũng bình dị, mỉm cười và sáng suốt (lucide)
Ông dạy theo lối đàm thoại, nói chuyện  với một nhóm người để bàn về một vấn đề. Từ  những cuộc đối thoại đó ông rút ra những bài học.
Tính tính ngay thẳng, chỉ thích sự thật, ông bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ ghét. Họ buộc tội ông đã không chịu thờ những vị thần như họ mà còn  đưa vào những thần linh mới và ông lại còn làm hư hỏng  thanh niên ("Socrate est coupable du crime de ne pas reconnaître les dieux reconnus par l'Etat et d'introduire des divinités nouvelles ; il est de plus coupable de corrompre la jeunesse").  Hình phạt là bắt ông  uống thuốc độc tự tử. Socrate từ chối sự giúp đỡ của Lysias và phần biện hộ, ông tự soạn lấy và  tự biện hộ cho mình trước tòa. Cuối cùng  ông bị tuyên bố phạm tội 281 phiếu thuận với 278 phiếu chống. 

Trong tù, ông không bị hành hình tức khắc 

Vì chiếc tàu chở Dèlos chở đồ cúng thần Apollon vừa  mới đi nên không một sự hình hành quan trọng nào xảy ra trước khi Dèlos trở về.  Trong  30 ngày  ở tù, ông  nói chuyện cùng với các học trò và  họ đề nghị ông vượt ngục  (cf. Criton de Platon). Trong tù, ông  tự nhiên như không vì cho rằng chết như vậy là giải thoát . Ngày ông uống thuốc độc, ông  dành những giờ phút cuối cùng (Platon) để  đối thoại với các bạn ông về sự bất diệt của  tâm hồn. Những lời này được ghi trong  Phédon của Platon. 
Trong tù, ông  tự nhiên như không vì cho rằng chết như vậy là giải thoát. Ông bình tĩnh bàn về  sự bất diệt của linh hồn rồi bưng ly thuốc độc uống  bình thản trong lúc các học trò ông đau đớn khóc lóc.
Về sự biện hộ của ông trước tòa án, sự từ chối vượt ngục, can đảm uống ly thuốc độc, Platon đã  viết lại bằng ba vài văn có giá trị: l'Apologie, le Créton và le Phédon.
Công trình:
Socrate không  viết sách mà chỉ  dạy người dân Athènes trực tiếp nên tuy được xem là một trong những  hiền triét lớn của Hy Lạp. Nhưng những tư tưởng của  ông đã được Platon, Xéphonon và Aristote  ghi chép và để lại:
Tóm tắt tư tưởng của Socrate:
1) Hãy tự biết lấy chính mình (Connais-toi toi-même)
Theo ông, sự tự hiểu biết sẽ làm cho con người sống theo lẽ phải tức là sống đạo đức.
2) Con người không hề muốn hung ác tàn bạo 
3) Việc gọi là tốt khi nó nó ích (le bien réduit à l'utile)
4) Ðạo đức là khoa học là lối sống (La vertu réduit çà la science)
5) Hạnh phúc có được khi nó dung hòa với đạo đức
6) Ðiều bị bắt buộc phải làm cũng là điều hữu ích

Cách giảng dạy:
Ông không có trường lớp. Trường của ông là agora, nơi công cộng  tại các chợ ngày xưa. Ông nói chuyện với mọi người, bàn về  những việc hàng ngày. Ông nói là ông có sứ mệnh của thần linh là dạy dỗ người cùng thời  và không được làm nghề gì khác (Platon) nên ông chấp nhận sống nghèo, giảng dạy không công cho  mọi người.
Phương pháp dạy của ông là đàm thoại, gồm hai phần:
1) Phần hỏi và trả lời cho đến khi  người đối thoại nhận thức là mình sai
2) Phần biện  pháp:  Ông giúp cho người đối thoại hiểu và tự tìm lấy câu trả lời. Ông nói: "Mẹ tôi  đỡ đẻ cho  sản phụ, còn tôi đỡ đẻ cho  những  bộ óc"

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Võ Thị Diệu Hằng
 
 
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm

   







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét