Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019

Nhái Thơ Cụ Nguyễn Thượng Hiền


Hỏi Hoa 

Hỏi hoa xin mượn mùi hương
Hỏi trăng xin mượn gương vàng thử soi
Hỏi non xin mượn đá ngồi
Hỏi sông mượn nước tắm chơi sạch mình
                            Nguyễn thượng Hiền

Nhái Thơ :

Hỏi trăng trăng chẳng trả lời
Hỏi hoa hoa chỉ mỉm cười làm ngơ
Hỏi sông sông lặng như tờ
Hỏi non non đứng trơ trơ một mình
                     Viên Giác Thiền Sư

Hỏi sông sông chỉ lững lờ
Hỏi non ngạo nghễ trơ trơ một mình
Hỏi trăng nghiêng ngả đầu ghềnh
Hỏi hoa xin chút hương trinh hoa cười
                            Chân Diện Mục    

Hỏi hoa khoe sắc vì ai
Hỏi trăng mòn mỏi đêm dài tìm chi
Hỏi non sao mãi xuân thì
Hỏi sông sao nước mãi đi không về.
                                   Quên Đi
***

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Nỗi Buồn Của Táo



      Nỗi Buồn Của Táo

Gia chủ nghèo nên tiễn muộn màng
Chép còi cỡi đỡ biệt trần gian
Cổng trời bị chận đòi lo lót
Mặt Táo méo ra thiệt phủ phàng
Vào đến thiên đình đà quá trễ
Khiến cho tấu sớ hết trình làng
Ra về lòng dạ đau như cắt
Tố cáo chẳng xong hết chuyện bàn.
                                     Quên Đi
***

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2019

Xuân


Bài Thơ Xướng

               Xuân

Khoát lên áo mới thật xinh tươi
Cây cỏ xanh non sắc tuyệt vời
Hệt kéo ta về vùng nắng ấm
Như mời bạn tới chốn vui chơi
Xem hoa mai hé xem đào nở
Ngắm dáng em đi dáng bậu cười
Trọn vẹn tình nhân cho cuộc sống
Xin chào xuân nhé mến yêu ơi.
                          Thái Huy

Bài Thơ Họa

             Chờ Xuân

Những nụ hoa như sắp mỉm cười
Chờ nàng xuân đến để khoe tươi
Cội mai khóm cúc dường say ngủ
Cánh bướm chàng ong ngại ghé chơi
Anh chợt thấy giờ sao trống vắng
Vì em càng lúc lại xa vời
Tết nay có lẽ không tương ngộ
Nên chỉ khẽ khàng tiếng bậu ơi.
                                   Quên Đi

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2019

Mẫu Chuyện Về Táo Quân

Trong ngày tiễn Táo, Xin gởi đến bài sưu tập trước đây:

  Mẫu Chuyện Về Táo Quân 



Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.
Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể. Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống.
Càng tiến dần vào trong Nam thì tục cúng ông Táo về trời có một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả.

Theo truyền thuyết, thần Táo cỡi cá chép về chầu Ngọc Hoàng. Trong các món đồ cúng ông Táo có món cá chép còn sống bơi trong chậu nước để ông Táo dùng làm phương tiện di chuyển về trời. Tại sao Thần Táo lại cưỡi cá chép? Ông Táo có thể cỡi cá chép bay về trời vì cá chép có thể hóa ra rồng bay lên mây, lên trời được. Cá chép “hóa rồng” thấy qua câu ca dao sau này:

Bao giờ cá chép hóa rồng,
Bõ công cha mẹ bế bồng ngày xưa.

Theo truyền thuyết thì:   

Mồng bốn cá đi ăn thề,
Mồng tám cá về, cá vượt Vũ-môn.


Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy trang đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con
.


Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế.
Biểu tượng Táo Quân (Hỏa)
cưỡi trên lưng cá chép (Thủy).
Thiên Nhất Sinh Thuỷ: Cá thuộc hành Thủy, tượng của quẻ Khảm:
 

Táo thuộc lửa mạng hoả, tượng của quẻ Ly


Địa Lục Thành Chi : hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị Tế trong Kinh Dịch. ( Quẻ Khảm nằm trên, Quẻ Ly nằm dưới )

Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc và chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là tinh thần của quẻ Vị Tế.
( Theo http://tuanvietnam.net )
Sự tích ông Táo cưỡi cá chép lên trời
Ngày xửa ngày xưa rõ là lâu rồi nhé các ông Táo chưa biết cưỡi cá chép lên trời, nên toàn phải leo cầu thang bộ lên trời , mất rất nhiều thời gian. Có khi đến hết tết rồi mà ông Táo vẫn chưa về đến trần gian để ăn cỗ cùng các gia đình…
Cá chép thấy thế thì thương các ông Táo lắm, bèn nghĩ cách để giúp ông Táo lên trời.
Truyền thuyết kể rằng ở Vũ môn, tức nơi giáp ranh giữa các con sông và biển có một Gò Sóng dữ, rất cao…
Nếu có con cá nào dũng cảm nhảy qua được Gò Sóng đó thì sẽ được tặng một đôi cánh và hóa rồng bay lên…
Thế là Cá chép quyết tâm sẽ nhảy qua được Gò Sóng để hóa rồng đưa các ông Táo lên trời…
Chú cá Chép bé nhỏ, cứ bơi mãi, bơi mãi theo dòng sông, hết một mùa sấu chín mời đến cuối cửa sông…
Ở đây rất ồn ào, tiếng sóng biển ầm ào xô ngược dòng nước vào sông mặn chan chát, tiếng những chú cá voi gầm gừ mê ngủ và cả tiếng gào của những con cá Mập to con và nhút nhát…
Chú cá chép bé nhỏ chững lại một chút, nhưng chú lại nhớ tới hình ảnh những ông Táo mồ hôi nhễ nhại leo thang lên trời để đi báo cáo thành tích cho những gia đình dưới hạ giới, chú lại quyết tâm thử sức mình…
Chú cứ vẫy mãi những chiếc vây bé nhỏ, cố nhảy qua Gò Sóng dữ, nhưng mãi không vượt qua nổi….
Cứ thế, cứ thế, chú làm đi làm lại nhiều lần, càng ngày càng nhảy cao hơn, nhưng vẫn chưa vượt qua được Gò Sóng…
Gần như nản chí, chú cá chép bé nhỏ quay lại, bơi ngược dòng nước, lòng buồn vô hạn, chú nghĩ rằng, mình sẽ chẳng bao giờ giúp được những ông Táo quân đáng kính…
Bỗng nhiên, chú chợt nhớ lại lời mẹ dặn mỗi khi chú bước chân khỏi nhà “Cá chép xinh của mẹ, không có việc gì trên đời là khó, nếu ta có một lòng quyết tâm mạnh mẽ từ trong sâu thẳm trái tim”.
Thế là Cá chép nhỏ quay ngược lại, lấy hết sức mình bơi theo dòng nước và đến cửa sông, chú quẫy mình xoay một vòng, ưỡn lưng, nhảy vọt qua Gò Sóng…
Oa, thật là tuyệt, chú cá bé nhỏ đã nhảy vượt qua Gò Sóng, và ngay lập tức, bầu trời hiện lên những chiếc cầu vồng bảy sắc, và trên lưng chú cá chép mọc lên một đôi cánh.
Khi chú cá chép nhỏ, hít một hơi thật sâu đầy lồng ngực không khí giữa bầu trời, thì thân thể chú bỗng lấp lánh những sắc màu óng ánh, chú dài ra, to ra và hóa thành một con rồng ngũ sắc xinh đẹp tuyệt vời…
Chú quẫy đuôi (vì chưa quen mình là rồng) và bay ngược về nơi các ông Táo đang đứng chờ, nhẹ nhàng đáp xuống để các ông Táo lên lưng và bay vút vào tầng không, kịp đưa các ông Táo lên trời báo cáo…
Thế là từ đó trở đi, mỗi dịp xuân về, khi các ông Táo lên trời báo cáo, các chú cá chép sẽ được đi theo cùng, để hóa rồng, chở các ông Táo lên trời.
( Theo http://kienthucgiadinh.com.vn )



Vì Sao Táo Việt Không Mặc Quần?

Truyền thuyết kể lại rằng ông Táo ở truồng không mặc quần. Ông Táo chỉ đội mũ, đi hia không mặc quần như thấy qua câu thơ của một nhà văn:  

Đội mũ đi hia, chẳng mặc quần.

Tranh ảnh, hình vẽ, đồ mã diễn tả ông Táo không bao giờ có quần. Câu ca dao dưới đây cho thấy ông Táo ở trong bếp  “ít mặc”,  không cần mặc quần và ở trong bếp nên cũng không phải lo về vấn đề ăn uống. Ông Táo không phải lo ăn, lo mặc nên chẳng phải lo gì nhiều so với ông Cả:

Ông Cả ngồi trên sập vàng,
Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo.
Ông Bếp ngồi trong đống tro,

Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.

Bức tranh dân gian Việt ở trên vẽ ba vị Táo Quân, đều mặc quần nghiêm chỉnh, với những hàng chữ Hán phía trên. Bức tranh này hẳn được sáng tác kể hàng ngàn năm sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở miến Nam sông Dương Tử. Bởi vì, trong phong tục còn giữ lại được đến ngày nay trong dân gian Việt thì Táo Quân không mặc quần. Điều này cũng giống như hàng ngàn năm trôi qua, những con rối nước trong văn hóa dân gian Việt được vẽ cái vạt áo bên phải vậy. Hiếm lắm, trong kho tàng chất những con rối nước cổ bỏ đi, may ra còn những con rối xưa cài vạt áo bên trái. Vậy Táo Quân không mặc quần có ý nghĩa gì trong truyền thống Việt?
Lịch sử Trung Hoa ghi lại: Chính cái quần là của các dân tộc phía Bắc Trung Hoa và không thuộc về y phục Hán cổ. Vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc, Triệu Vũ Vương mới đưa cái quần vào làm y phục chính thức của nước Triệu. Và y phục này thích hợp với các chiến binh trong các cuộc chiến liên miên giữa các quốc gia so với vải quây che phần thần dưới trước đó. Sau này chiếc quần mới phổ biến trong thất Quốc và do các chiến binh mặc và trở thánh y phục của Trung Hoa. Nhưng Người Việt, với tư cách là một nhà nước độc lập ở Nam Dương Tử, tất nhiên không thể tiếp thu một cách nhanh chóng y phục quần của các dân tộc phi Hán ở Phương Bắc Trung Quốc. Điều này cho thấy rằng: Phong Tục thờ Táo Quân phải có từ rất lâu, trước cả khi dân tộc Hán bị xâm nhập văn hóa mắc quần của các dân tộc phái Bắc này và còn giữ đến bây giờ. Và điều này như tôi đã phân tích ở trên: Nó phải có trước thời Vua Hùng Vương Thứ VI quyết định dùng bánh Chưng bánh Dầy vào lễ Tết của dân tộc Việt. Còn nếu như thời Hùng Vương chỉ ra đời vào Thiên Niên kỷ thứ nhất trước CN và Tết Việt Nam là văn hóa Hán là chủ nhân đích thực của văn hóa Đông phương thì ông Táo Việt đã mặc quần như bức tranh dân gian sáng tác về sau này mà bạn đọc đã nhìn thấy ở trên.
Qua sự minh chứng và phân tích ở trên, chúng ta cũng nhận thấy rằng: Đằng sau một phong tục cổ truyền của dân tộc Việt - tục cúng "Ông Táo về trời" là cả một sự minh triết liên quan chặt chẽ đến nền Lý học Đông phương - mà từ lâu tôi đã minh chứng - thuộc về nền văn hiến huyền vĩ Việt, một thời huy hoàng ở miến Nam sông Dương Tử. Có thể nói rằng: Không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng khớp hợp lý gần như toàn bộ những nét chính của phong tục cúng ông Công, ông Táo với những quan niệm có tính nguyên lý của Học thuật cổ Đông phương. Sở dĩ có sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ này, chính vì nó là hệ quả của nền minh Đông Phương thuộc về nền văn hiến Việt được đưa vào cuộc sống văn hóa Việt qua phong tục cúng đưa "Ông Công, Ông Táo về trời".
Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Khí chính chiếc mũ Ông Công, Ông Táo được bán đầy ở khắp kẻ chợ , thôn quê ngày nay lại là một hình tượng được cách điệu bằng giấy của chiếc mũ các vua Hùng trên trống đồng Lạc Việt


Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm và Biên Khảo

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2019

Sông Ngòi Và Kinh Rạch Vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định Phần Chú Thích




Chú Thích:


(1)      Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, trang 390 quyển I, ông Huỳnh Tịnh Của nói rằng Sài Gòn tên của một xứ thuộc đất Gia Định. Nhưng cũng theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, trang 280, quyển II, Sài Gòn là tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.

(2)      Theo Vương Hồng Sển trong “Sài Gòn Năm Xưa”, Sài Gòn: NXB Xuân Thu, 1960, tr. 31-51.
                                                                    
(3)     Tiếng Khmer, “Đao” có nghĩa là mây.

(4)       Vào thế kỷ thứ VIII, vương quốc Chân Lạp được chia ra làm hai khu vực rõ rệt, khu vực cao ráo là Lục Chân Lạp và khu vực trũng thấp là Thủy Chân Lạp. Khu vực khô ráo nằm về phía Bắc, với những gò đồi cao, nguồn nước trong sạch, và khí hậu hiền hòa. Nhà vua đặt toàn bộ kinh đô và hệ thống hành chánh trong khu vụ nầy, trong khi khu Thủy Chân Lạp thì trũng thấp, hoang vu, phần lớn được bao quanh bởi biển cả, và hầu như không có cư dân. Vào thế kỷ thứ XIV, vương quốc Chân Lạp bị quân Mã Lai và Xiêm La đánh phá dữ dội; sau những trận đánh phá nầy, thế lực Chân Lạp bị suy yếu rõ rệt, một số binh lính và dân chúng sợ hãi đã bỏ chạy trốn về vùng hoang vu Thủy Chân Lạp. Kể từ đó, vùng rừng rậm Thủy Chân Lạp mới bắt đầu có một ít cư dân.
(5)     Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XVII.

(6)     Thuộc tỉnh Svayrieng của Cao Miên ngày nay.

(7)     Vùng đất nay thuộc Cao Miên nằm về biên giới phía Bắc của Hà Tiên.

(8)     Sử Việt ghi là Nặc Ong Thu Đệ Nhị.

(9)      Hai đồn thu thuế ở Prei Nokor tức Chợ Lớn bây giờ, và ở Kas Krobei tức vùng Bến Nghé, hay trung tâm Sài Gòn ngày nay. Đây là vùng rừng rậm hoang vu, nhưng lại là địa điểm qua lại thường xuyên của các thương nhân Việt Nam trên đường đi Cao Miên và Xiêm La. Ít lâu sau đó, hai trạm thu thuế nầy biến thành hai khu thị tứ trên bến dưới thuyền, buôn bán tấp nập, công nghiệp và nông nghiệp trong vùng cũng phát triển rất nhanh.
(10)  Tức công nữ Ngọc Vạn.

(11)  Nay là thành phố HCM.

(12)  Ngay trước thế kỷ thứ nhất Tây lịch.

(13)  Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI.

(14)  Khoảng thế kỷ thứ VI và thứ VII.

(15)  Khoảng thế kỷ thứ VIII.

(16)  Từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XII.

(17)  Sau thế kỷ thứ XII.

(18)     Di vật khai quật được ở Phú Hòa, thuộc lưu vực Đồng Nai, cho thấy kiểu dáng đồ trang sức tại đây như những khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai 3 mấu, và hạt chuỗi mã não, vân vân. Đây là những sản phẩm được sản xuất tại Cần Giờ với những nguyên vật liệu được nhập cảng từ các nơi khác như đá quí, mã não. Những thứ mà cảng Cần Giờ có thể sản xuất tại chỗ như những nguyên liệu ốc xa cừ, vỏ ốc, vỏ hàu, và thủy tinh. Tuy nhiên, qua di vật người ta có thể tìm thấy một số mang những đường nét văn minh Ấn Độ, và một số khác mang dấp dáng và phong cách Sa Huỳnh. Đặc biệt tại vùng Phú Hòa, thuộc lưu vực sông Đồng Nai, người ta đã khai quật được 28 khuyên tai hai đầu thú bằng đá ngọc và thủy tinh, đây là loại trang sức độc đáo mà trước đây được xem như là đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh, vùng biển giữa Quảng Ngãi và Bình Định. Tuy nhiên, theo các khám phá mới đây tại Cần Giờ, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã đưa ra một giả thuyết mới về nguồn gốc của loại trang sức nầy, rất có thể những đồ trang sức đã khai quật được trong nhiều khu mộ táng tại các hải đảo cũng như trên lục địa vùng Đông Nam Á có nguồn gốc từ vùng cảng Cần Giờ.

(19)     Vào cuối thế kỷ thứ XIX, qua những khai quật khảo cổ, người ta đã tìm thấy những di chỉ từ thời đại đồ đá cũ và rất nhiều di chỉ thời đồ đá mới sang đến thời đại kim khí, vân vân. Như vậy vùng Sài Gòn Gia Định đã có cư dân từ thời nguyên thủy đến văn minh Óc Eo, hậu Óc Eo, được nối tiếp với văn minh Việt Nam mang đến từ những lưu dân đi khai khẩn vùng đất nầy từ thế kỷ thứ XVII. Về phương diện địa chất học, vùng Phiên Trấn nằm trên hai vùng phù sa cổ và mới. Khu vực phù sa cũ chạy dài từ Tây Ninh xuống Sài Gòn, có cấu trúc địa chất giống như miền Đông Nam Phần. Trong khi vùng phía Nam Sài Gòn, từ Sài Gòn chạy dài xuống Nhà Bè là một vùng đất thấp với cấu trúc phù sa mới. Đây là vùng sình lầy, trũng nước, ngập mặn quanh năm, chịu ảnh hưởng thủy triều và gió mùa giống như miền tây Nam Phần. Như vậy vùng Prei Nokor vừa có cấu trúc địa chất cổ đại mà cũng vừa cận đại. Và cư dân cũng tuần tự lan tràn trong vùng theo sau
sự hình thành và cấu trúc địa chất, nghĩa là ở đâu đất đai được thành hình là ở đó có cư dân. Ngay từ thời nguyên thủy của vùng đất nầy đã có cư dân trú ngụ, đến những thế kỷ sau Tây lịch, vùng đất nầy đã có một nền văn minh rực rỡ, đó là văn minh Óc Eo, rồi hậu Óc Eo sau khi chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo đột nhiên biến mất khỏi vùng đất nầy. Sau đó người Khmer đã tràn xuống cư ngụ trên vùng đất nầy cho mãi đến thế kỷ thứ XVII. Nhưng trên thực tế, theo Chân Lạp Phong Thổ Ký của Châu Đạt Quan, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn và Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, từ thế kỷ thứ 14 cho mãi đến đầu thế kỷ thứ XVII, hầu hết vùng đất nầy hãy còn hoang vu, với cây rừng rậm rạp, đầm lầy ẩm thấp, lại thêm sơn lam chướng khí và thú dữ hoành hành. Ngay tại vùng mà bây giờ thuộc huyện Hóc Môn, vào cuối thế kỷ thứ XVII hãy còn rất nhiều cọp và cá sấu dữ, thường xuyên bắt hay ăn thịt người, nên có câu “dữ như cọp vườn trầu” hay “ác như sấu Vũng Gấm” vân vân.

(20)     Vì từ thế kỷ thứ XII trở đi sự tranh chấp và chiến tranh giữa các vương quốc cổ trong vùng có khuynh hướng lan rộng, nhất là giữa Chân Lạp và Champa, giữa Champa và Đại Việt, đồng thời vương quốc Xiêm La cũng bắt đầu mở rộng lãnh thổ của mình. Vùng Prei Nokor nằm trên lằn ranh của các cuộc tranh chấp nầy. Cho đến thế kỷ thứ XVI, thì các chúa Nguyễn bắt đầu tìm cách gây ảnh hưởng của mình với vương quốc Chân Lạp. Những cuộc tranh chấp vừa kể đã làm xáo trộn không nhỏ trong sự cư trú của các cộng đồng cư dân cổ tại đây. Họ không thể nằm yên để chịu trận ở Prei Nokor, mà tìm cách lẩn trốn vào các vùng rừng núi Tây Nguyên. Chính vì thế mà trong suốt nhiều thế kỷ, vùng Prei Nokor đã trở thành những khu rừng rậm hoang vu vô chủ. Theo những di chỉ khảo cổ tìm được cho thấy từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XVII, chỉ có rất ít cư dân cổ còn bám trụ tại các vùng Vũng Tàu, Bà Rịa và Prei Nokor.
(21)      Đồng bằng sông Mê Nam là nơi lập quốc của vương quốc Xiêm La kể từ thế kỷ thứ VII, sau nầy đổi tên làm Thái Lan vào năm 1939. Cố đô Ayuthia được xây dựng trên một khúc quanh của sông Mê Nam. Theo bản đồ mà giáo sĩ Loubère đã vẽ ra từ năm 1687 thì kinh đô Ayuthia nằm trên một hòn đảo lớn, giữa hai nhánh sông Mê Nam. Đường sá, cầu cống, phố chợ và lâu đài được ghi lại rất rõ ràng, với những ghi chú minh bạch như thành phố, cung điện, bến cảng, xưởng hải quân, xưởng ghe thuyền, phố thi, và chủng viện, vân vân. Chung quanh đảo có những khu dành riêng cho người Xiêm và người ngoại quốc. Người Xiêm ở phía bắc và tây bắc, người Hoa ở phía đông, người Việt, Mã Lai, Nhật Bản, Hòa Lan, và Bồ Đào Nha ở phía nam... Nơi người Việt ở cũng là một cù lao khá rộng, việc đi lại rất thuận tiện, qua sông là tới kinh đô và phố thị ngay. Như vậy, ngay từ cuối thế kỷ thứ XVII, cư dân Việt Nam đã định cư tại Ayuthia khá đông lắm rồi, vì trên bản đồ Loubère ghi rất rõ ràng về khu Cochinchinois của xứ Đàng Trong tại Ayuthia. Ngoài cố đô Ayuthia, cũng có khá nhiều người Việt tới định cư Chantaburi và Bangkok.
(22)  Còn gọi là mọi Mạ, mọi Stiêng, mọi Mnông, Cơ ho, hay mọi Chu Ru.

(23)   Biên Niên Sử Khmer ghi: “Năm 1618, vua Chey Chetta II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại Udong, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một công chúa Việt Nam rất xinh đẹp, con của chúa Nguyễn. Hoàng hậu Samdach cho đem theo nhiều người đồng hương tới Chân Lạp, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ công, và có người buôn bán hay vận chuyển hàng hóa.”

(24)     Theo một giáo sĩ người Ý tên Christoforo Bori, người sống tại vùng Nước Mặn, thuộc Qui Nhơn trong khoảng thời gian từ năm 1622 đến 1681, đã ghi lại trong nhật ký như sau: “Chúa Nguyễn phải chăm lo việc tập trận và gởi quân sang giúp vua Chân Lạp, cũng là chàng rể của chúa

Nguyễn. Chúa viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm.”

Christoforo Bori cũng mô tả khá tỉ mỉ về việc sứ bộ của chúa Nguyễn đến Udong vào năm 1620 như sau: “Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng chỉ đứng sau chức tổng trấn. Trước khi lên đường, sứ thần đã dành nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận lệnh chúa Nguyễn. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và trang trí lộng lẫy. Khi sứ bộ đến Udong, thì dân chúng

Khmer, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản và Trung Hoa đã tụ hội đông đảo đến đón tiếp. Sứ thần là người đã lui tới Udong nhiều lần, và đã là đại diện thường trú từ lâu, chứ không phải mới tới đây lần đầu. Trong sứ bộ có rất nhiều kẻ hầu người hạ phục vụ sứ bộ, cũng như nhiều binh sĩ theo giữ an ninh.”

(25)     Đồn Dinh nằm trong thôn Tân Khai, sau gọi là chợ Điều Khiển, nằm về phía nam thành Phiên An khoảng 2,5 dặm. Theo bản đồ của Nguyễn văn Học, thời Gia Long, mặc dầu không có ghi chú bằng chữ, nhưng vẽ một vùng nhà cửa đông đúc. Tưởng cũng nên nhắc lại, vào năm 1623 thì đồn Dinh là một trong hai trạm thu thuế mà vua Chey Chetta II đã cho phép xứ Đàng Trong lập lên để đánh thuế và kiểm soát lưu dân người Việt. Về sau nầy đồn Dinh trở thành căn cứ quân sự và hành chánh đầu tiên của vùng đất phương Nam. Lúc đó quan Tham Mưu cư trú tại đồn Dinh, còn bên phía Tân Thuận có xây dựng dinh thự cho các quan Cai Bộ và Ký Lục. Năm 1775, Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Nam cũng tạm trú tại đồn Dinh.
(26)  Thời mới mở cõi về phương Nam thì những vùng biên địa được gọi là Trấn Biên.

(27)  Sử Việt Nam gọi là sự kiện Mô Xoài.

(28)     Sau đó chúa Hiền Vương lại đặt con trai thứ hai của bà Ngọc Vạn làm Nhị Vương và đóng đô ở Prey Nokor, tức là Sài Gòn bây giờ, tách rời hoàn toàn với Chân Lạp. Ít lâu sau đó Batom Reachea bị con rể giết chết để thoán ngôi, nhưng người con rể này lại bị con trưởng của Battom Reachea là Ang Chey giết chết được triều đình thân Xiêm đưa lên ngôi lấy hiệu là Nặc Ông Đài. Ông Đài lại kéo quân về đánh đuổi chú ruột của mình là Nặc Ông Nộn đang làm Nhị Vương ở Prey Nokor. Sau khi có sự can thiệp của quân đội nhà Nguyễn Nặc Ông Đài bị thua và bị chính triều đình Chân Lạp giết chết. Chúa Hiền Vương đưa em của Ông Đài là Nặc Thu về Nam Vang lên ngôi lấy hiệu là Chey Chetta IV với chủ trương hòa hoãn và thân thiện với triều đình Thuận Hóa. Nhờ đó mà công cuộc di dân của các chúa được tiến hành một cách tốt đẹp.
(29)  Nghĩa là hơn nửa thế kỷ sau ngày chúa Nguyễn lập đồn thu thuế ở Prei Nokor.

(30)  Đây là lần đầu tiên sử Việt Nam ghi là Sài Gòn chứ không ghi là Kas Krobei hay Prei Nokor như trước đây nữa.

(31)  Đồn binh nầy tọa lạc tại ấp Đậu. Hiện vẫn còn địa danh ấp Đậu thuộc khu Tân Mỹ, đồng Bà Nghè, và xóm Chợ Đậu gần đó, thuộc vùng Tân Uyên.

(32)  Thành La Bích, tiếng Khmer là Lovek, có lẽ là phần đất nằm giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay.

(33)  Bây giờ bao gồm các vùng Sài Gòn-Gia Định, Tân An, và Tây Ninh.

(34)     Mặc dầu khi ấy đất đai đã mở rộng khắp miền Đông Nam Phần, nhưng từ trước lưu dân đến đây do tự phát, chứ triều đình xứ Đàng Trong chưa có một kế hoạch khẩn hoang lập ấp chính thức nào.

Các chúa Nguyễn đã dùng chánh sách ‘tằm ăn dâu’, với dân làng đi trước, chánh quyền theo sau. Nhờ đó mà hầu hết các miền biên cảnh Nam Bộ đã được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam một cách êm thấm.

(35)  Lúc đó chỉ riêng vùng Sài Gòn đã có khoảng 20 ngàn cư dân Việt Nam, khoảng một phần ba tổng số người Việt đang cư trú trong vùng Đồng Nai.

(36)  Thuộc Thái Lan ngày nay.

(37)     Nguyễn Hữu Cảnh sanh năm 1650 tại xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Theo các nhà sử học, Nguyễn Hữu Cảnh chính là hậu duệ của Quốc Công Nguyễn Bặt dưới thời nhà Đinh, và cũng là cháu mấy đời của Nguyễn Trãi. Cha ông là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, người đã có công lớn với xứ Đàng Trong trong cuộc đối đầu với nhà Trịnh ở phía Bắc. Ông là một vị tướng văn võ toàn tài, một nhà quản lý hành chánh xuất sắc dưới thời Nguyễn Sơ. Ngay khi cha ông mất vào năm 1681, ông đã tích cực tham gia vào quân đội xứ Đàng Trong. Năm 1692, chúa Nguyễn sai ông đem quân đánh dẹp vua Champa là Bà Tranh ở Diên Ninh (Phú Yên ngày nay), rồi đổi tên vùng đất mới nầy ra làm Thuận Thành. Ông là vị quan Trấn Thủ đầu tiên của của trấn Thuận Thành. Ngay sau khi nhậm chức Trấn Thủ Thuận Thành, ông đã tổ chức cho dân chúng
khai hoang lập ấp, khiến trấn Thuận Thành ngày càng phát triển rất vững vàng. Chính ông là người đầu tiên đã khai sanh ra vùng đất phía Nam, và là người xây dựng một cách vững chắc hệ thống hành chánh đầu tiên ở Sài Gòn-Gia Định.

(38)   Về việc nầy chính Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Nông

Nại nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú. Lúc đầu thiết lập ba dinh, một dân đến ở, có đất ở hạt Phiên Trấn mà kiến trưng làm đất ở hạt Trấn Biên, hoặc có đất ở hạt Trấn Biên mà kiến trưng làm đất ở hạt Phiên Trấn, như vậy cũng tùy theo dân nguyện, không ràng buộc gì cả, cốt yếu là khiến dân mở đất khẩn hoang, chia thành điền, lập thành thôn xã mà thôi.”
(39)  Phủ Tây Ninh cũ.

(40)   Một phần của phủ Tân Bình cũ, tức là vùng Prey Nokor dưới thời Thủy Chân Lạp.

(41)  Một phần của phủ Tân Bình cũ.

(42)     Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, có thể họ là những lưu dân từ các vùng Thuận Quảng đến đây ngay từ thời Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ Thuận Hóa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn thì xứ Mô Xoài Bà Rịa là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là vùng người lưu dân Việt Nam đầu tiên đặt chân vào để khai phá mở mang từ các tiên hoàng đế triều Nguyễn. Có lẽ họ vào Nam bằng những thuyền buồm hay những ghe bầu, dọc theo đường biển, vào các cửa Cần Giờ, Soài Rạp, Tiểu, Đại, vân vân, nhưng chỉ một số tiến lên được đến vùng Mô Xoài Bà Rịa mà thôi vì vào thời đó các cửa Soài Rạp, Tiểu và Đại hãy còn là những bãi đất cạn chứ không thông thương như bây giờ. Đại Nam Lược Truyện, quyển 1, đã ghi rõ: “Nguyễn Hữu
Cảnh chiêu mộ dân sơ tán từ châu Bố Chánh, nay là Quảng Bình, trở vào Nam vào hai vùng Trấn Biên và Phiên Trấn để khai khẩn đất hoang. Sau đó, ông cho đặt thôn, xã, phường, ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh.”

(43)  Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ.

(44)  Nay là chợ Điều Khiển.

(45)   Nơi nầy sau được gọi là Đồn Dinh ở Sài Gòn. Theo tài liệu của bàn dịch Pháp văn của Gaspardone, dịch ra từ bản chữ Hán của Trịnh Hoài Đức. Bản chép tay có số A. 708 q. 9-4, fo 12 của trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Theo nhà khảo cổ Louis Malleret thì vị trí của Đồn Dinh ở khoảng đường Lê văn Duyệt. Tuy nhiên, theo Đại Nam Nhất Thống Chí nói, Đồn Dinh từ xóm Tân Mỹ được dời về xóm Tân Thuận. Theo đó, ông Louis Malleret kết luận rằng Đồn Dinh nằm trong địa phận huyện Tân Bình.
(46)  Tức Chợ Lớn cũ.

(47)  Tức Chợ Thiếc hay Chợ Phó Cơ Điều.

(48)     Chợ Bến Thành bây giờ chỉ mới được xây lại vào khoảng những năm 1903 hay 1904 mà thôi.

(49)     Theo Gia Định Thành Thông Chí, Tập hạ, trang 114: “Sau khi Thành Qui được xây đắp thì dân cư

đông đúc; phố chợ san sát; nhà tường, nhà ngói liên tiếp nhau. Tàu ghe từ ngoài biển đến buôn bán qua lại, cột buồm liền lạc, xưng là xứ đô hội, cả nước không đâu sánh bằng.” Còn theo Nam Phong Tạp Chí, số 77 tháng 11 năm 1923, trong một “Bài Phú Cổ Gia Định”, không rõ tác giả, nói về đất đai và phong cảnh Gia Định trước thời Pháp chiếm Nam Kỳ, từ chợ Bến Thành, Chợ Sỏi, Chợ Lớn, Chợ Gạo, Lò Gốm, Cây Gõ, Phú Lâm, Cầu Bông, Thị Nghè, Gò Vấp, vv... từ đường sá, xóm làng, nhà cửa, phố phường, đình chùa, miếu mạo, ngay cả sinh hoạt trên bến dưới thuyền rất đầy đủ. Tàu bè các nước lui tới buôn bán tấp nập. Đây quả là một tài liệu vô cùng quí giá cho những ai muốn biết đến sinh hoạt của người dân đất phương Nam hơn hai thế kỷ về trước.
(50)  Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà Tiên.

(51)  Phó Tổng Trấn.

(52)  Tương ứng với ba bộ Hộ-Binh-Hình.

(53)  Tương ứng với ba bộ Công-Lại-Lễ.

(54)  Ngày nay là các quận 1, 3, 10, Tân Bình, Phú Nhuận, Bình Thạnh, 4, 12, huyện Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ, và Nhà Bè.
(55)  Ngày nay là các quận 5, 11, 6, 8, huyện Bình Chánh, một phần của huyện Nhà Bè, Bình An, quận 9, 2, và huyện Thủ Đức.

(56)  Thành Gia Định.

(57)   Đây là khu chợ Bến Thành Cũ, chứ không phải là chợ Bến Thành ngày nay. Chợ Bến Thành bây giờ chỉ mới được xây lại vào khoảng những năm 1903 hay 1904 mà thôi.
(58)  Bây giờ có tên là rạch Bến Nghé.

(59)  Phần sông Đồng Nai chảy vào địa phận quận Nhà Bè, dài khoảng 9 cây số.

(60)  Còn có tên là Langbiang, một cao nguyên cao trên 1.500 mét.

(61)  Vùng Bảo Lộc.

(62)     Có sách viết là Lòng Tàu, đây là một thủy lộ quan trọng cho tàu bè đi vào thương cảng Sài Gòn.

(63)  Người Gò Công quen gọi là cửa Vàm Láng.

(64)  Dân Sài Gòn gọi là kinh Ruột Ngựa.

(65)   Theo Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông Chí”, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, NXB

Tổng Hợp Đồng Nai, TPHCM, 2005, tr. 114.

(66)  Tức là Gia Định Thành.

(67)  Nay là sông Sài Gòn.

(68)  Sau nầy là Kinh Bảo Định, được Nguyễn Cửu Vân nạo vét và đào rộng ra.

(69)  Thành Gia Định.

(70)  Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, thì lần nầy người Hoa chết cả hơn 10 ngàn người.


-------------






Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
Đất Phương Nam Quyển 1