Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019

Di Tích Lịch Sử Trong Tỉnh Tân An - Đất Phương Nam 1 (TT)


Thật tình mà nói, không riêng gì Tân An, mà cả miền Nam trong thời mở cõi, đi đâu đến đâu chúng ta cũng thấy những di tích của một thời tiền nhân đi khai phá. 
Như vùng Vũng Gù của Tân An chẳng hạn, một thời đã là chiến trường ác liệt giữa quân Cao Miên và quân ta. Năm 1731, một người Cao Miên(34) tên là Sa Tốt (PreaSot) nổi lên tự xưng là ‘Thiên Ứng’ ở đất Banam. Y đã khích động người Cao Miên nổi lên chém giết không biết bao nhiêu người Việt. Chúa Nguyễn sai quan Điều Khiển Trương Phúc Vĩnh đem quân vào chặn đánh Sa Tốt tại vùng phía Nam Sài Gòn, Cai cơ Đạt Thành mang quân xuống vùng Bến Lức tiếp cứu, nhưng bị giặc giết chết tại Bến Lức. Sau đó Cai đội Nguyễn cửu Triêm(35) đem quân tới Vũng Gù đánh tan quân Sa Tốt, tàn quân Sa Tốt chạy về Hóc Môn liền bị quân của tướng Trần Đại Định(36) đánh tan tại đây.
Năm 1861, cũng chính tại vùng Bến Lức nầy đã xảy ra một sự kiện ‘hi hữu’, đó là sự kiện anh hùng Nguyễn Trung Trực, với vũ khí thô sơ, đã dùng những chiếc xuồng câu nhỏ trên sông, lập mưu đốt cháy chiếc tàu Espérance của Pháp ngay trên Vàm sông Nhựt Tảo. Anh hùng Nguyễn trung Trực tên thật là Nguyễn văn Lịch, sau khi Pháp chiếm tỉnh Gia Định và các tỉnh miền Đông, ông đã đứng lên hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến, mộ quân sĩ và đánh chiếm một vùng bưng biền rộng lớn tại Tân An, chạy dài từ Nhựt Tảo, qua Bến Lức, Thủ Thừa, Cần Giuộc... đã gây cho Pháp nhiều tổn thất đáng kể. Đến tháng 6 năm 1861, thực dân Pháp quyết định tiêu diệt nghĩa quân, nên họ đã đưa chiếc hạm lớn Espérance đến tuần tiễu trên vàm sông Nhựt Tảo. Cuối năm 1861, Nguyễn Trung Trực đã đốt tàu giặc bằng một đám cưới giả đi ngang qua tàu, với 2 chiếc ghe chở khoảng 30 quân cảm tử. Khi lính Pháp trên tàu bắt ghe phải ngừng lại trình giấy, thì bất thần nghĩa quân tấn công làm cho lính Pháp không kịp trở tay, đa số lính Pháp phải nhảy xuống sông tẩu thoát. Quân cảm tử bèn phóng hỏa đốt rụi tàu rồi rút lui vào vùng an toàn. Sau đó người anh hùng Nguyễn Trung Trực còn gây nhiều nỗi bất an cho Pháp khi ông lập chiến khu tại các vùng Hà Tiên, Rạch Giá và Phú Quốc, và hạ được cả thành Rạch Giá nữa. Nhà thơ Phan văn Trị đã cảm tác 2 câu liễn về người anh hùng Nguyễn trung Trực như sau:

“Hỏa hồng Nhật Tảo, oanh thiên địa, 
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần.”

Ngày nay tại xã Khánh Hậu, cách thị xã Tân An chừng 4 cây số có lăng miếu thờ ông Nguyễn Huỳnh Đức, một công thần thời nhà Nguyễn. Nguyễn Huỳnh Đức người huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường, nguyên họ Huỳnh, nhưng từ khi theo Nguyễn Ánh được ban cho quốc tính ‘Nguyễn’. Thoạt đầu ông theo Đỗ Thành Nhơn, sau khi Nguyễn Ánh sát hại Đỗ Thành Nhơn, ông được Nguyễn Ánh tin dùng. Năm 1782, ông bị quân Tây Sơn bắt làm tù binh, Nguyễn Huệ thấy ông tài giỏi, muốn thu dùng. Năm 1786, khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, ông cho Nguyễn Huỳnh Đức đi theo, sau đó cho Đức đóng quân lại ở Nghệ An. Huỳnh Đức biết viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn văn Duệ, trước là tướng của Nguyễn Nhạc, nên xúi Duệ theo đường thượng đạo về Qui Nhơn theo Nhạc. Duệ nghe lời Huỳnh Đức, bèn sai Đức đem 500 quân đi trước. Huỳnh Đức nhân cơ hội đó đã đi thẳng qua Xiêm. Khi tới Xiêm thì Nguyễn Ánh đã trở về Gia Định. Nguyễn Ánh hay tin, bèn cho người đến Xiêm rước Huỳnh Đức về Gia Định. Huỳnh Đức về tới Việt Nam vào năm 1789, được Nguyễn Ánh phong làm Chưởng cơ giám quân trung dinh. Đến năm 1790 được đổi qua làm Quản hữu quân dinh. Năm 1793 được thăng Chưởng Hữu quân Bình Tây Phó Tướng quân dưới quyền Tướng Tôn Thất Hội. Đến năm 1802, sau khi hạ được thành Qui Nhơn, Huỳnh Đức được phong tước Quận Công, trấn thủ Qui Nhơn. Năm 1808, cùng Lê Chất đáp con đường quan lộ từ Quảng Nam đến Phú Yên. Năm 1810, làm Tổng trấn Bắc Thành. Năm 1812, về kinh giữ chức Khâm Sai Chưởng Cơ Tiền Quân. Năm 1816 thay Lê văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định Thành. Ông mất năm 1819. Hiện lăng mộ, đền thờ và nền nhà cũ của quan Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức hãy còn tương đối nguyên vẹn tại thị xã Long An, vì được dân địa phương và con cháu của ngài bảo quản rất chu đáo.
Nói đến di tích lịch sử trong vùng Long An là phải nói đến ngôi chùa Linh Sơn. Chùa tọa lạc tại vùng Rạch Núi, nằm trong làng Đông Thạnh, khoảng giáp ranh với làng Phước Vĩnh Tây. Tại đây có một đồi đất đỏ, cao khoảng 15 mét, dưới chân có con rạch chảy qua, nên dân trong vùng gọi là ‘Rạch Núi’. Trên đồi có nhiều cây me già. Phía trước hãy còn một cái hồ lạn và miếu ông Thổ Địa(37). Trên đỉnh đồi là chùa Linh Sơn. Chùa do Hòa Thượng Minh Nghĩa khai sáng vào giữa thế kỷ thứ 19. Trong chùa hiện còn trên 100 bức tượng cổ làm bằng gỗ quý.
Ngoài ra, về di tích lịch sử, tại Tân An hiện còn ba ngôi chùa cổ, một là chùa Tôn Thạnh ở ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, quận Cần Giuộc, cạnh tỉnh lộ 835. Đây là ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Long An, được xây vào năm 1808, chùa do Hòa Thượng Viên Ngộ khai sáng với tên là Lan Nhã(38). Hiện trong chùa hãy còn rất nhiều pho tượng cổ theo nghệ thuật điêu khắc của thế kỷ 18, đặc biệt pho tượng Bồ Tát Địa Tạng được đúc tại chùa. Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi lại về chùa Tôn Thạnh như sau: “Đây là ngôi chùa rường cột tráng lệ, vàng son, huy hoàng, nổi tiếng nhất của vùng đất Gia Định xưa.” Sau khi Thiền sư Viên Ngộ viên tịch, năm 1859, cụ Đồ Chiểu đã về trú ngụ tại chùa Tôn Thạnh. Đây chính là nơi mà nhà thơ nổi tiếng Nguyễn đình Chiểu đã sống và sáng tác những áng thơ tuyệt tác, trong đó có bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc. Cụ Đồ Chiểu cũng đã dùng chùa Tôn Thạnh làm nơi hội họp các nghĩa sĩ, dạy học cho các môn sinh, và hốt thuốc làm phước cho nhân dân trong vùng. Trải qua bao thời đại, chùa Tôn Thạnh vẫn còn nguyên đó, vẫn là chứng nhân của biết bao thế sự thăng trầm. Tuy đã nhiều lần trùng tu, chùa vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kín qua nét kiến trúc của hệ thống cột kiểu ‘tứ tượng’ trên chánh điện, và những tượng Phật đã có từ thế kỷ thứ XIX, cùng những câu hoành phi sơn son thếp vàng. Chùa Tôn Thạnh còn là nơi mà nhà thơ nổi tiếng Nguyễn đình Chiểu đã sống và sáng tác những áng thơ tuyệt tác. Hiện bên trái chùa Tôn Thạnh vẫn còn có hai tấm bia kỷ niệm nơi lưu lại dấu tích của cụ ‘Đồ Chiểu’. Ngôi chùa thứ hai là chùa Linh Sơn, nằm trên đỉnh đồi trong vùng Rạch Núi. Chùa do Hòa Thượng Minh Nghĩa khai sáng vào giữa thế kỷ thứ XIX. Trong chùa hiện còn trên 100 bức tượng cổ làm bằng gỗ quý. Đặc biệt trong chùa hiện còn một pho tượng Phật lớn, gọi là Phật Trung Tôn, phía sau lưng pho tượng có khắc hàng chữ: “Công Chúa Lê Triều Phụng Cúng”(39)
Năm 1890, nhân dân Đông Thạnh xây chợ Rạch Núi, nên đã đắp con lộ ngăn Rạch Núi ra làm đôi, phần Rạch Núi Trên chảy từ xã Long Phụng ra sông Cần Giuộc; phần Rạch Núi Dưới chảy từ Phước Vĩnh Tây qua Phước Vĩnh Đông. Ngôi chùa thứ ba là chùa Kim Cang, tọa lạc trong xã Bình Thạnh, quận Thủ Thừa. Chùa được xây dựng vào giữa thế kỷ thứ XIX. Ngôi chùa thứ ba là chùa Kim Cang, tọa lạc trong xã Bình Thạnh, quận Thủ Thừa. Chùa được xây dựng vào giữa thế kỷ thứ XIX. Tuy nhiên, công trình kiến trúc có vẻ thu hút nhiều sự chú ý nhất là ngôi nhà 120 cột nằm trong huyện Cần Đước. Ngôi nhà nầy được xây dựng từ hơn 100 năm nay, bằng toàn gỗ quí như gõ đỏ và cẩm lai. Nhà có lối kiến trúc rất độc đáo với mái ngói rêu phong, cổ kính, và tất cả những cây cột cũng như bốn phía vách đều được chạm trổ điêu luyện bởi những nghệ nhân khéo léo từ miền Bắc vào hợp sức với nghệ nhân địa phương. Đây là một kiệt tác mỹ thuật của ngành chạm trổ chim muông, cỏ cây, và hoa lá, vân vân.
Tại chỗ giao nhau của hai sông Vàm Cỏ, có ngôi miễu ‘Thần Tử Nghĩa’ thờ ông Xá Sai(40) Mai Bá Hương. Năm 1705, chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Chánh Thống Cai Cơ Nguyễn Cửu Vân đem quân dẹp loạn Chân Lạp và sai quan Xá Sai Mai Bá Hương vận chuyển lương thực cho quân đội. Khi thuyền lương vừa tới hạ lưu sông Bao Ngược(41), sắp sửa vào rạch Lá thì bị giặc đón đường cướp lương. Một mặt ông cho quân đi cấp báo với Nguyễn Cửu Vân, mặt khác ông cho thuyền lương đi về sông Cù Úc(42) để tránh giặc, nhưng khi đoàn thuyền vừa tới Ngã Ba Bần Quỳ, chỗ giao nhau giữa hai sông Vàm Cỏ thì bị giặc đuổi kịp. Mai Bá Hương bèn ra lệnh đục thuyền, và tất cả đều bị chìm lỉm dưới dòng nước, kể cả ông. Được tin, chúa Nguyễn lấy làm thương xót, phong cho ông làm Tử Nghĩa Thần và sai lập miếu thờ tại khu ‘Ngã Ba Bần Quỳ’, đồng thời đổi tên khúc sông nầy làm sông Xá Hương. Đây là một trong những ngôi đền cổ nhất tại miền Nam. Năm 1958, chánh quyền địa phương trùng tu lại ngôi đền. Trong đền có bức hoành phi đề bốn chữ ‘Hạo Khí Trung Liệt’(43).
Cách châu thành Tân An khoảng 5 cây số có mộ Ông Hống, nằm ngay bên bờ Kinh Ông Hống. Ngoài ra, tại xã Long Hựu Đông, quận Cần Đước, cách thị xã Tân An khoảng 50 cây số, vẫn còn ngôi nhà Trăm Cột. Nhà được xây cất hoàn toàn bằng những loại gỗ quí như cẩm lai, gõ đỏ, gõ mật, vân vân. Mái ngói âm dương, nền cao khoảng 0,9 mét, lót gạch tàu lục giác, được khởi công xây từ năm 1898 đến 1903, với lối kiến trúc thật độc đáo do những tay thợ chạm trổ từ Huế vào xây dựng. Ngôi nhà có 68 cột tròn, 12 cột vuông và 40 cột làm bằng gạch ở ngoài hiên. Mãi cho đến ngày nay hãy còn rất nhiều người tới đây để nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc cũng như chạm trổ những hoa văn tại đây. Theo lời chủ nhân đời thứ ba của ngôi nhà nầy là ông Trần văn Ngộ kể lại thì ngôi nhà nầy do ông nội của ông là cụ Trần văn Hoa xây dựng. Lúc đó cụ Hoa là hương sư của làng Long Hựu, tổng Lộc Thành Hạ, tỉnh Chợ Lớn. Nhà được xây trên một khu đất rộng trên 4.044 mét vuông, và chỉ riêng diện tích của căn nhà rộng khoảng 882 mét vuông. Theo các nhà nghiên cứu, nhà trăm cột có lối kiến trúc đời Nguyễn, phong cách Huế. Đây là một trong những di tích lịch sử quí hiếm của miền Nam.

Chùa Thạnh Hòa cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất trong tỉnh Long An. Chùa tọa lạc tại ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc. Theo các vị tăng trong chùa cho biết, tên Thạnh Hòa được ghép lại bởi tên làng Đông Thạnh và hệ phái Lục Hòa Tăng. Như vậy tên Thạnh Hòa được ghép lại bởi địa danh và tên của hệ phái. Chùa có lối kiến trúc hồi thế kỷ thứ XIX với rất nhiều bức hoành phi, bao lam, câu đối và tượng thờ được chạm trổ rất tinh xảo theo truyền thống điêu khắc của thế kỷ thứ 17. Hiện trong chùa còn lưu giữ những sách Phật giáo được chép tay bằng chữ Hán, như quyển ‘Trai Đàng Phát Nguyện Văn’ và nhiều kinh tụng khác. Đây là một trong những tài liệu Phật giáo vô cùng quí giá của Phật giáo Việt Nam trước thời người Pháp đô hộ Việt Nam.
Trong huyện Cần Giuộc, ấp Phước Thới, xã Phước Lại, tại ngã ba vàm Rạch Dừa, hãy còn ngôi chùa Thới Bình, một trong những ngôi chùa hãy còn sắc phong của triều đình Huế. Theo các bô lão trong vùng kể lại thì chùa Thới Bình là một trong những ngôi chùa đầu tiên được lưu dân Việt Nam xây dựng trên bước đường vào Nam khẩn hoang lập ấp. Ban đầu chùa chỉ là một cái am nhỏ bằng lá, về sau nầy khi lưu dân đến đây định cư ngày càng đông, họ đã trùng tu ngôi chùa thành một ngôi Đại Già Lam như ngày nay.
Ngoài ra, riêng trong huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An hãy còn rất nhiều đình miếu cổ, như Miếu Bà Ngũ Hành trong xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, và đình Chánh Tân Kim trong ấp Tân Xuân, xã Tân Kim, cũng thuộc huyện Cần Giuộc. Điều nầy chứng tỏ Cần Giuộc là nơi dừng chân đầu tiên của những lưu dân từ miền Bắc và miền Trung vào khai khẩn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Họ đã mang truyền thống tín ngưỡng, hình ảnh và kiến trúc của ngôi đình làng từ miền ngoài vào đây để biến thành truyền thống lễ hội đặc thù của vùng đất mới nầy. Lịch sử của những đình miếu nầy cũng gắn liền với lịch sử khẩn hoang của miền Nam. Lưu dân miền ngoài đến đây và họ đã xây dựng nên những đình miếu nơi họ định cư để thờ phụng và tưởng nhớ đến công lao của các bậc tiền hiền khai khẩn cũng như các bậc hậu hiền khai cơ.

Di Tích Khảo Cổ Trong Địa Phận Tỉnh Long An:
Tân An là miền đất chuyển tiếp giữa đồng bằng miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long. Theo kết quả của những khai quật khảo cổ cho thấy cư dân cổ trong vùng Long An là những cư dân đã di chuyển từ phía Đồng Nai xuống đồng bằng sông Cửu Long, chính vì thế mà có dấu hiệu cho thấy cư dân cổ đã có mặt tại vùng Long An sớm hơn các vùng khác ở miền Tây. Năm 1978, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy di tích cư dân cổ tại vùng Rạch Núi, thuộc Ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Đây là một gò đất rộng khoảng một mẫu, cao 6 mét, đường kính trung bình khoảng 100 mét, xung quanh có ao rạch bao bọc, trong đó chủ yếu là Rạch Núi(44). Trên mặt gò có nhiều cây cổ thụ và toàn khu có vẻ thanh u rậm rạp.
Theo truyền thuyết, năm 1867, có Thầy Rau, tục danh là Nguyễn Quới, trên đường làm du tăng khất sĩ, đến đây thấy địa thế tốt nên ông quyết định trụ lại và xây dựng ngôi tam bảo ngay trên đỉnh gò để tiếp tục tu hành độ chúng. Chùa có tên là LinhSơn Tự, nhưng dân chúng trong vùng gọi là Chùa Núi. Sau khi khai quật khu Rạch Núi, người ta thấy độ sâu của tầng di chỉ khoảng 5 mét. Điều nầy chứng tỏ sự hiện diện của cư dân cổ tại đây từ rất sớm và di chỉ đã bị chôn vùi khá sâu. Sau khi khai quật, người ta tìm thấy rất nhiều nguyên liệu chế tác dụng cụ lao động và dụng cụ săn bắt, cũng như nhiều lớp tro than và xương cốt động vật và vỏ sò ốc biển. Đặc biệt, cư dân cổ tại đây đã dùng xương động vật để chế tạo ra nhiều dụng cụ để sử dụng hằng ngày. Tất cả những di chỉ nầy đều có cùng niên đại với những di vật được tìm thấy ở miền Đông Nam Phần, tức cách nay khoảng 3.000 năm(45).
Cũng trong năm 1978, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khai quật khu di tích Bình Tả cách thị xã Tân An khoảng 40 cây số về phía đông-bắc, tọa lạc trong ấp Bình Tả, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa. Cụm di tích Bình Tả nằm trong phạm vi ba gò đất, đó là Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tước. Đây là khu di tích có lối kiến trúc thời tiền sử đến thời sơ sử, mang phong cách văn hóa Óc Eo, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Tây lịch. Cụm di tích được phân bố theo các trục lộ cổ và sông Vàm Cỏ Đông. Tại Gò Xoài, người ta phát hiện những ngôi đền thờ các vị thần như Siva và Visnu của tôn giáo Bà La Môn, xuất hiện tại Ấn Độ khoảng 10 thế kỷ trước Tây lịch, được truyền sang miền Nam bán đảo Đông Dương vào đầu Tây lịch. Hiện nay những ngôi đền nầy nằm dưới độ sâu từ 1,7 đến 1,9 mét, đây có thể là một trong những địa điểm hành lễ của các vị Bà La Môn dưới thời vương quốc Phù Nam. Tại Gò Xoài, người ta cũng phát hiện 26 hiện vật bằng vàng, trong đó có một miếng vàng lá mỏng hãy còn rõ những nét khắc bằng chữ Phạn cổ (Sanskrit). Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy tại Gò Xoài nhiều hiện vật có giá trị khảo cổ khác như tượng thần Siva, thần Visnu, và các linh vật linga và yoni khác. Bên cạnh đó, còn nhiều mảnh gốm và mảnh kim loại mang phong cách Óc Eo, cùng nhiều đá quí, sa thạch và hàng loạt các di chỉ về những cư dân cổ đã từng sinh sống trong vùng Bình Tả nầy. Những phát hiện nầy cho thấy khu Bình Tả dưới thời Phù Nam đã từng là khu tập trung của các cư dân cổ, nơi có nhiều cơ sở tôn giáo, mà cũng là khu vực hành chánh và chánh trị giữa miền Đông và miền Tây Nam Phần thời đó.

Tân An Sau Năm 1975:
Sau năm 1975, chánh quyền mới phân định lại địa giới của tỉnh Long An, họ cho sáp nhập tỉnh Kiến Tường vào tỉnh Long An. Hồi nầy, thị xã Tân An gồm 4 phường: 1, 2, 3, và 4. Đến cuối năm 1983, vì nhu cầu phát triển, thị xã Tân An gồm 4 phường (1, 2, 3, 4) và 6 xã. Đến năm 1996, chánh quyền địa phương cắt một phần đất của xã Hướng Thọ Phú và xã Nhơn Thạnh Trung để thành lập phường 5 của thị xã Tân An. Năm 1998, chánh quyền địa phương cắt một phần đất của xã Lợi Bình Nhơn, xã Khánh Hậu và phường 4 để thành lập phường 6 của thị xã Tân An. Năm 2007, chánh quyền địa phương lại cắt một phần đất của xã Bình Tâm, xã An Vĩnh Ngãi và phường 3 để thành lập phường 7 của thị xã Tân An. Xã Khánh Hậu lại được tách làm hai để làm hai phường mới, đó là phường Khánh Hậu và phường Tân Khánh. Hiện nay, thị xã Tân An gồm có 9 phường(46) và 5 xã(47). Theo cuộc tổng kiểm tra dân số vào năm 1979, toàn tỉnh Long An có khoảng 949.200 người. Đến năm 1983, chánh quyền mới khuyến khích người dân từ các tỉnh miền Tây đi khai thác vùng Đồng Tháp với nhiều quyền lợi dễ dãi. Chỉ khoảng 6 năm sau đó, người ta đã thấy cả một vùng Đồng Tháp bạt ngàn với lúa và tràm. Theo thống kê dân số vào năm 1989, toàn tỉnh Long An có khoảng 1.120.204 người.
Trước năm 1975, Mộc Hóa là tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Tường, và hai quận Đức Hòa và Đức Huệ trựthuộc tỉnh Hậu Nghĩa, nhưng sau năm 1975 chính quyền mới chia cắt lại nên diện tích tỉnh Long An lên tới 4.492 cây số vuông, gồm có thị xã Tân An và 11 huyện: Cần Giuộc, Châu Thành, Cần Đước, Đức Hòa, Đức Huệ, Mộc Hóa, Tân Hưng, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hóa, Thủ Thừa, và Vĩnh Hưng, với tổng dân số là 1.363.600 người, đa số là người Việt, một số nhỏ người Khmer sống bằng nghề làm rẫy trong vùng Mộc Hóa, và một số nhỏ người Hoa sống bằng nghề thương mại tại các thị trấn lớn. Về vị trí, tỉnh Long An cách Sài Gòn khoảng 47 cây số về phía tây nam, bắc giáp Tây Ninh và Cao Miên, đông giáp Sài Gòn, tây giáp Đồng Tháp(48), và nam giáp Mỹ Tho(49). Theo Tập Bản Đồ Hành Chánh Việt Nam năm 2003, hiện tại thị xã Tân An có diện tích là 81,9 cây số vuông, dân số 114.300 người, mật độ trung bình là 1.395 người trên một cây số vuông. Huyện Bến Lức có diện tích 289,3 cây số vuông, dân số 124.900 người, mật độ trung bình là 432 người trên một cây số vuông. Huyện Cần Giuộc có diện tích là 209,9 cây số vuông, dân số 152.200, mật độ trung bình là 725 người trên một cây số vuông. Huyện Châu Thành có diện tích là 150,5 cây số vuông, dân số 98.200, mật độ trung bình là 652 người trên một cây số vuông. Huyện Cần Đước có diện tích là 218,1 cây số vuông, dân số 159.400, mật độ trung bình là 731 người trên một cây số vuông. Huyện Đức Hòa có diện tích là 426,5 cây số vuông, dân số 189.800, mật độ trung bình là 445 người trên một cây số vuông. Huyện Đức Huệ có diện tích là 430,9 cây số vuông, dân số 61.900, mật độ trung bình là 144 người trên một cây số vuông. Huyện Mộc Hóa có diện tích là 503,3 cây số vuông, dân số 64.200, mật độ trung bình là 128 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Hưng có diện tích là 497,4 cây số vuông, dân số 38.300, mật độ trung bình là 77 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Thạnh có diện tích là 425,8 cây số vuông, dân số 73.200, mật độ trung bình là 172 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Trụ có diện tích là 106,5 cây số vuông, dân số 60.100, mật độ trung bình là 564 người trên một cây số vuông. Huyện Thạnh Hóa có diện tích là 468,3 cây số vuông, dân số 49.000, mật độ trung bình là 105 người trên một cây số vuông. Huyện Thủ Thừa có diện tích là 299 cây số vuông, dân số 84.600, mật độ trung bình là 283 người trên một cây số vuông. Huyện Vĩnh Hưng có diện tích là 384,5 cây số vuông, dân số 40.900, mật độ trung bình là 106 người trên một cây số vuông.
Sau năm 2000, chánh quyền đã phân chia lại địa giới giữa các huyện trong tỉnh như hiện nay. Theo Tập Bản Đồ Hành Chánh Việt Nam, xuất bản vào năm 2009, hiện tại tỉnh Long An vẫn gồm thị xã Tân An và 13 huyện, vẫn với tổng diện tích 4.492 cây số vuông, nhưng dân số đã tăng lên 1.383.900 người. Thị xã Tân An có diện tích là 81,9 cây số vuông, dân số 121.300 người, mật độ trung bình là 1.481 người trên một cây số vuông. Huyện Bến Lức có diện tích 289,3 cây số vuông, dân số 128.900 người, mật độ trung bình là 446 người trên một cây số vuông. Huyện Cần Đước có diện tích là 218,1 cây số vuông, dân số 169.400, mật độ trung bình là 777 người trên một cây số vuông. Huyện Cần Giuộc có diện tích là 209,9 cây số vuông, dân số 161.400, mật độ trung bình là 769 người trên một cây số vuông. Huyện Châu Thành có diện tích là 150,5 cây số vuông, dân số 102.500, mật độ trung bình là 681 người trên một cây số vuông. Huyện Đức Hòa có diện tích là 426,5 cây số vuông, dân số 199.200, mật độ trung bình là 467 người trên một cây số vuông. Huyện Đức Huệ có diện tích là 430,9 cây số vuông, dân số 65.000, mật độ trung bình là 151 người trên một cây số vuông. Huyện Mộc Hóa có diện tích là 503,3 cây số vuông, dân số 67.800, mật độ trung bình là 135 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Hưng có diện tích là 497,4 cây số vuông, dân số 41.800, mật độ trung bình là 84 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Thạnh có diện tích là 425,8 cây số vuông, dân số 79.000, mật độ trung bình là 186 người trên một cây số vuông. Huyện Tân Trụ có diện tích là 106,5 cây số vuông, dân số 62.600, mật độ trung bình là 588 người trên một cây số vuông. Huyện Thạnh Hóa có diện tích là 468,3 cây số vuông, dân số 52.700, mật độ trung bình là 113 người trên một cây số vuông. Huyện Thủ Thừa có diện tích là 299 cây số vuông, dân số 88.500, mật độ trung bình là 296 người trên một cây số vuông. Huyện Vĩnh Hưng có diện tích là 384,5 cây số vuông, dân số 43.800, mật độ trung bình là 114 người trên một cây số vuông.

Chú Thích:


(1) Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Q.IV, tờ 43a.
(2) Vùng đất Biên Hòa ngày nay.
(3) Gồm các vùng Tây Ninh, Bình Dương, Thủ Đức, Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An ngày nay. Lúc đó vùng đất Định Tường cũng trực thuộc Phiên Trấn Dinh.
(4) Theo Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục (1776), một đứa con trai người Man (da đen tóc quăn) dưới 20 tuổi giá 20 quan tiền; tuy nhiên, một đứa con trai người Hời (Chàm trắng) đồng tuổi chỉ bán được với giá 1 quan tiền mà thôi.
(5) Thuộc xã Khánh Hậu, một trong những khu định cư sớm nhất của tỉnh Long An.
(6) Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
(7) Bao gồm các vùng đất từ Bến Lức, lên Thủ Thừa và Đức Hòa, Đức Huệ ngày nay.
(8) Bao gồm các vùng Cần Giuộc và Cần Đước ngày nay.
(9) Bao gồm các vùng Gò Công và Tiền Giang ngày nay.
(10) Bao gồm các vùng thuộc quận châu thành Tân An ngày nay.
(11) Biên Hòa, Gia Định và Định Tường.
(12) Thôn Bình Lập được vua Tự Đức ban xác phong thần vào năm 1852.
(13) Theo các kết quả khảo cổ tại Chùa Núi, trong xã Đông Thạnh, vùng Cần Giuộc cách nay 2000 hay 3000 năm đã có người sinh sống, nhưng do địa thế đất đai chưa ổn định nên đến cuối thế kỷ thứ XVI, hầu hết vùng nầy vẫn còn chìm trong hoang vu.
(14) Họ là những người chạy nạn thiên tai, nạn chiến tranh Trịnh-Nguyễn, nạn cường hào ác bá, những binh lính đào ngũ, và ngay cả những người bị tù tội bị lưu đày biệt xứ, vân vân. Bên cạnh đó, cũng có những địa chủ giàu có ở vùng ngoài, những quan lại hay những người có tiền của và quyền thế, đã mang theo gia nhân cùng rất nhiều nô lệ vào xứ Đồng Nai-Sài Gòn để khẩn hoang lập ấp.
(15) Theo Nguyễn Hữu Hiếu trong “Chúa Nguyễn và Các Giai Thoại Mở Đất Phương Nam”, TPHCM: NXB Trẻ, 2001, tr. 95-99.
(16) Theo Phủ Biên Tạp Lục, Q. II, tờ 89b.
(17) Phần lớn sông Vàm Cỏ chảy trong địa phận tỉnh Long An, riêng đoạn cuối từ vàm sông Tra nó chảy vào địa phận huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang qua các vùng Bình Xuân, Mỹ Lợi, Bình Đông, Tân Phước, Gia Thuận và Vàm Láng, nhưng đoạn sông nầy là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Long An và Tiền Giang.
(18) Khi đi từ Sài Gòn về miền Tây, đến cầu Tân An là cây cầu bắt ngang qua sông Vàm Cỏ Tây. Ngày trước, khi đường giao thông trên bộ đi vào vùng Đồng Tháp chưa được phát triển thì sông Vàm Cỏ Tây là thủy lộ độc nhất từ Tân An đi vào Đồng Tháp. Vào khoảng thập niên 1930, mỗi ngày có hai chuyến tàu đò khứ hồi, chở hành khách và hàng hóa từ Tân An vào Mộc Hóa. Ngược dòng Vàm Cỏ Tây từ phía Tân An, càng đi về hướng Mộc Hóa, hai bên bờ càng vắng vẻ, ít dân cư, mà chỉ rải rác đó đây những khu rừng tràm ngút ngàn.
(19) Cả hai sông Vàm Cỏ gặp nhau ở phía Đông quận Tân Trụ, rồi dòng sông mở rộng ra để chảy vào Nhà Bè và đổ ra cửa Soài Rạp.
(20) Theo Đào Văn Hội trong “Tân An Ngày Xưa”, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, 1972, tr. 26-27.
(21) ‘Kinh Bưu Chính’.
(22) Vào thời Pháp thuộc, họ tách một phần phía Bắc của tỉnh Tân An để thành lập tỉnh Chợ Lớn.
(23) Bây giờ là tỉnh Xvay Riêng, thuộc Kampuchia.
(24) Bây giờ là tỉnh Đồng Tháp.
(25) Được bồi đắp bởi hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
(26) Cả 4 vùng ấy có cả thảy 10 tổng và 64 xã, riêng quận Mộc Hóa rộng bằng tổng số diện tích của 3 quận kia.
(27) Bulletin Officiel de la Cochinchine Francaise, 1877, No 1, p. 13.
(28) Về phía chánh quyền Việt Minh, họ thành lập ở miền Nam 3 quân khu: 7, 8, và 9. Tỉnh Long An và huyện Cần Giuộc (thuộc tỉnh Chợ Lớn) trực thuộc quân khu 7.
(29) Công Báo Việt Nam, 1957, tr. 3748.
(30) Công Báo Việt Nam, 1958, tr. 4616; và CBVN, 1958, tr. 4039.
(31) Công Báo Việt Nam, 1967, tr. 215.
(32) Hậu Nghĩa là một tỉnh thời VNCH, ngày nay đa số lãnh thổ của tỉnh Hậu Nghĩa trực thuộc tỉnh Long An.
(33) Một quận ven biển, nằm về phía cực Nam của tỉnh Quảng Ngãi.
(34) Có sách nói là người Lào.
(35) Con của Nguyễn cửu Vân.
(36) Con trai của tướng Trần Thượng Xuyên.
(37) Vùng miếu ông Thổ Địa là dấu vết của cách kiến trúc Khmer, vì trong kiến trúc người Khmer lúc nào cũng xây hồ, đắp gò, trồng me, cất chùa, đào giếng, và lập miễu ông Tà. Người Khmer cũng thường hay chôn báu vật, vì họ tin rằng những người đã chết thế nào cũng được hưởng những báu vật nầy ở cõi âm ty.
(38) Thiền sư Viên Ngộ, thế danh Nguyễn ngọc Dót.
(39) Theo các bậc kỳ lão trong vùng thì bà công chúa trên đây là con gái vua Lê Hiển Tông. Tuy nhiên, không hiểu vì cơ duyên nào mà bà lại phụng cúng pho tượng nầy cho chùa vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
(40) Xá Sai là một chức quan nhỏ chuyên lo việc vận chuyển lương thực cho quân đội dưới thời chúa Nguyễn. 
(41) Sông Cần Giuộc ngày nay.
(42) Sông Vàm Cỏ Tây ngày trước còn có tên là sông Cù Úc.
(43) ‘Hạo Khí Trung Liệt’ có nghĩa là khí sáng do lòng trung liệt tạo thành.
(44) Có lẽ thế đất tại đây cao hơn các nơi khác nên người ta đặt tên cho khu di tích nầy là khu Rạch Núi, còn có tên là gò Núi Đất hay Thổ Sơn.
(45) Đó là thời đại đá mới.
(46) 1,2,3,4,5,6,7, Tân Khánh và Khánh Hậu.
(47) An Vĩnh Ngãi, Bình Tâm, Hướng Thọ Phú, Nhơn Thạnh Trung và Lợi Bình Nhơn.
(48) Địa phận vùng Cao Lãnh cũ
(49) Nay là tỉnh Tiền Giang.
***

Để tiện theo dõi Đất Phương Nam 1, Mời Bạn xem các phàn 1,2,34..ở cột danh mục hai bên.

***

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2019

Cảm Xúc



Những trang giấy trắng tinh khôi
Những ngọn bút chừng nóng vội
Tao nhân chần chờ chi nữa
Hãy cùng chia sẻ nhau thôi
Tứ bảo văn phòng mỏi đợi
Tiềm thức cất tiếng gọi mời
Xuân hạ thu đông khoe dáng
Vung tay điểm nét cho đời
Bao thú vị một niềm mơ    
Nhìn kỳ hoa đua chen nở
Dị thảo vườn tiên khai lối
Thi đàn ngan ngát hương thơ
Một không gian đầy thống khoái
Niềm đam mê nối tiếp dài
Như lạc lỏng tận đâu đâu
Khiến hồn càng thêm ngây dại
Duyên bút mực trải ngàn phương
Phút giây cảm xúc cứ dường chiêm bao
                                       Quên Đi
***

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2019

Sắc Úa


Có phải do thu khiến lá vàng
Hay vì lá úa gọi thu sang
Nhân sinh một kiếp đời qua nửa
Gặp gỡ nhau chi đã muộn màng.
                                Quên Đi

***

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2019

Cấu Tạo Địa Chất Của Vùng Đất Tầm Bôn - Đất Phương Nam Phần 1 TT


Long An nằm giữa 2 vùng châu thổ lớn của miền Nam, đó là châu thổ sông Đồng Nai và châu thổ sông Cửu Long. Vùng Long An tự nó nằm giữa 2 con sông cũng khá lớn của miền Nam, đó là sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Đây là vùng tiếp giáp giữa miền Đông và miền Tây. Về phía Tây Bắc, tức là khu vực Đông Bắc của Đồng Tháp Mười ngày nay, là cả một vùng trũng rộng lớn chạy dài từ biên giới Việt-Miên, phía Đông từ vùng Xvay Riêng, xuống Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Thạnh Hóa, Thủ Thừa; phía Tây từ vùng Tân Hưng xuống Tân Thạnh, giáp với Tân Phước của tỉnh Tiền Giang. Đây là một trong những khu rừng tràm lớn nhất cả nước, với những đầm sen bát ngát. Theo các nhà địa chất học thì vào khoảng vài ngàn năm trước, toàn vùng phía Bắc Tân An ngày nay là một cái biển, vì lúc đó mực nước Biển Đông đã dâng lên đến mức rất cao, nên nhiều nơi trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và sông Vàm Cỏ hoàn toàn bị ngập nước. Sau đó, mực nước biển lại rút dần, và phù sa của những con sông lớn tại đây đã bồi đắp cả miền Nam thành một vùng đồng bằng bao la như ngày nay, ngoại trừ những vùng trũng lớn, như vùng Cà Mau và Đồng Tháp. Tuy nhiên, nếu trong tương lai, mực nước biển lại dâng cao như nó đã từng dâng lên đến mức cao nhất cách nay vài ngàn năm, thì toàn miền sẽ lại bị ngập chìm trong biển nước. Nhưng nếu mực nước Biển Đông tiếp tục rút xuống nữa, thì không bao lâu nữa, vịnh Thái Lan sẽ trở thành một vùng đất với rất nhiều “biển hồ”, giống như tình trạng vùng “Đồng Tháp Mười” ngày nay. Hiện nay, ngay giữa lòng Tháp Mười, thỉnh thoảng người ta vẫn còn tìm thấy vết tích tàu biển như dây lòi tói, cột buồm, mỏ neo, vân vân, của những con tàu biển xưa, có thể những con tàu nầy đã bị chìm trước khi nước biển toàn vùng Đồng Tháp rút xuống. Bên cạnh đó, tại các vùng Gò giữa lòng Đồng Tháp hãy còn chứng tích cát trắng của một cái biển cũ, như Gò Bắc Vung, Gò Da, Gò Bắc Chiên, Gò Đồng Tháp, Gò Động Cát, vân vân. Ngày nay, vùng trũng phía Bắc tỉnh Tân An, thuộc khu Đồng Tháp, vẫn là một vùng trũng, một biển nước mỗi khi nước đổ xuống từ Tonlé Sap (Biển Hồ)
Nhìn chung, địa hình của tỉnh Long An giống như địa hình của toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó được bồi đắp liên tục và đều đặn để có được một vùng đồng bằng phì nhiêu như ngày nay, với độ cao trung bình từ 1 mét đến 1,16 mét. Tuy nhiên, những giồng cát từ Mỹ Tho lên Tân Hiệp và Lợi Bình Nhơn có độ cao từ 1 mét đến 3 mét. Địa hình toàn tỉnh tương đối thấp, dễ bị tác động của dòng thủy triều cao và lũ lụt tràn về từ miệt Đồng Tháp Mười, nhưng về mùa nắng hạn thì tỉnh Long An lại thiếu nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất. Riêng trong thị xã Tân An, khoảng 86 phần trăm đất đai thuộc nhóm phù sa ngọt có thể canh tác được, số ít còn lại là đất ủng phèn không canh tác được; tuy nhiên, dân chúng trong những vùng đất nầy cũng không bỏ đất hoang. Họ đang nỗ lực trồng lác hay bàng để dệt chiếu, hoặc trồng những khu rừng dừa nước để làm lá lợp nhà. Ngay từ thời dân Việt Nam mới mở cõi về phương Nam, cha anh chúng ta đã thấy tầm quan trọng của vùng của vùng Tân An. Vào năm 1705, Thống Suất Nguyễn Cửu Vân đã theo lệnh chúa Nguyễn, khởi công đào con kinh chiến lược, đó là kinh Vũng Gù, nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây. Đây là một trong những con kinh được đào đầu tiên ở miền Nam.

Từ Đất Tầm Bôn Đến Phủ Tân An:

Những ai sanh trưởng trong miền Nam không thể nào không biết đến Tân An vì Tân An là cửa ngỏ của đồng bằng sông Cửu Long, đi về miền Tây trù phú, với những cánh đồng ngút ngàn. Ngày đó khi quan Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh thành lập 2 huyện Phước Long và Tân Bình thì ngài không ghi rõ ranh giới. Còn theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, thì nói là ranh giới rất mênh mông, chứ cũng không nói rõ là từ đâu đến đâu, nhưng có lẽ vùng Phước Long lên đến tận Tây Ninh, và vùng Tân Bình xuống dưới tận sông Tiền, vì về sau nầy khi Nguyễn Ánh cho lập Trấn Định, thì lỵ sở của trấn nầy được đặt tại Tân Hiệp, chỉ cách chợ Mỹ Tho ngày nay khoảng 15 cây số mà thôi. Vùng Tân An nằm về phía Nam Đông Nam Sài Gòn Gia Định khoảng 50 cây số, nằm giữa lưu vực hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây nối liền với Đồng Tháp Mười. Đất nầy vốn là của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VI sau Tây lịch. Tuy nhiên, vào thời đó vùng Tầm Bôn hãy còn là một dãy đất trũng sình, ngập mặn, hoang vu, không người ở. Sau khi vùng đất nầy bị sáp nhập vào vương quốc Chân Lạp, nó vẫn tiếp tục bị bỏ hoang cho đến khi những lưu dân đầu tiên của người Việt Nam đặt chân đến đây vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1705, quân Xiêm La kéo quân sang đánh Cao Miên, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Cai cơ Nguyễn Cửu Vân đưa quân đánh dẹp. Sau khi dẹp giặc bên Cao Miên trở về, Thống suất Nguyễn Cửu Vân cho đóng quân ở vùng Tân An ngày nay. Ông đã vâng mệnh chúa Nguyễn đắp một bờ lũy từ thôn An Cai đến chợ Phú Lương, ngày nay khoảng từ Tân An đến Bến Tranh, ông đã cho đào kinh Vũng Gù để lấy đất đắp lên lũy. Kinh nầy nối sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền. Làm thế nào mà Thống suất Nguyễn Cửu Vân có thể làm được chuyện nầy, khi dụng cụ đào kinh lúc nầy không có gì? Có thể cư dân tại vùng nầy đã khá đông nên ngài thống suất đã tụ họ lại rồi cùng nhau đào bằng tay. Mặc dầu con kinh ấy ngày nay không mấy quan trọng, nhưng vào thời đó, và mãi đến cuối thế kỷ thứ XIX, nó là huyết mạch trong việc điều động quân đội từ miền Đông qua miền Tây mỗi khi hữu sự, và nó cũng là con đường chính vận chuyển lúa gạo từ các tỉnh miền tây về Sài Gòn. Lúc mới lên ngôi, chính vua Gia Long đã sai trấn thủ Định Tường là ông Lưu văn Phong cho nạo vét lại và đào rộng thêm con rạch Bến Tranh cho đến trước cù lao Rồng tại Mỹ Tho, đặt tên là Bảo Định Hà, nhưng đến năm 1825, phù sa hai sông Tiền và Vàm Cỏ đã bồi cạn lòng sông Bảo Định. Sau khi chiếm miền Nam, người Pháp cho vét lại kinh Bảo Định để chở công văn giấy tờ từ miền Tây về Sài Gòn và ngược lại, nên họ đặt tên cho con kinh là ‘Kinh Bưu Chính’ (Arroyo de poste).
Năm 1752, Nặc Nguyên giành được ngôi quốc vương Cao Miên, thường đem quân đi cướp bóc khắp vùng Thủy Chân Lạp và bắt người Côn Man (người Champa) làm nô lệ. Thêm vào đó, Nặc Nguyên lại sai sứ sang giao hảo với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài âm mưu đánh Đàng Trong để giành lại phần đất Thủy Chân Lạp. Tất cả những diễn biến nầy đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Mùa đông năm quý dậu 1753, Võ Vương sai Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh, Ký Lục Bố Chánh Dinh, làm Tham Mưu điều khiển binh tướng đánh Nặc Nguyên. Mùa hạ năm giáp tuất 1754, quân ta bắt đầu khởi binh. Quan binh của Nguyễn Cư Trinh đi đến đâu giặc đều qui phục; đi qua đất Tần Lê (có lẽ là vùng Tonlé Sap) ra đến sông Lớn, tức sông Vàm Cỏ, để cùng hội quân với Thiện Chính ở đồn Lô Yêm. Từ đây các phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp, Cầu Nam và Nam Vinh (Nam Vang ngày nay) đều hàng cả.” Sau đó Nguyễn Cư Trinh chiêu phục người Côn Man để làm thanh thế và tiếp tục truy đuổi Nặc Nguyên vẫn còn lẩn trốn tại vùng Vĩnh Long. Năm 1755, Nặc Nguyên chạy về Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội, nhưng chúa còn chần chừ không muốn(15). Nguyễn Cư Trinh mới dâng sớ nói rõ về việc nên giữ lấy hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp: “Từ xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn trừ đứa kỳ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Ngay Nặc Nguyên đã biết lỗi, biết nộp đất hiến của. Nếu không cho nó hàng, thì nó sẽ chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, không tiện đánh đuổi. Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng lấy hai phủ ấy, giữ chặt hai dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ Hưng Phúc (Biên Hòa), rồi sau mở Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ, rồi sau mới mở đất Sài Côn. Đó là kế “tầm ăn dâu”. Vả lại, từ xứ Sài Gòn đến phủ Tầm Bôn, đường đi phải mất sáu ngày ròng rã, đất đai trống trải, ruộng nương rất nhiều, dân số lên đến muôn người, hạng chính binh đồn trú còn lo không đủ thay. Nay muốn mở mang đất đai, chúng ta cũng nên giữ trước hai phủ Tâm Bôn và Lôi Lạp để củng cố hai dinh Trấn Phiên và Trấn Biên...” Tờ trình của Nguyễn Cư Trinh có kèm theo bức họa đồ chỉ điểm mọi chi tiết phân biệt và đầy đủ, bấy giờ chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát mới thuận và ra lệnh thiết lập châu Định Viễn(16)
Mặc dầu kể từ năm 1756, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội, nghĩa là kể từ đó vùng đất mang tên Tầm Bôn bị xóa tên trên bản đồ Chân Lạp, nhưng cái tên Tân An vẫn chưa thấy xuất hiện trên bản đồ của xứ Đàng Trong cho đến đời vua Tự Đức. Như vậy, vùng Tầm Bôn đã sớm trở thành một trong những vùng đất cố cựu nhất của miền Nam. Tuy nhiên, vì vùng đất nầy nằm ở bên ngoài thành Phiên An, nên suốt một khoảng thời gian rất dài, nó không được khai khẩn và phát triển đúng mức. Chính vì vậy mà mãi đến đầu thế kỷ thứ XX, vùng nầy vẫn còn là những thôn xã chỉ chuyên canh tác nông nghiệp, chứ không được phát triển về công kỹ nghệ như những vùng khác. Đến đời Gia Long, vào khoảng năm 1803 nhà vua chia Gia Định Thành ra làm 3 dinh và một trấn gồm dinh Biên Trấn, dinh Phiên Trấn, Dinh Long Hồ và Hà Tiên Trấn, và vùng Tân An trực thuộc dinh Phiên Trấn. Năm 1832, vua Minh Mạng cho đổi Bắc Thành và Gia Định Thành ra làm Bắc Kỳ và Nam Kỳ, còn Kinh Thành Huế được đổi ra làm Kinh Kỳ. Nhà vua lại chia Nam Kỳ ra làm sáu tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Từ đó mới có tên Nam Kỳ Lục Lục Tỉnh. Tuy nhiên, cái tên Tân An vẫn chưa được dùng để gọi cho vùng Tầm Bôn, dù vào năm 1779 sau khi chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh đã sáp nhập vùng Tầm Bôn vào châu Định Viễn của dinh Long Hồ với cái tên tổng Tân An, có nghĩa là vùng đất yên ổn mới.

Sông Ngòi Và Kinh Rạch Trong Tỉnh Tân An:
Dân Nam Kỳ lục tỉnh không ai là không biết Tân An vì tỉnh lỵ Tân An nằm ngay trên trục lộ từ Sài Gòn về miền Tây. Từ Sài Gòn về miền Tây phải qua Phú Lâm, Bình Chánh, Bến Lức, và đi ngang qua Tân An bằng cầu Tân An... rồi mới đến ngã ba Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè, Cổ Cò, Mỹ Thuận... Ngày trước khi quốc lộ 4, nay là quốc lộ 1, hãy còn là một con đường nhỏ chưa được tráng đá hay tráng nhựa thì những nhánh sông Tân An và Bến Lức là hai thủy lộ quan trọng cho giới thương hồ từ miền Tây về Sài Gòn. Tân An là giao điểm giữa hai vùng Đông và Tây Nam Bộ nên dù được phù sa bồi đắp, Tân An cũng có những gò đất khá cao như các vùng Biên Hòa và Đồng Nai, chẳng hạn như các vùng Thủ Thừa, Khánh Hậu. Tuy nhiên, đồng ruộng Tân An không phì nhiêu như đồng ruộng miền Tây. Vùng Cần Giuộc nằm sát biển Đông thì nước mặn gần như quanh năm, trong khi vùng Thủ Thừa ở phía Tây thì luôn bị ủng phèn. Toàn tỉnh Long An có hệ thống sông Vàm Cỏ chảy qua, sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua Tân An có chiều dài khoảng 15,8 cây số và độ sâu trung bình khoảng 15 mét. Sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang qua Bến Lức với nguồn nước rất phong phú. So với hệ thống sông Cửu Long thì hệ thống sông Vàm Cỏ không đáng kể, tuy nhiên, nhờ dòng sông Vàm Cỏ mà cả một vùng đất trũng phèn giữa miền Đông và miền Tây Nam Phần có chỗ xả ra biển. Sông Vàm Cỏ là hệ thống hai con sông: Vàm Cỏ Đông, tức sông Bến Lức; và Vàm Cỏ Tây, tức sông Long An. Sông Vàm Cỏ phát nguyên từ bên đất Cao Miên, khi chảy vào địa phận Việt Nam với nhiều đoạn quanh co uốn khúc. Đây là một trong những hệ thống sông ngắn ở Việt Nam, ngoài địa hình uốn khúc quanh co, độ dốc của lòng sông Vàm Cỏ gần như không có khiến cho sức chảy của sông rất yếu. Phần lớn hai nhánh sông Vàm Cỏ nằm trong địa phận tỉnh Long An(17). Khi đến vùng Cần Đước, hai nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây nhập lại thành một rồi đổ ra Biển Đông tại cửa Soài Rạp. Tuy hệ thống sông Vàm Cỏ nhỏ và ngắn, và mặc dầu nó quanh co uống khúc, nhưng nó lại là con đường thoát nước duy nhất từ phía Đồng Tháp ra biển Đông vào mùa nước lũ. Sông Vàm Cỏ Đông, phát nguyên từ vùng Kâm Chây Méa, bên đất Cao Miên, xưa có tên là sông Thuận An, người Pháp thì gọi là Vaico Oriental, dài khoảng trên 300 cây số, chảy từ biên giới Việt-Miên xuống quận Hiếu Thiện của tỉnh Tây Ninh, chảy xuống Trảng Bàng, Gò Dầu, ngang qua khu nhà máy đường Hiệp Hòa, rồi ngang qua vùng Bến Lức, rồi chảy ra cửa Soài Rạp. Tuy nhiên, dân địa phương vẫn quen gọi là sông Bến Lức, vì nó chảy ngang qua cầu Bến Lức. Tưởng cũng nên nhắc lại, khi công ty Effel xây xong cầu sắt Bến Lức vào cuối thế kỷ thứ XIX, thì nó là cây cầu dài nhất ở Nam Kỳ thời đó. Lúc đầu cầu Bến Lức chỉ dành cho xe lửa đi về Mỹ Tho mà thôi, còn xe hơi phải qua sông bằng một chiếc phà kéo bằng tay. Về sau nầy khi đã có nhiều xe hơi, thì cầu được mở rộng ra cho xe cộ đi về miền Tây. Tưởng cũng nên nhắc lại, vào khoảng những năm 1883 và 1886, chánh quyền thuộc địa cho xây dựng đường xe lửa Sài Gòn đi Mỹ Tho, đây là tuyến đường xe lửa đầu tiên mà thực dân Pháp xây dựng ở Việt Nam, với kinh phí rất cao, vì tuyến đường phải chạy qua hai cây cầu sắt Bến Lức và Tân An cũng được xây dựng với kinh phí rất cao. Tuyến đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho hồi đó ghé lại 12 nhà ga: Chợ Lớn, Phú Lâm, An Lạc, Bình Điền, Bình Chánh, Gò Đen, Bến Lức, Bình Ảnh, Tân An, Tân Hương, Lương Phú thuộc vùng Bến Tranh, và Ngã Ba Trung Lương, trước khi vào chợ Mỹ Tho. Còn sông Vàm Cỏ Tây, người Pháp gọi sông Vàm Cỏ Tây là Vaico Occidental, xưa là sông Hưng Hòa, tục danh là Vũng Gù, cũng phát xuất từ Svay Riêng, phía đông nam lãnh thổ nước Cao Miên. Người Khmer gọi con sông nầy là ‘Stưng Svay Riêng’. Sau khi rời khỏi Svay Riêng, dòng sông nầy chia làm hai nhánh chảy song song theo biên giới Việt-Miên, một trong đất Miên, đó là rạch Khơ Vin; còn nhánh kia là rạch Long Khốt chảy vào vùng Long Khốt. Khi đến Bình Châu, cách Mộc Hóa khoảng 12 cây số về phía tây-bắc, thì hai nhánh sông nầy hợp lưu lại với nhau để chảy về hướng Mộc Hóa, sau đó dòng Vàm Cỏ Tây chảy vào vùng Tuyên Bình, Đồng Tháp Mười, đến Thủ Thừa, rồi chảy về phía Đông qua cầu Tân An(18), tại chỗ mà trước đó người ta gọi là Vũng Gù, sau đó Vàm Cỏ Tây gặp Vàm Cỏ Đông tại vùng Cần Đước, lòng sông mở rộng để nhập vào sông nhà Bè trước khi đổ ra cửa Soài Rạp(19) đến nỗi người ta có thể nhìn thấy thấu tận đáy, đến mùa mưa thì nước sông đục ngầu. Ban đầu tỉnh lỵ Tân An được đặt tại Châu Phê, nằm về hướng Bắc sông Bảo Định. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, Châu Phê nằm về phía Bắc sông Bảo Định, cách huyện Cửu An 11 dặm về phía Tây, trước là đất Cao Miên. Năm 1705, chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Vân chiêu phủ Cao Miên và sau đó cấp đất Châu Phê cho Vân trường Hầu Nguyễn Cửu Vân vì ông này có công khai khẩn đất quanh vùng Mỹ Tho. Sau đó con của Cửu Vân là Cửu Triêm xin lấy ruộng nầy làm thực ấp riêng, được châu phê chuẩn y, vì thế mới gọi tên ruộng là “Ruộng Châu Phê” và người ta cũng lấy tên Châu Phê để gọi tên con sông ở đây. Sau đó tỉnh lỵ Tân An dời về Nhựt Thạnh, bên tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Cầu Tân An là cây cầu sắt dài nhất của miền Tây thời đó, được hoàn thành vào năm 1886. Từ năm 1886 đến 1920 thì nó chỉ dành riêng cho xe lửa từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho. Sau năm 1920, người Pháp cho làm cầu lớn ra để cho xe hơi có thể qua lại được. Đến khi tuyến xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho bị bãi bỏ, thì chiếc cầu với đường rầy xe lửa vẫn còn đó như những chứng nhân của một thời nô lệ, dầu có đôi lần bị đánh sập trong thời chiến tranh.
Về kinh rạch, vùng Tân An không có những kinh đào nhiều như các tỉnh miền Tây, nhưng hiện tại trong tỉnh cũng còn những con kinh mà một thời rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế cho toàn miền Nam như kinh Bảo Định, kinh Hồng Ngự, kinh Cái Cỏ, vân vân. Kinh Bảo Định nối sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền. Thời xưa, sông nầy là hai khúc rạch nhỏ, nhờ Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân nối liền cả hai làm một thông thương từ Vũng Gù qua Mỹ Tho. Ngoài ra, ngay tại châu thành Tân An còn có một con kinh hình vòng cung, bắt đầu từ sông Vàm Cỏ Tây và đổ ra Bảo Định Hà tại cầu Đội Lai. Dưới thời Pháp thuộc, người ta gọi kinh nầy là kinh “Lính Tập” vì nó chảy bên hông dãy nhà lính ở, người Pháp gọi nó là “Canal de Ceinture”, có lẽ vì nó trông giống sợi dây thắt lưng. Tuy nhiên, về sau nầy người ta đã lấp mất con kinh nầy(20). Đến năm Gia Long thứ 18 (1819), vua sai đào thêm và nới rộng, đặt tên là Bảo Định Hà, ghe tàu đi lại thuận tiện từ Tân An qua Mỹ Tho và các tỉnh miền Hậu Giang. Mặc dầu con kinh ấy ngày nay không mấy quan trọng, nhưng vào thời đó, và mãi đến cuối thế kỷ thứ XIX, nó là huyết mạch trong việc điều động quân đội từ miền Đông qua miền Tây mỗi khi hữu sự, và nó cũng là con đường chính vận chuyển lúa gạo từ các tỉnh miền tây về Sài Gòn. Sau khi chiếm miền Nam, người Pháp cho vét lại kinh Bảo Định để chở công văn giấy tờ từ miền Tây về Sài Gòn và ngược lại, nên họ đặt tên cho con kinh là Arroyo de poste(21). Vùng Thủ Thừa, có kinh Thủ Thừa, nối liền hai con sông Vàm Cỏ. Chính nhờ con kinh nầy mà ghe tàu từ vùng Tân An có thể qua Bến Lức, đến Ba Cụm, rồi ra sông Bình Điền để lên vùng Chợ Lớn rất tiện lợi. Ngoài hệ thống sông-kinh-rạch khá phong phú trong toàn tỉnh Long An, các nhà địa chất học còn đánh giá rất cao nguồn nước ngầm trong vùng Long An, tương đối nhiều và đủ tiêu chuẩn sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của dân chúng trong tỉnh. Theo số liệu khảo sát và báo cáo của liên đoàn 8 địa chất, vào năm 2008, trữ lượng nước ngầm của vùng Tân An trên 133.000 mét khối cho mỗi ngày đêm. Riêng tại xã Khánh Hậu, trong thị xã Tân An có mỏ nước khoáng ở độ sâu khoảng 400 mét và đang được chánh quyền địa phương khai thác.
Năm 1967, chánh quyền đệ nhị Cộng Hòa cho xây lại hai cây cầu trên hai thủy lộ huyết mạch của tỉnh Long An, đó là cầu Bến Lức và cầu Tân An bằng bê tông cốt sắt rất kiên cố, với hai chiều xe cộ qua lại. Vào thời đó, hai cây cầu nầy là những chiếc cầu dài nhất của miền Tây. Hồi mới xây dựng cầu Tân An, có lẽ người Pháp không có kinh phí xây một chiếc cầu cao để bên dưới sông ghe tàu có thể qua lại dễ dàng, nên họ đã bắt một cây cầu quay tại chỗ sông Vũng Gù gặp sông Bảo Định.

Cây Trái Và Đặc Sản Tân An:

Cho đến hôm nay thì vùng Đồng Tháp thuộc Tân An vẫn còn là một vùng mênh mông bạt ngàn rừng tràm, mùa khô thì đất ủng phèn và trở thành hoang mạc, chỉ còn lại những ốc đảo “tràm” là xanh mát. Còn về mùa nước lũ thì toàn vùng biến thành một biển nước bao la. Cư dân trong vùng đã quen sống với lũ lụt từ gần bốn trăm năm nay, nên họ đã xây đắp những con đê bao quanh những thị trấn trong Đồng Tháp, vừa ngăn lũ vừa làm nơi trú ngụ trong mùa nước nổi như đê Tân Hưng và Vĩnh Hưng. Thật ra, Long An không hẳn là vùng đất bồi của đồng bằng sông Cửu Long, mà chỉ là một cánh đồng nhỏ được bồi đắp bởi hai sông Vàm Cỏ nằm giữa hai hệ thống đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long. Về trồng trọt, ngoài hai vụ lúa mỗi năm, dân Tân An còn trồng rất nhiều dưa hấu, dưa hấu Tân An chẳng những nổi tiếng trong tỉnh, mà còn biết tiếng ở Sài Gòn và các vùng phụ cận nữa. Từ Sài Gòn, theo quốc lộ 1A đi Thủ Thừa, một thị trấn nhỏ nằm trong cửa ngỏ đồng tháp ra Sài Gòn. Đặc biệt tại Thủ Thừa vẫn còn một chiếc “Cầu Treo” một nhịp giữa sông, được treo bởi những sợi dây cáp lớn, cầu được xây từ thời Pháp thuộc, nhưng đến nay vẫn còn tốt.
Nếu người Tây Ninh thích rượu đế Hòa Long, người Biên Hòa thích rượu Bến Gỗ Long Thành, dân miền Trung thích rượu đế Bàu Đá thì dân nhậu Long An không thể thiếu rượu đế Gò Đen. Từ Sài Gòn về miền Tây, trước khi đến Tân An, đến Gò Đen, thị trấn của xã Phước Lợi, lúc nào chúng ta cũng nghe thoang thoảng mùi men rượu. Trải qua bao đời nay, Gò Đen là vùng sản xuất rượu nổi tiếng nhất của tỉnh Tân An. Theo nhà văn Sơn Nam trong Lịch Sử Khai Khẩn Miền Nam, Gò Đen nằm trong khu vực Ba Giồng, một trong những vùng đất được người Việt khai khẩn sớm nhất tại Nam Bộ. Ngay từ những ngày đầu mở cõi về phương Nam, vùng nầy đã từng là vựa lúa lớn nhất của Nam Kỳ, nơi đã giúp Nguyễn Ánh nuôi quân trong suốt hơn 25 năm đánh phá Tây Sơn. Sở dĩ Gò Đen nổi tiếng về rượu nếp là vì địa thế đất tại đây cao nên chỉ thích hợp với cây lúa nếp mà thôi. Thật vậy, chỉ có những cây nếp Gò Đen, từ nếp mỡ, nếp mù u, nếp hương, nếp thổ địa, nếp than, vân vân, mới cho ra được thứ rượu có hương vị thật đặc biệt mà không chỗ nào có được.

Từ Sài Gòn đi Tân An, vừa qua cầu Bến Lức, nếu rẽ phải thì chúng ta sẽ đi đến thị trấn Đức Hòa. Hai quận Đức Hòa và Đức Huệ, trong thời VNCH trực thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, nhưng sau năm 1975, nó được sáp nhập vào Tân An. Hai bên đường từ Bến Lức đi vào Đức Hòa Đức Huệ, ngoài những cánh đồng lúc bạt ngàn còn trùng trùng điệp điệp những rẫy mía. Có thể nói chỉ có vùng đất nầy mới trồng được loại mía làm đường thiệt tốt như đường của nhà máy Hiệp Hòa. Nếu chúng ta đi bằng thuyền ngược dòng Vàm Cỏ Tây vô miệt Thủ Thừa, Thạnh Hóa, và Mộc Hóa, chúng ta sẽ thấy hai bên bờ Vàm Cỏ và những vàm rạch là một rừng ô môi, với những cánh hoa màu hồng đào tươi thắm. Nếu cho thuyền đi thật chậm trên khúc sông nầy chúng ta sẽ được tận hưởng cảnh đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên đất trời tại đây, mà có lẽ không có một bức tranh nào có thể sánh kịp. Ô môi là một loại cây thẳng và cao nên có thể làm cột cất nhà, hoặc làm củi trong việc nấu nướng. Có lẽ đã từ lâu lắm, cư dân ở đây trồng cây ô môi không những để ăn trái, mà còn để làm thuốc trị các chứng tiêu chảy, kiết lị, hoặc ngâm rượu để uống trị đau nhức xương khớp. Người ta còn lấy hột ô môi ngâm nước rồi lột bỏ vỏ và mầm xanh rồi nấu chè với đậu xanh thật ngon. Riêng trái ô môi chín có thể bỏ dưới sàng cả năm trời vẫn không bị hư thúi.

Đất đai Long An luôn được nước mưa tưới tẩm quanh năm với một số nước mưa lượng khá lớn hàng năm gần 1.700 mm. Nhờ lượng nước mưa cao, sông rạch chằng chịt và tựa lưng vào biển Đông nên nhiệt độ trung bình của Long An là 26 độ C, rất lý tưởng cho vùng khí hậu nhiệt đới. Ngoại trừ một số đồi gò và những vùng trũng thấp thuộc Đồng Tháp Mười ở phía Bắc, còn thì đa số đất đai của tỉnh Long An đều bằng phẳng với kinh rạch chằng chịt, chia cắt tỉnh này ra làm nhiều vùng. chỉ là một cánh đồng nhỏ được bồi đắp bởi hai sông Vàm Cỏ với rất nhiều vùng trũng ngập mặn, Tân An cũng có nhiều đặc sản nổi tiếng như ‘gạo Cần Đước’, đây là một trong những loại gạo thơm, ngon và nổi tiếng nhất của miền Nam. Trên vùng đất Nam Bộ, nếu nói về gạo ngon có tên “Nàng” thì rất nhiều, từ Nàng Tri, Nàng Sóc, Nàng Quất, Nàng Minh, Nàng Rừng, Nàng Co, Nàng Rẫy, Nàng Hương, Nàng Thơm, nhưng có lẽ không có nàng nào vượt qua được Nàng Thơm Chợ Đào. Và khi nói đến gạo Cần Đước là người ta liên tưởng ngay đến “Gạo Nàng Thơm Chợ Đào”. Vùng đất chợ Đào thuộc xã Mỹ Lệ, trong huyện Cần Đước, là nơi xuất xứ của những giống lúa có mùi thơm rất đặc biệt, nhất là gạo Nàng Thơm Chợ Đào. Nàng Thơm là loại gạo hạt nhỏ, dài và điểm một chút nhân màu trắng đục, nên dân vùng Mỹ Lệ còn gọi là gạo “hột lựu”. Từ đầu thế kỷ thứ XIX, dưới thời vua Minh Mạng, gạo Nàng Thơm Chợ Đào đã được xếp vào danh mục đặc sản tiến vua (dâng lên cho vua). Gạo Nàng Thơm Chợ Đào không chỉ quý hiếm ở chỗ rất ngon, mà còn ở chỗ nó đòi hỏi nhiều công phu trong tiến trình gieo trồng, kén đất, và cần sự chăm bón thật kỹ, mà năng xuất thường thấp so với các loại lúa khác. Điều đáng lưu ý ở đây là giống Nàng Thơm Chợ Đào nếu được đem đi trồng ở nơi khác thì nó vẫn ngon, nhưng sẽ không còn hương vị nguyên gốc của nó nữa. Ngày nay gạo Nàng Thơm Chợ Đào không những có mặt trên khắp các miền đất nước, mà nó còn phổ biến sâu rộng trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại nữa.

Trước năm 1975, ngành trồng cây thanh long đã xuất hiện tại Tân An, nhưng do chiến tranh nên diện tích canh tác rất hạn hẹp. Sau năm 1975, nhứt là khoảng 10 năm trở lại đây, người dân hồi cư về các vùng Thủ Thừa và Tầm Vu bắt đầu trồng thanh long nên việc buôn bán thanh long ở Tân An rất phồn thịnh. Ngày nay thành long ở Tân An không những chỉ bán trong nước mà còn được xuất cảng ra ngoại quốc nữa. Thanh long là một loại cây ăn trái có độ dinh dưỡng rất cao. Riêng tại 2 huyện Châu Thành (Tầm Vu) và Thủ Thừa có một thời cư dân tại đây đã làm giàu nhanh chóng nhờ trồng loại trái cây nầy. Thanh long là một loại cây cùng họ với cây xương rồng, cho trái có mùa, nhưng ngày nay người ta dùng kỹ thuật “đèn” nên người ta có thể sản xuất thanh long quanh năm. Sở dĩ vùng Thủ Thừa và Tầm Vu là những vùng đất rất thích hợp cho các chủng loại thanh long nhờ có khí hậu nóng và khô hơn các vùng khác trong tỉnh. Nhiệt độ trung bình từ 26 đến 27 độ C. Từ thành phố Tân An theo quốc lộ 62 vô Thủ Thừa, hoặc theo tỉnh lộ 21 về hướng đông nam về Tầm Vu, người ta sẽ thấy những mảnh vườn thanh long được lập lên trong ánh nắng chói chang, tuy không có qui mô lớn như ở Bình Thuận, nhưng ở đây cũng có những khu vườn thanh long rộng đến hàng chục mẫu. Hiện nay trái thanh long Tân An, dầu không so bằng thanh long Bình Thuận nhưng cũng được bán đi các vùng phụ cận và đôi khi còn được xuất cảng ra nước ngoài nữa là khác.
Ngoài ra, với một hệ thống sông ngòi và kinh rạch chằng chịt, cộng thêm những vũng trũng luôn ngập nước, Tân An còn là xứ sở của cá tôm nước ngọt, rắn, rùa, và những loại thủy sản khác, vân vân. Ngoài ra, Tân An còn nổi tiếng với những rẫy dưa hấu trong huyện Châu Thành, như ngay trong thị xã có vườn hoa kiểng Thanh Tâm, nơi mà người ta có thể tìm thấy đủ các loại kiểng bonsai đặc sắc, nhiều cây bonsai đã có trên 100 tuổi. Từ ngày vùng trũng phía đông của Đồng Tháp Mười được sáp nhập vào Long An, thì tỉnh nầy cũng nổi tiếng với khu du lịch sinh thái Đồng Tháp, với những khu rừng tràm bao la bạt ngàn, những đầm sen lúc nào cũng thơm ngát hương sen. Từ Tân An người ta có thể đi vào bên trong những khu rừng sinh thái bằng đường sông Vàm Cỏ Tây, với không biết cơ man nào mà kể cho hết những động vật, từ bình thường đến quí hiếm, như ong mật, rắn, rùa, cò, và cả sếu đầu đỏ vô cùng quí hiếm.

Tân An Dưới Thời Pháp Thuộc:
Sau năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông(11) một phần lớn đất đai của Đồng Tháp Mười, nơi có rất nhiều cuộc kháng chiến chống Pháp ngay từ những ngày đầu họ mới xâm chiếm miền Nam. Vì lý do an ninh, thực dân Pháp quyết định bãi bỏ tỉnh Định Tường để thành lập tỉnh mới là Mỹ Tho, Tân An và Gò Công. Vùng Tân An có lúc thị bị chia ra thành khu Tham Biện, do một viên quan Tham Biện người Pháp cai trị. Đến năm 1868, vì lý do trị an nên người Pháp cho thành lập tỉnh Tân An và lại cho dời phủ đường về vị trí tỉnh lỵ Tân An ngày nay. Vùng sông Vàm Cỏ Tây, nơi có cầu Tân An như chúng ta thấy ngày nay, vào cuối thế kỷ thứ XVIII, nó là một bến đò nối liền các làng bên kia bờ sông như làng Nhơn Thạnh, Nhựt Tảo, Bình Lãng, và Huê Mỹ. Lúc đó ghe thuyền từ miền Tây lên Sài Gòn đều phải đi bằng 2 ngã từ Mỹ Tho qua sông Bảo Định, lên Thủ Thừa, qua Bến Lức... hoặc nếu là ghe lớn thì vô vàm Kỳ Hôn, qua kinh Chợ Gạo, rồi vô sông Vàm Cỏ, sông Bao Ngược, rồi về Cần Giuộc. Về mặt lịch sử thì Tân An là một tỉnh cũng khá lâu đời, nó nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ và một phần của vùng Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên, ranh giới tỉnh thay đổi theo thời gian vì an ninh lãnh thổ và phân bố hành chánh(22). Về vị trí tỉnh Tân An thời Pháp thuộc, phía Bắc giáp Cao Miên (23), Nam giáp Mỹ Tho, Đông giáp Sài Gòn và Tây giáp Cao Lãnh và Sa Đéc(24). Lúc đó diện tích toàn tỉnh Tân An là 380.000 mẫu Tây, nhưng chỉ có 80.000 mẫu Tây ruộng đất ở phía Nam của tỉnh có đất đai phì nhiêu, còn lại đa phần là những vùng trũng thấp, ủng nước trong nhiều năm, với những đầm lầy đầy cỏ lác, cỏ năng, hoặc những loại sen mọc hoang dại. Đồng bằng sông Vàm Cỏ(25) nằm giữa hai con sông lớn là sông Đồng Nai và sông Cửu Long, nên đất đai của Tân An rất mầu mỡ, phong phú và được thiên nhiên ưu đãi về mọi mặt.
Sau vụ anh hùng Nguyễn Trung Trực tấn công tàu Espérance trên sông Vàm Cỏ, Pháp bèn chia tỉnh Định Tường và một phần của tỉnh Gia Định ra làm ba tỉnh Mỹ Tho, Tân An và Gò Công. Pháp cắt các vùng Bến Lức, Bình Phước, Thủ Thừa, và Mộc Hóa làm 4 quận (26) để thành lập tỉnh Tân An, để có đủ cấp số quân đội, hầu dễ dàng kiểm soát vùng đất mà họ cho là có nhiều quân phiến loạn, tức quân kháng chiến chống Pháp, hoạt động. Đặc biệt khi Pháp mới xâm chiếm miền Nam, Cần Giuộc và Cần Đước là những vùng đất ngập mặn âm u với rừng đước, sú, vẹt, rất ít dân cư, nên nghĩa quân đã dùng những nơi này làm căn cứ địa đánh Pháp và gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Ngày đó sự đi lại bằng đường bộ trong tỉnh giữa các quận Châu Thành, Thủ Thừa và Bình Phước rất dễ dàng, nhưng sự đi lại từ Châu Thành Tân An đến Mộc Hóa chỉ có một cách duy nhất là đường thủy, theo lối sông Vàm Cỏ Tây, còn có tên là sông Vũng Gù hay sông Hưng Hòa.
Năm 1868, sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, vì lý do an ninh, họ cho dời tỉnh lỵ về vị trí Châu Thành Tân An ngày nay. Năm 1877, khu tham biện Phước Lộc bị giải thể để được sáp nhập vào Chợ Lớn. Cùng năm đó, tổng An Cựu Thượng thuộc sở Tham Biện Chợ Lớn được sáp nhập vào huyện Tân An(27). Năm 1899, người Pháp lại cắt bớt một phần đất của tỉnh Tân An, gồm 4 quận Đức Hòa, Gò Đen, Cần Giuộc và Cần Đước để thành lập tỉnh Chợ Lớn, nhưng đến năm 1900 thì tỉnh Chợ Lớn bị bãi bỏ, và tất cả 4 quận vừa kể được sáp nhập vào 2 tỉnh Tân An và Gia Định. Năm 1923, chánh quyền thực dân lại cho tái lập tỉnh Chợ Lớn với 4 quận: Cần Giuộc, Cần Đước, Trung Quận và Đức Hòa. Sau năm 1945, tỉnh Long An do chánh quyền thực dân Pháp nắm giữ gồm 3 quận Châu Thành, Thủ Thừa và Mộc Hóa(28). Đến năm 1947, do nhu cầu an ninh, người Pháp lại tách khu rừng Sác, gồm tổng An Thít và Cần Giờ để nhập vào Vũng Tàu để thành lập tỉnh Cap Saint Jacques. Theo các thống kê dân số dưới thời Pháp thuộc, từ năm 1900 đến năm 1930, chỉ trong vòng 30 năm, dân số Long An tăng lên từ 265.000 đến 355.000 người, nghĩa là trung bình mỗi năm tăng hơn 3.000 người. Từ năm 1930 đến năm 1945, trung bình mỗi năm Long An tăng hơn 12.000 người, tức gấp bốn lần của thập niên 1930.
Mãi đến đầu thế kỷ thứ XX, đối với dân thương hồ từ miền Tây đi Sài Gòn lúc nào họ cũng phải đi ngang qua châu thành Tân An, hoặc từ sông Tiền qua Bảo Định,hoặc vàm Kỳ Hôn qua Chợ Gạo để vào sông Vàm Cỏ, rồi qua sông Bao Ngược để đến Cần Giuộc... hay từ Tân An lên Thủ Thừa rồi qua sông Bến Lức, nghĩa là phải đi ngang qua Tân An tại xã Bình Lập (xưa gọi là Vũng Gù). Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, họ cho đào kinh Chợ Gạo nối liền các tỉnh phía Tây với Sài Gòn, nên Tân An không còn giữ vị trí trọng yếu nữa. Riêng các vùng Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Cao Lãnh, và Mộc Hóa, các ghe thương hồ phải qua An Long, theo kinh Đồng Tiến lên sông Vàm Cỏ Tây, đi ngang kinh Thủ Thừa để vào sông Vàm Cỏ Đông, còn gọi là sông Bến Lức, trước khi đến Chợ Đệm, Ba Cụm... Chính vì vậy mà cả hai vị trí Tân An và Thủ Thừa vào thời nầy rất quan trọng.

Tân An Mất Tên Dưới Thời Việt Nam Cộng Hòa:
Tưởng cũng nên nhắc lại, hai chữ Tân An đã có kể từ khi quan Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đồng Nai vào năm 1698, với những thăng trầm, từ tổng Tân An đến huyện Tân An, và phủ Tân An dưới thời các vua chúa nhà Nguyễn. Năm 1867, sau khi chiếm trọn miền Nam, thực dân Pháp chia Nam Bộ ra làm 20 hạt hành chánh, trong đó Tân An được nâng lên làm một hạt hành chánh. Lúc trước tổng Hưng Long thuộc phủ Kiến An, tỉnh Định Tường, năm 1867 người Pháp sáp nhập vào phủ Tân An để thành lập hạt tham biện Tân An. Đến năm 1899, người Pháp bãi bỏ hạt tham biện và cho đổi ra làm tỉnh Tân An. Sau khi tái chiếm Việt Nam vào năm 1945, tỉnh Tân An do chánh quyền thực dân Pháp nắm giữ gồm 3 quận Châu Thành, Thủ Thừa và Mộc Hóa. Sau khi thu hồi độc lập vào năm 1954, chánh quyền VNCH tạm thời vẫn giữ nguyên tỉnh Tân An. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, vì lý do chánh trị, chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa bãi bỏ tên Tân An và đổi tên tỉnh Tân An thành tỉnh Long An. Hai chữ Tân An đã tồn tại trong gần 260 năm, nhưng đến năm 1956 đã được thay bằng hai chữ Long An cho mãi đến ngày nay. Riêng đối với tác giả tập sách nầy, có lẽ hai chữ Tân An đã quá thân thương, vì đó là nơi mà tác giả đã từng trải qua những ngày tháng tuyệt vời với cha mẹ và chị em trong thời thơ ấu. Có thể vì thế mà tác giả dùng hai chữ Tân An và Long An gần như không phân biệt dẫu ngày nay không còn cái tỉnh nào mang tên là Tân An nữa. Lãnh thổ tỉnh Long An vào năm 1956 bao gồm toàn bộ lãnh thổ của tỉnh Chợ Lớn trước đây. Đồng thời cắt những quận cũ của Long An ra để đặt thêm 3 quận mới là Bến Lức, Tân Trụ và Rạch Kiến. Như vậy, lúc nầy tỉnh Long An gồm có 7 quận: Cần Giuộc, Cần Đước, Rạch Kiến, Bến Lức, Thủ Thừa, Bình Phước thuộc vùng Tầm Vu, và Tân Trụ. Vì các vùng Cần Đước, Rạch Kiến, Bình Chánh, Chợ Đệm, nằm rất gần Sài Gòn, Chợ Lớn và Tân An, nên tùy theo tình hình an ninh, những vùng nầy có thể thuộc tỉnh Tân An hay Chợ Lớn. Tháng 7 năm 1957, chánh quyền Đệ Nhất Cộng Hòa cho tách Mộc Hóa ra khỏi tỉnh Long An để thành lập tỉnh Kiến Tường, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Mộc Hóa. Ngay sau đó quận Châu Thành tỉnh Long An được đổi tên thành quận Bình Phước, trong đó thị xã Tân An nằm trong xã Bình Lập thuộc quận Bình Phước. Đến tháng 10 năm 1957, vì lý do an ninh lãnh thổ, chánh phủ VNCH ra nghị định số 306-BNV/HC/NĐ, bãi bỏ tổng Phước Điền Thượng, các xã trong tổng nầy sẽ làm việc trực tiếp với Quận trưởng quận Cần Giuộc(29). Đến năm 1958, chánh quyền VNCH cho đổi tên 2 tổng Cầu An Thượng và Cầu An Hạ ra làm Đức An Thượng và Đức An Hạ. Tháng 10 năm 1958, chánh phủ VNCH ra nghị định số 555-BNV/HC/P7/NĐ, đổi tên quận Châu Thành Long An làm quận Bình Phước(30). Đến năm 1963, 2 huyện Cần Giuộc và Cần Đước được đổi thành Thanh Đức và Cần Đức; tuy nhiên, đến cuối năm 1963, hai quận trên được đổi trở về tên cũ là Cần Giuộc và Cần Đước. Cũng trong năm 1963, chánh quyền đệ nhất Cộng Hòa cắt một phần đất của quận Thủ Thừa để lập quận Đức Hòa cho tỉnh Hậu Nghĩa. Năm 1967, theo nghị định số 40-ĐVHC ngày 7 tháng 1 năm 1967, chánh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa tách 8 xã của quận Cần Đước, nhập thêm một phần đất của quận Cần Giuộc, bao gồm xã Phước Lý, ấp Thuận Tây của xã Thuận Thành, ấp Long Đức và ấp Phước Thuận của xã Phước Lâm, ấp Long Giêng của xã Phước Hậu để thành lập quận Rạch Kiến, quận lỵ được đặt tại xã Long Hòa(31).
Về đường bộ, Tân An có đường trải đá đi từ Tân An đi Sài Gòn, khoảng 50 cây số, theo quốc lộ 1A, Tân An đi Gò Công, Tân An đi Mỹ Tho, Tân An đi Thủ Thừa, khoảng 7 cây số, Tân An đi Tầm Vu, khoảng 12 cây số, Tân An đi Bình Phước, khoảng 15 cây số, Tân An đi Bình Quới, khoảng 6 cây số, và Tân An đi Nhật Tảo, vân vân. Sau khi chiếm trọn miền Nam thì chính quyền mới cho sáp nhập tỉnh Mộc Hóa vào Tân An. Ngày trước từ Tân An không có đường bộ đi Mộc Hóa, nên phải đi theo quốc lộ 4, nay là quốc lộ 1, qua ngã ba Trung Lương, đến Cai Lậy, rồi từ Cai Lậy mới đi đường 49 vào Ấp Bắc rồi lên Mộc Hóa. Bây giờ thì con lộ 62 chạy dọc theo bờ sông Vàm Cỏ Tây đi từ Tân An vô Mộc Hóa đã được thông thương, nên việc đi lại giữa Tân An và các nơi trong vùng Đồng Tháp Mười cũng dễ dàng hơn. Từ Tân An muốn đi Đức Hòa, Đức Huệ phải theo quốc lộ 1A về hướng Sài Gòn, đến liên tỉnh lộ 10 thì rẽ trái đi thêm khoảng 20 cây số nữa là tới Đức Hòa, rồi đi thêm khoảng 20 cây số nữa là tới Hậu Nghĩa(32). Ngoài ra, từ Sài Gòn người ta có thể theo quốc lộ 1A, rồi rẽ trái theo tỉnh lộ 50 đi về Cần Giuộc và Cần Đước. Cần Đước là một quận của tỉnh Tân An, được thành lập dưới thời đệ nhị Cộng Hòa, nhưng địa danh Cần Đước đã có từ lâu lắm. Dưới thời Pháp thuộc, Cần Đước còn nổi tiếng về nghề đóng ghe chài. Tại đây có một xóm đóng ghe, con cháu của những lưu dân từ vùng Đức Phổ(33) vào đây lập nghiệp từ hồi đầu thế kỷ thứ XIX.

***

Để tiện theo dõi Đất Phương Nam 1, Mời Bạn xem các phàn 1,2,34..ở cột danh mục hai bên.

***

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2019

Trơ Mắt Nhìn









Ông bà góp nhặt biết bao đời
Mua mảnh đất này thiệt bở hơi

Gặp phải láng giềng hung dữ lấn 
Thế mà cha chú kể như chơi
Đàn con giận dữ đòi ngăn chúng
Mấy cụ rầy la chẳng tiếc lời
Hôm trước chiếm rồi nay lại tiếp
Như vầy ấm ức khó mà vơi.
                                  Quên Đi  
*** 

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2019

Từ Đất Tầm Bôn Đến Tỉnh Tân An (Đất Phương Nam 1 TT)


Lịch Sử Vùng Đất Tầm Bôn:

Tìm hiểu lịch sử của một vùng đất trước tiên phải tìm về nguyên lai của vùng đất ấy, rồi mới tuần tự kể lại những gì đã diễn ra theo dòng thời gian. Vùng đất mà ngày nay chúng ta gọi là Long An đã từng trực thuộc vương quốc Phù Nam, từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu sau tây lịch. Sau khi Phù Nam bị triệt tiêu, vùng đất nầy trực thuộc vương quốc Chân Lạp với cái tên là Thủy Chân Lạp, có lẽ vì nó nằm về phía trũng nhất của vương quốc nầy. Tuy nhiên, không riêng vùng đất Long An mà toàn vùng Thủy Chân Lạp đã bị vương quốc Chân Lạp quên lãng trong suốt gần mười thế kỷ. Thật vậy, mãi đến thế kỷ thứ XVII, cũng như toàn vùng Đồng Nai-Gia Định, tức vùng Thủy Chân Lạp ngày đó, vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Long An vẫn còn chìm ngập trong hoang vu. Đến giữa thế kỷ thứ XVII, có lẽ từ sau cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II, lưu dân Việt Nam từ các vùng Thuận Quảng mới bắt đầu đổ xô vào đây khai khẩn. Tuy nhiên, mãi đến cuối thế kỷ thứ XVII, Lê Quý Đôn đã nhận xét trong Phủ Biên Tạp Lục về vùng đất nầy như sau: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Tiểu, cửa Đại trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm.”(1) quân Xiêm La, trên đường rút quân về Gia Định, quan Thống Suất đã cho đóng quân lại tại Vũng Gù, tức khu chợ Tân An ngày nay. Tại đây, quan Thống Suất đã cho quân khai phá hai bên bờ sông Vũng Gù, tức đoạn sông Vàm Cỏ chảy qua vùng Tân An ngày nay. Ông cũng cho lệnh nạo vét lại con những rạch đã có sẵn, đào thêm kinh mương, lập đồn điền, và xây thêm đồn lũy để phòng vệ. Nhờ vậy mà không đầy 20 năm sau đó, vào khoảng năm 1725, dân số của toàn vùng dinh Phiên Trấn vào khoảng 40 ngàn hộ gia đình với khoảng 200 ngàn dân. Năm 1731, Miên vương Nặc Tha (Sotha II) dâng đất Long Hồ và Mỹ Tho cho xứ Đàng Trong. Cùng năm đó chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Chu khuyến khích cư dân đến khai phá hai vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Năm 1744, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lập Trấn Biên Dinh(2), Phiên Trấn Dinh(3), Long Hồ Dinh và Hà Tiên Trấn. Năm 1753, chúa Võ Vương cho lập Đạo trường Đồn gồm đất Mỹ Tho, Cao Lãnh và Mộc Hóa chạy dài đến biên giới Việt Miên ngày nay. Sau đó năm 1756, xứ Đàng Trong lại nhận thêm vùng Tầm Bôn và Lôi Lạp. Đến năm 1757 nhận thêm các vùng Trà Vang, Ba Thắc, và cuối cùng là phủ Tầm Phong Long.
Sau khi thu nhận Tầm Bôn và Lôi Lạp, Chúa Nguyễn vừa nỗ lực phát triển Thuận Quảng, vừa đưa nhân lực của người Chàm vào khai khẩn vùng đất mới thu nhận này. Bên cạnh đó, nhóm dân cùng khổ miền Trung vẫn tiếp tục vào Nam, đa số là đi theo đường biển vào cửa Soài Rạp, đến định cư ở hai bên bờ của hệ thống sông Vàm Cỏ, rồi sau đó họ tiếp tục tiến sâu vào đất liền, tức là vùng Long An ngày nay. Đồng thời, để nhanh chóng khai thác những vùng đất mới này, chúa Nguyễn cho phép quan lại và địa chủ mộ người đi khẩn hoang và cho phép biến tất cả những ruộng đất vừa mới khai phá thành ruộng tư. Một lực lượng đáng kể được các chúa Nguyễn sử dụng trong công cuộc khai phá đất phương Nam là quân đội. Những lúc tạm ngừng chiến tranh, các chúa Nguyễn chia bớt một số quân sĩ chuyển sang khai hoang lập đồn điền cho chúa. Tuy nhiên, phần lớn đất đai mà quân sĩ khai phá được đều rơi vào tay các tướng tá Nguyễn Triều. Một vấn đề khác cũng khá quan trọng xảy ra dưới thời các chúa Nguyễn là vì muốn nhanh chóng biến xứ Đàng Trong thành một vùng sản xuất phát triển nên các chúa Nguyễn đã cho phép địa chủ và quan lại nuôi nô tỳ trong địa hạt cai quản của mình. Chính vì vậy mà thời này phát triển mạnh việc buôn bán nô tỳ, gần giống như nô lệ bên Âu châu thời Trung Cổ(4). Chẳng bao lâu sau đó toàn xứ bán ra rất được giá. Chính nhờ những chánh sách dễ dãi của các chúa Nguyễn nên chỉ một thế kỷ sau đó, tức là vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX, các vùng đất thấp, đầm lầy và các khu rừng rậm trong vùng Tầm Bôn và Lôi Lạp đều được khai khẩn để làm ruộng lúa nước. Đồng thời, không đầy một thế kỷ sau ngày chúa Nguyễn cho thành lập hai phủ Phước Long và Tân Bình (1698), vào thập niên 1770, hai tổng Phước Lộc và Thuận An đã có khoảng 350 thôn với khoảng 75.000 dân. Từ khoảng những năm 1776 đến năm 1802, để củng cố lực lượng quân sự trong việc giành lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, Nguyễn Ánh đã ra sức phát triển kinh tế các vùng trù phú của miền Nam, trong đó có hai tổng Thuận An và Phước Lộc. Năm 1790, Nguyễn Ánh ra lệnh cho quân đội góp phần gia tăng sản xuất bằng cách khai hoang làm ruộng và lập nên những đồn điền dọc theo hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Nhờ đó mà một số khu dân cư đã được thành hình như giồng Cai Yến(5).
Sau khi chiến tranh với nhà Tây Sơn chấm dứt, vua Gia Long đẩy mạnh việc khẩn hoang lập ấp ở miền Nam, trong đó có Long An. Từ đó rất nhiều luồng lưu dân từ các miền ngoài vào Long An lập nghiệp. Năm 1802, vua Gia Long cho đổi phủ Gia Định thành Trấn Gia Định; đến năm 1808 lại đổi trấn ra làm Thành Gia Định, bao gồm 5 trấn: Biên Trấn, Phiên An, Trấn Định, Vĩnh Trấn, và Hà Tiên. Lúc bấy giờ vùng đất Long An thuộc hai huyện Thuận An và Phước Lộc, thuộc phủ Tân Bình, trấn Phiên An. 
Năm 1832, vua Minh Mạng chi đất Nam Kỳ ra làm 6 tỉnh(6), thì đất Long An là phủ Tân An, thuộc tỉnh Gia Định. Dưới thời vua Tự Đức, vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp đã sớm trở thành trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất của vùng Gia Định Thành, dư thừa cho nhu cầu của toàn vùng đất Nam Kỳ. Nghĩa là hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp là hai vùng đất được lưu dân khai thác sớm hơn so với các phần đất còn lại của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1836, sau khi đã dẹp xong cuộc nổi loạn của Lê văn Khôi, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An làm tỉnh Gia Định. Đến hậu bán thế kỷ thứ XIX, người ta bắt đầu khai khẩn các vùng đất mà bây giờ là miền Tây Nam Phần. Năm 1841, vua Thiệu Trị đặt thêm tổng Tân Thạnh, tức vùng thị xã Tân An ngày nay. Vào khoảng năm 1850, phủ Tân An xuất hiện trên địa bạ Việt Nam, nó trở thành một phủ thuộc tỉnh Gia Định với hai huyện Cửu An và Phước Lộc, trực thuộc tỉnh Gia Định. Tân An nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, với phần lớn đất đai của Đồng Tháp Mười. Năm 1852, vua Tự Đức cho phủ Tân An lập 4 huyện, với 18 tổng, 217 thôn xã: huyện Cửu An(7), huyện Phước Lộc(8), huyện Tân Hòa(9), và huyện Tân Thạnh(10).
Năm 1862, quan Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản vào Nam ký hòa ước Nhâm Tuất, nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ(11) cho Pháp. Lúc đó phủ Tân An vẫn còn Nhơn Thạnh Trung, nay là phường 5, thị xã Tân An. Năm 1868, vua Tự Đức nâng tổng Thuận An thành huyện Thuận An, tức vùng Bến Lức và Thủ Thừa ngày nay; nâng tổng Phước Lộc, tức vùng Cần Đước và Cần Giuộc ngày nay, lên làm huyện Phước Lộc; và nâng tổng Tân Thạnh lên làm huyện Tân Thạnh. Đến cuối đời vua Tự Đức thì dân số Long An đã tăng lên rất nhanh và rất cao so với một thế kỷ về trước. Năm 1869, lỵ sở Tân An lại được chuyển về thôn Bình Lập(12). Năm 1899, Pháp chia Nam Kỳ ra làm 20 tỉnh, Long An trở thành một trong 20 tỉnh đó, có một viên quan Tham Biện cai trị.

Cư Dân Cổ Trên Vùng Đất Tầm Bôn:
Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung và vùng đất Tầm Bôn-Lôi Lạp nói riêng, là một vùng đất rất trẻ so với sự thành hình của các châu lục khác. Vùng đất nầy chỉ mới xuất hiện lần cuối cùng vào thời đại đồ đá mới muộn mà thôi, nghĩa là cách nay độ khoảng trên dưới 5.000 năm, do kết quả biển tiến, do sự đổi dòng Cửu Long từ phía Đồng Nai qua Vàm Cỏ, Hà Tiên rồi cuối cùng định vị tại hai nhánh sông lớn là Tiền Giang và Hậu Giang ngày nay. Bên cạnh đó phù sa các sông Cửu Long, Vàm Cỏ và Đồng Nai cũng góp phần không nhỏ trong việc thành hình vùng Tầm Bôn Lôi Lạp nầy. Khoảng 5.000 năm về trước, mực nước biển cao hơn mực nước biển hiện tại khoảng từ 4 đến 5 mét, và toàn bộ vùng đất Nam Kỳ ngày nay đều chìm trong biển nước. Cách nay khoảng trên 3.000 năm thì mực nước biển rút bớt đi một nửa, rồi lại tiếp tục rút dần cho đến ngày nay. Sau khi nước rút, cả vùng mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Kỳ biến thành một vùng sình lầy cả ngàn năm hoang vu trước khi có những cư dân cổ đến trú ngụ tại đây. Thời cận đại mặc dầu vùng Tầm Bôn và Lôi Lạp hãy còn nhiều vùng trũng nhưng đa phần đã cao hơn mực nước biển từ một đến hai mét. Theo những thư tịch cổ cũng như những khai quật các di chỉ khảo cổ học, con người đã đến vùng phía Bắc Tầm Bôn và Lôi Lạp khoảng ba hoặc bốn ngàn năm về trước. Họ là cư dân cổ(13) thuộc những bộ tộc Stiêng, Mạ, Chu Ru, vân vân. Sau đó vào thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, người Phù Nam đã đến đây và định cư trên các giồng đất cao. Nhờ có nguồn nước ngọt quanh năm trên các giồng cao nên có lẽ họ sinh sống bằng nghề làm rẫy. Ngày nay chúng ta còn thấy những dấu tích cư dân cổ trên các giồng Tre, giồng Cát, thuộc xã Yên Luông, giồng Tháp thuộc xã Niên Tây, giồng Sơn Qui thuộc xã Niên Trung, giồng Nâu thuộc xã An Hòa, giồng Bà Lẫy, Bà Canh, giồng Đình thuộc xã Tân Thành, giồng Ông Đi thuộc xã Thạnh Nhựt, giồng Ông Huê thuộc xã Vĩnh Bình, và giồng Trôm thuộc xã Bình Long, vân vân. Tuy nhiên, sau khi vương quốc Phù Nam bị thuộc quốc Chân Lạp tiêu diệt vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6, đầu thế kỷ thứ VII thì hầu như cả vùng mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Phần đã bị bỏ hoang. nầy vẫn còn là những đầm lầy với sông rạch chằng chịt, rừng cây phủ lấp trên một vùng đất ngập mặn bao la bạt ngàn. Đến khi người Phù Nam thành lập vương quốc của họ vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch, họ tiếp nhận tinh hoa của nền văn hóa Ấn Độ cổ, để tạo dựng nên nền văn hóa Óc Eo của chính họ. Nền văn hóa Óc Eo đã rực sáng trong suốt 7 thế kỷ, từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VII sau Tây lịch. Qua những kết quả khai quật các di chỉ khảo cổ, người ta thấy nền văn minh Óc Eo có liên hệ về kinh tế và văn hóa với các văn hóa khác trên bán đảo Đông Dương cũng như các vùng khác của Á châu, và ngay cả với văn minh Trung Á và vùng Địa Trung Hải như Sa Huỳnh, Đông Sơn, Ấn Độ, Trung Hoa, và Hy Lạp, vân vân. Riêng tại địa phương Tân An, trong mười cuộc khai quật, người ta đã khai quật và tìm thấy được ít nhất là 12.000 hiện vật của 20 di tích thời tiền sử và khoảng 100 di tích văn hóa thời Óc Eo. Đặc biệt là khu di chỉ Bình Tả, thuộc xã Đức Hòa Hạ, cách Tân An khoảng 40 cây số, nằm về hướng Đông Bắc thị xã Tân An, trên lộ trình Tân An-Bến Lức. Năm 1910, nhà khảo cổ người Pháp tên Parmentier đã tìm thấy một tổng thể gồm trên 60 di tích trong huyện Đức Hòa, với 6 di tích kiến trúc với nhiều bàu nước cổ chung quanh. Vào năm 1931, một nhà khảo cổ học người Pháp khác tên J.Y. Claeys đã khai quật một kiến trúc bằng gạch nằm về phía Tây Nam những di tích mà Parmentier đã tìm thấy. Vào năm 1987, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khai quật các di tích Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tước. Các nhà khảo cổ phải đào sâu gần 2 mét mới phát giác ra những di tích này. Người ta cho rằng đây là một trong những địa điểm hành lễ của dân Phù Nam. Ngoài ra, trong bộ sưu tập 26 hiện vật bằng vàng ở Gò Xoài có một bản bằng chữ Phạn cổ được khắc trên một lá vàng mỏng ghi lại câu kinh Phật giáo. Bên cạnh đó, cũng có các tượng thần Siva, thần giữ đền, thần Vishnu, các linh vật Linga, Yoni, và rất nhiều mảnh gốm mịn, hay mảnh kim loại, đá quý, sa thạch thuộc nền văn minh Óc Eo, cũng như rất nhiều di chỉ xung quanh ngôi đền Gò Xoài có liên quan đến con người từ thời tiền sử. Các di tích về ngôi đền thờ thần Siva ở Bình Tả cho thấy người Phù Nam thuộc tôn giáo Bà La Môn, một tôn giáo đã có lâu đời tại Ấn Độ và được truyền bá qua phía Nam bán đảo Đông Dương như Chiêm Thành và Phù Nam vào những thế kỷ đầu Tây lịch. Những di tích khảo cổ cũng như tất cả những hiện vật khai quật được tại khu Bình Tả đều có niên đại thời Óc Eo. Căn cứ trên qui mô của các kiến trúc Gò Đồn và Gò Xoài, người ta có thể đoán biết đây chính là một trong những trung tâm sinh hoạt chính trị quan trọng nhất của vương quốc Phù Nam thời đó.

Cư Dân Mới Trên Vùng Đất Tân An Ngày Nay:
Vào những thế kỷ thứ XVI và XVII khi hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài của Đại Việt đang tranh chấp quyết liệt, đã có rất nhiều cư dân xứ Đàng Trong, đa số là lưu dân của các vùng Thuận Quảng, đã âm thầm ra đi đến vùng đồng bằng miền Đông lập nghiệp(14). Thoạt tiên họ đến các vùng Mô Xoài Bà Rịa để khai khẩn những vùng đất cao, rồi những cư dân kế tiếp lại đi xa hơn về phía Nam. Một số ở lại định cư trên vùng Bến Nghé, số khác phát triển dần xuống các vùng mà ngày nay là Cần Giuộc và Cần Đước, số còn lại tiếp tục đi đến những vùng kế cận đồng bằng sông Cửu Long như các vùng Tân An và Gò Công ngày nay. Ngoài ra, còn có một số khác đi thẳng từ Thuận Quảng bằng đường biển vào các cửa Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại, tức là địa phận của vùng Lôi Lạp ngày ấy, rồi đi lần sâu vào vùng Long An. Thời đó, mặc dầu hãy còn hoang vu nhưng đây là một vùng đất hứa vì nơi nầy có vị thế gần biển rất thuận tiện và đất đai rất phì nhiêu. Thường thì họ tìm các giồng cao để làm nơi trú ngụ vì các giồng nầy có thể cung cấp nguồn nước ngọt cần thiết cho họ trong cuộc sống. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy những khu thị tứ tại các giồng đất cao ráo trong vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, cũng như các giồng ven bờ hai con sông Vàm Cỏ. Ngoài ra, như trên đã nói, những lúc tạm ngừng chiến tranh với chúa Trịnh ngoài Bắc, các chúa Nguyễn đã chia bớt một số quân sĩ chuyển sang khai hoang lập đồn điền cho chúa. Sự kiện nầy cũng góp phần không nhỏ trong việc định hình những khu cư dân mới trong vùng Long An, nhất là sau khi quan Thống Suất Nguyễn Cửu Vân kéo quân về lập đồn điền tại đây vào năm 1705. Chính những lưu dân mới nầy đã góp sức rất lớn trong việc khai phá thêm vùng đất phía Bắc Tân An ngày đó, thuộc vùng Đồng Tháp Mười ngày nay. Đến giữa thế kỷ thứ XVIII, cư dân mới trong vùng Tân An đã tăng lên khá đông, có thể lên tới hàng vạn người. Tuy nhiên, khách quan mà nói, thiên nhiên dầu có ưu đãi nhưng rừng thiêng nước độc của nó cũng không kém phần khắc nghiệt. Chính vì vậy mà cho mãi đến cuối thế kỷ thứ XVIII, cư dân mới trong vùng đất Tân An chỉ co cụm trong hai tổng Thuận An và Phước Lộc mà thôi. Đến năm 1868, vì lý do trị an nên người Pháp cho thành lập tỉnh Tân An và lại cho dời phủ đường về vị trí tỉnh lỵ Tân An ngày nay. Kể từ đó dân số Tân An ngày càng tăng rất nhanh. Theo các thống kê dân số dưới thời Pháp thuộc, từ năm 1900 đến năm 1930, chỉ trong vòng 30 năm, dân số Long An tăng lên từ 265.000 đến 355.000 người. Từ năm 1930 đến năm 1945, trung bình mỗi năm Long An tăng hơn 12.000 người, tức gấp bốn lần của thập niên 1930. Trước năm 1975, dân số Long An đã lên đến khoảng 800.000 người. Theo cuộc tổng kiểm tra dân số vào năm 1979, toàn tỉnh Long An có khoảng 949.200 người. Đến năm 1983, chánh quyền mới khuyến khích người dân từ các tỉnh miền Tây đi khai thác vùng Đồng Tháp với nhiều quyền lợi dễ dãi. Chỉ khoảng 6 năm sau đó, người ta đã thấy cả một vùng Đồng Tháp bạt ngàn với lúa và tràm. Theo thống kê dân số vào năm 1989, toàn tỉnh Long An có khoảng 1.120.204 người. Đến năm 2.000, thì dân số toàn tỉnh Tân An đã lên tới 1.306.202 người. Năm 2003, tổng dân số của Long An khoảng 1.363.600 người. Sau đó chánh quyền đã phân định lại địa giới của tỉnh Long An, và đến năm 2009, tổng dân số Long An vào khoảng 1.383.900 người. Như vậy tính từ thời các chúa Nguyễn khi Tân còn An trực thuộc châu Định Viễn của dinh Long Hồ thì dân số trong vùng chưa đầy 5.000 người. Thế mà chỉ hơn hai trăm năm sau đó theo thống kê mới đây vào năm 2009, dân số của toàn tỉnh Long An đã lên đến gần 1.400.000 người, nghĩa là tăng lên gấp 280 lần.

***
Để tiện theo dõi Đất Phương Nam 1, Mời Bạn xem các phàn 1,2,34..ở cột danh mục hai bên.

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019

Ngưu Chức


               Ngày nào dệt cửi chăn trâu
     Giờ cam chịu phạt hai đầu nhớ thương
         Sông Ngân ngăn cách nẻo đường
Ngưu nam Chức bắc song phương vẫn chờ.
 
      Luật lệ thiên đình thật chả thông 
      Vì yêu phải đọa đắng cay lòng
      Ngưu Lang Chức Nữ nào nên tội
      Nhịp Thước Cầu Ô chịu mỏi trông
      Tháng bảy ngâu rơi mừng tái họp
      Ngân hà lệ tủi thỏa chờ mong
      Đôi lời nhắn gởi Tây Vương Mẫu
      Chẳng biết Bà đây cảm động không
                                    Quên Đi