Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Chổi Tàu Cau


Nào phải cao sang cái thứ nầy
Nhà nào cũng có ở miền tây
Ra vườn lượm lấy tàu đôi nhánh
Tay khéo bó thành chổi một cây
Quét sạch rác rơm bay tuốt luốt
Làm cho ruồi nhặng hết vui vầy
Đơn sơ lợi ích nhiều khôn xiết
Thứ bỏ vẫn còn ích lợi đây.
                                    Quên Đi


Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

Tiêu Tương



Sông Tiêu và sông Tương thuộc tỉnh hồ Nam, Trung Quốc. Chổ hợp lưu ở Linh Lăng gọi là "Tiêu Tương".

Về ý nghĩa của 2 từ "Tiêu Tương" có nguồn gốc từ Vua Thuấn và hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh:

"Đế Nghiêu già yếu, Thuấn được Đế Nghiêu nhường ngôi vị quân chủ của liên minh các bộ lạc.
Khi vua Thuấn già, ngôi vị thủ lĩnh được truyền cho ông Vũ, tự mình đi tuần thú nơi xa, do lao nhọc quá mức nên đã mất ở vùng Thương Ngô. Nga Hoàng và Nữ Anh từ nơi xa ngàn dặm tìm đến và khóc, nước mắt nhỏ trên cây trúc khiến thân trúc đầy những vết chấm. Người đời sau gọi loại trúc đó là trúc Tương Phi. Cuối cùng Nga Hoàng và Nữ Anh tự tử chết ở chỗ hợp lưu sông Tương và sông Tiêu". Truyền thuyết này đến nay vẫn còn lưu truyền trong dân gian.

Từ đó Tiêu Tương mang ý nghĩa của người Nữ thương nhớ người Nam.

- Trong Chinh Phụ Ngâm có câu:

    Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
       Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
        Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

- Trong bài thơ "Lệ" của Lý Thương Ẩn có câu:

湘江竹上痕無限
峴首碑前洒幾多
Tương giang trúc thượng ngân vô hạn
Hiện thủ bi tiền sái kỷ đa

Sông Tương trúc ngấn dòng thương cảm
Núi Hiện bia đầy hạt xót xa


- Trong bài thơ "Trường Tương Tư" của Lương Ý Nương có câu:

我 在 湘 江 頭
君 在 湘 江 尾
相 思 不 相 見...
Ngã tại Tương Giang đầu
Quân tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến...
 
Em ở đầu sông Tương
Chàng ở cuối sông Tương
Nhớ nhau chẳng gặp nhau...


- Có lẽ do ảnh hưởng từ bài thơ của Lương Ý Nương nên bài "Trường Tương Tư" của  Bạch Cư Dị có câu :

妾住洛橋北
君住洛橋南 ...
Thiếp trú Lạc Kiều bắc
Quân trú Lạc Kiều nam...

Em ở bắc cầu sông Lạc
Anh ở nam cầu sông Lạc

- Cũng như Bạch Cư Dị, trong bài hát Bốc Toán Tử của Lý Chi Nghi đời Tống có câu:

我住長江頭 ,
君住長江尾 ◦
日日思君不見君...

Ngã trú Trường Giang đầu
Quân trú Trường Giang vĩ
Nhật nhật tương quân bất kiến quân

Em ở đầu Trường Giang
Chàng ở cuối Trường Giang
Ngày ngày nhớ chàng không thấy chàng

 
Về sao này, 2 từ "Tiêu Tương" ngoài ý nghĩa người Nữ thương nhớ người Nam. Tiêu Tương được diễn giải rộng ra là nỗi nhớ thương của hai người yêu nhau phải xa cách.


Huỳnh Hữu Đức

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024

Như Là Mơ

 


Dặm ngàn ngăn cách tưởng rằng mơ
Dõi mắt xa trông chẳng thấy bờ
Bạn đó tôi đây bao đất nước
Lòng chờ ý đợi mấy vần thơ
Qua thư điện tử trao trang chữ
Nối mạng toàn cầu nhả khúc tơ
Phấn khởi chuyền nhau điều thú vị
Vui do bàn phím với tay sờ.
                           Quên Đi

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024

Em Còn Nhớ

Em bước lên tàu có xót xa
Em đi có nhớ đến quê nhà
Sân trường một thuở vang lời hẹn
Gốc phượng nay hè bặt tiếng ca
Giữa biển mông mênh thêm dạ rối
Nơi tim vương vấn đẫn người ra
Hai phương còn nhớ "Thề Non Nước"
Để tóc bây giờ đã tuyết pha.
                        Quên Đi

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

Chút Gì Đọng Lại



Nhìn đóa hoa xinh nghĩ đến người
Rạng ngời trước gió một màu tươi
Đôi khi nhớ lại ngày xuân đẹp
Những lúc trao nhau ánh mắt cười
Cứ ngỡ cuộc tình như ước nguyện
Đâu ngờ hoàn cảnh khéo trêu ngươi
Thôi đành phải nói lời ly biệt
Trái ngọt yêu đương khó vẹn mười.
                                    Quên Đi

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2024

Với Nhà Thơ Trên Mạng

 


Ý từ cảm xúc với thi nhân  
Mượn bút đôi câu thả mấy vần   
Tuy chẳng chuốt trau thành chuỗi ngọc   
Nhưng thừa thể hiện tấm lòng chân   
Bao năm đối hoạ dường chưa đủ    
Tương ngộ hằng mong dẫu một lần   
Ứớc có hội thơ mình diện kiến
Nhờ duyên giấy mực thoả tình thân
                                   Quên Đi

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2024

Sáng trên sông

 


Bốn bề nhộn nhịp thay  
Soi sáng cả sông dài   
Mặt nhật vừa khoe dáng  
Tình xuân chẳng đợi ai  
Sao em đành bỏ chuyến
Đò đợi suốt bao ngày 
Sáo cũ còn đâu nữa 
Đành thôi chớ tiếc hoài.

               Quên Đi

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2024

Về Thăm Nhà

 

Cũng đã lâu rồi nơi đất khách   
Bồi hồi trở lại mái nhà xưa  
Ngồi trong xe ngổn ngang tâm sự  
Trên đường về ra rả nhịp mưa   
Bụi bám nhện giăng dầy cổng nhỏ  
Then cài chủ vắng khách dần thưa
Bao nhiêu kỷ niệm còn lưu dấu
Xa biệt vì hoàn cảnh đẩy đưa.    
                                     Quên Đi  

 

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Cảm Nghĩ Về Luật Thơ

 


Trò chơi nào cũng có những luật lệ riêng của chúng. Thơ cũng không ngoại lệ, cũng có Luật thơ.
Thế Luật Thơ là gì? Luật thơ chính là những nguyên tắc, những qui định, những điều mà người làm thơ phải tuân theo. Tùy vào thể loại, mỗi loại thơ có những qui tắc khác nhau.
Từ việc giao thoa văn hóa giữa các nước, Việt Nam chúng ta ngày nay sử dụng khá nhiều dạng thơ, Tây có, Tàu có, cùng với thơ bản địa. 

A - Thơ Tây Phương

Căn bản, thơ của Tây Phương thường gieo vần Độc vận hoặc Liên vận ở cuối câu. Ảnh hưởng của thơ Tây Phương đã mang đến cho chúng ta một dạng vào đầu thế kỷ 20, dạng này được gọi là Thơ Mới.
       Thí dụ:
1/ Trích Đoạn Après La Bataille   
                       Tác Giả Victor Hugo

Mon père, ce héros au sourire si doux,
Suivi d’un seul housard qu’il aimait entre tous
Pour sa grande bravoure et pour sa haute taille,
Parcourait à cheval, le soir d’une bataille,
Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.
Il lui sembla dans l’ombre entendre un faible bruit.
...
Đây là bài thơ Liên Vận, gieo vần từng cặp câu.

2/ Trích Đoạn Il Pleure Dans Mon Coeur
                           Paul Verlaine
Il pleure dans mon coeur
Comme il pleut sur la ville;
Quelle est cette langueur
Qui pénètre mon coeur

Ô bruit doux de la pluie
Par terre et sur les toits!
Pour un coeur qui s'ennuie
Ô le chant de la pluie
....
Bài thơ này Liên Vận, cứ 4 câu sử dụng Độc Vần, vần được gieo ở các câu 1,3 và 4.
3/
 Trích đoạn: Stances- 
                  Tác giả: Puskin

Avez-vous vu la tendre rose,              
L’aimable fille d’un beau jour,          
Quand au printemps à peine éclose,   
Elle est l’image de l’amour ?             
Telle à nos yeux, plus belle encore,
Parut Eudoxie aujourd’hui :
Plus d’un printemps la vit éclore,
Charmante et jeune comme lui.
....
Bài thơ này theo dạng Liên Vận và gieo vần cách câu.

B - Thơ Trung Hoa

1/ Thơ Cổ Phong: lề, thói xưa (Cổ Thể : thể cách xưa)
Đây là thể thơ có trước nhà Đường bên Tàu, không có luật lệ nhất định. Vần gieo có thể Bằng hoặc Trắc.

    關雎              Quan Thư  1

關 關 雎 鳩,  Quan quan thư cưu     
在 河 之 洲。  Tại hà chi châu.    
窈 窕  淑 女, Yểu điệu thục nữ,
君 子  好 逑。 Quân tử hảo cầu

Bài thơ này thuộc dạng Đoản Thiên, Độc Vận và gieo vần ở các câu 1,2 và 3.

長 干 行  其二    Trường Can Hành Kỳ 2
         
家 臨 九 江 水      Gia lâm Cửu Giang thuỷ   
來 去 九 江 側      Lai khứ Cửu Giang trắc.    
同 是 長 干 人      Đồng thị Trường Can nhân   
生 小 不 相 識。  Sinh tiểu bất tương thức. 
                崔顥                       Thôi Hiệu

 Bài thơ này gieo vần Trắc, cách câu. 
   
            Trích Đoạn:
 龍城琴者歌              Long Thành Cầm Giả Ca
             阮攸                                             Nguyễn Du
龍城佳人                       Long thành giai nhân  
不記名字                       Bất ký danh tự      
獨善絃琴                       Ðộc thiện huyền cầm      
舉城之人以琴名           Cử thành chi nhân dĩ cầm danh
學得先朝宮中供奉曲    Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc
自是天上人間第一聲。Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh   
 ... 
Bài thơ theo dạng Trường Thiên, số chữ trong câu tùy tác giả, gieo vần Cách Câu, Liên Vận

Qua phần trình bày bên trên, chúng ta thấy, thơ Tây phương và thơ Cổ Phong của Trung Hoa, có một số nét tương đồng như cách gieo vần, số chữ trong câu cũng như số câu trong bài thơ.

2/ Thơ Đường Luật (Cận Thể hay Tân Thể: dạng mới, dạng gần nhất)

Đây là dạng thơ xuất hiện đời Nhà Đường bên Tàu, có những qui định khắc khe nhất: Luật Thanh ( tạo sự trầm bổng), Vần (tạo sự liên tục êm ái xuôi tai), Đối (tạo sự phản biện hay đồng thuận, bổ nghĩa cho nhau, làm rõ hơn ý tưởng của bài thơ), Niêm (Sự liên kết chặt chẽ về âm luật giữa các câu thơ với nhau), và sau cùng là Bố Cục(tạo sự kế tục trong ý thơ, tránh trường hợp đầu Ngô Mình Sở, mỗi câu mỗi ý). Người làm thơ phải tuân theo các luật này.

   曲江 其二           Khúc Giang Kỳ Nhị    
                 杜甫                               Đỗ Phủ 
 
朝回日日典春衣      Triều hồi nhật nhật điển xuân y
 每日江頭盡醉歸     Mỗi nhật giang đầu tận tuý qui
 酒債尋常行處有     Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
 人生七十古來稀     Nhân sinh thất thập cổ lai hi
 穿花蛺蝶深深見     Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến
 點水蜻蜓款款飛     Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi
 傳語風光共流轉     Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
 暫時相賞莫相違     Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.

C- Thơ Việt Nam
 
Do ảnh hưởng văn hóa từ các quốc gia khác, nên chúng ta có nhiều loại thơ, thơ du nhập từ nước ngoài và thơ bản địa.

1- Thơ Mới và Thơ Tự Do

Thơ Tự Do xuất hiện và phát triển từ những năm đầu của hậu bán thế kỷ 20. Đây là dạng thơ phá bỏ các luật lệ trước Nó. Thơ viết thiếu vần kém điệu, nhiều lúc nghe hơi chói tai, phóng bút rất tùy hứng, đôi khi rất khó hiểu. Hai nhân vật nổi cộm của loại thơ này là Thanh Tâm Tuyền và Quách Thoại.

Thơ Mới phát nguyên từ lối thơ của người Pháp. Các nhà thơ thấy thơ Pháp không hạn định số câu, số chữ, không niêm, không đối, có nhiều cách gieo vần, nên mới đem thể ấy áp dụng vào thơ của chúng ta.

Trích Đoạn: Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ

        ... Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
            Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
            Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
            Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
            Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
            Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
            Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
            Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
            Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
            Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?...

Trích Đoạn Tiếng Trúc Tuyệt Vời của Thế Lữ

            Tiếng địch thổi đâu đây,
            Cớ sao mà réo rắt?
            Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt,
            Mây bay... gió quyến mây bay...
            Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt
            Như hắt hiu cùng hơi gió heo may...

2- Thơ Đường Luật
Đây là Dạng thơ mà các triều đại trước của Ta, thường sử dụng trong các kỳ thi chọn nhân tài. Tất cả qui luật đều tuân thủ theo luật của Thơ Đường Luật, có nghĩa là tôn trọng 5 qui tắc bắt buộc.

         Đêm Thu Nghe Tiếng Quạ Kêu
                                        của Quách Tấn

            Từ Ô Y hạng rủ rê sang,
            Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
            Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
            Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
            Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
            Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
            Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
            Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.

3- Thơ Truyền Khẩu

Thơ truyền khẩu của nước ta có nhiều dạng như Tục Ngữ, Ca Dao...Nhưng lãng mạn và tình cảm nhất chính là Ca dao. Khác với thơ nước ngoài, Ca dao Việt Nam vừa gieo vần cuối câu, lại còn gieo vần ở giữa câu. Có một điều rất đặc biệt trong Ca Dao của chúng ta, đó là sự phóng khoáng, không cứng nhắc, chủ yếu sao cho có vần có điệu, nghe xuôi tai và dễ nhớ là được.

             Lạy trời mưa xuống
             Lấy nước tôi uống
             Lấy ruộng tôi cày
             Lấy đầy bát cơm.

Trong Ca Dao, có một thể quan trọng, thường có dạng câu 6, câu 8 chữ, được gọi là thơ Lục Bát:

                Trong đầm gì đẹp bằng sen 
       Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng  
              Nhụy vàng bông trắng lá xanh
        Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Tuy nhiên, thơ Lục bát không bắt buộc chỉ có câu 6 và 8, mà có thể thêm bớt số chữ trong câu:

                     Biết thì thưa thốt
         Không biết thì dựa cột mà nghe

             Sơn Bình Kẻ Gốm không xa  
     Cách một cái quán với ba quãng đồng
        Bên dưới có sông bên trên có chợ
           Ta lấy mình làm vợ nên chăng
              Tre già để gốc cho măng.
Hay là:
                     ...Thành Hà-nội năm cửa chàng ơi  
           Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng   
                    Nước sông Thương bên đục bên trong  
         Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh...

Thơ Lục Bát ngoài gieo vần Bằng còn có thể gieo vần Trắc:

                    Tò vò mà nuôi con nhện
             Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
                       Tò vò ngồi khóc tỉ ti
            Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào.
Hay là:
                 Tình thương gươm trường không sợ   
            Sét đánh bên mình duyên nợ không buông.

Qua những thí dụ về thơ Lục Bát, chúng ta nhận thấy có một điều rất đặc biệt, đó là sự uyển chuyển, phóng khoáng, dễ dãi, không cứng nhắc trong khi làm thơ. Chính vì thế, khi các nhà nghiên cứu; các học giả tổng hợp về ca dao để tìm qui tắc chung cho Thơ Lục Bát, các vị đưa ra luật thơ Lục Bát chỉ mang tính tương đối mà thôi, bởi vì bản chất thơ Lục Bát giống như những người bình dân lam lũ, không thích những ràng buộc những qui định nghiêm khắc.

D- Kết Luận

Trong môn bóng đá có nhiều hình thức chơi: Bóng đá 11 người, Bóng đá trong nhà, Bóng đá bãi biển. Mặc dù cũng là bóng đá, nhưng mỗi loại đều có một vài luật lệ riêng.
Thơ cũng giống thế, có nhiều loại thơ, mỗi loại có những nguyên tắc và qui luật riêng như trình bày bên trên, chỉ cần nhìn vào các điểm riêng này, chúng ta có thể biết đó là loại thơ gì.
Ngày nay, có một vài nhóm thơ, một số người cho rằng làm thơ chỉ vui chơi giải trí, không cần thiết hay bắt buộc phải theo đúng luật. Đây là quan điểm rất sai lầm, trò chơi nào cũng có những luật riêng, khi chấp nhận chơi, chúng ta phải tôn trọng những qui tắc dù khắc khe, nếu không thể làm thơ theo Luật, thì chúng ta có thể chọn thể loại khác để chơi, cớ sao lại phải thay đổi luật lệ đã được qui định từ trước?
Nói chung, chính những luật đã tạo nên nét độc đáo riêng, sắc thái riêng cho thơ, khiến cuộc chơi càng thêm thú vị và hấp dẫn hơn đối với người chơi.

Huỳnh Hữu Đức

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2024

Dị Bệnh

Hổm rày thời tiết ở nơi ta  
Thay đổi thường xuyên đúng thiệt là   
Cái nóng còn đang thì lạnh đến   
Cơn mưa chưa dứt nắng mò ra   
Dường như trời đất đang thay đổi    
Nên khiến anh em nổ quá đà   
Sự việc tầm phào không nhận thức   
Đúng sai chẳng xét cố làm cha!

                                    Quên Đi

 

Thứ Năm, 29 tháng 2, 2024

Đã Đến Lúc


Một thuở mài nghiên chuẩn bị đời 
Vượt bao cám dỗ chẳng hề lơi   
Sân Trình cửa Khổng bền tâm chí  
Phấn trắng bảng đen thử mệnh trời   
Ra sức bao năm đà thoả mãn       
Bây giờ đến lúc được vui chơi   
Rượu vò thơ túi cùng thân hữu    
Xướng họa giao tình tỏa khắp nơi.
                               Quên Đi

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2024

Phù Dung - Hy Vọng

 


              Phù Dung

Ba ngày xuân thoáng trôi qua (*)
Sao đàn bướm vẫn bên hoa lượn lờ
Cuộc đời chỉ một giấc mơ
Tưởng rằng mãi đẹp đâu ngờ tàn phai.

              Hy Vọng

Tết vẫn trong ta tết mỗi ngày (*)
Niềm tin bền vững chẳng hề thay
Con đường phía trước luôn tươi sáng
Chí đã kiên trì dạ chẳng lay.

                                    Quên Đi

(*) Câu Thơ của nhà thơ Mai Sông Tiền.

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2024

Bảy Bước Làm Thơ

 

Một bước nghiệm đề tài 
Ý là bước thứ hai   
Bước ba từ ngữ chọn  
Bốn bước chữ câu khai
Bước tiếp thơ dần lộ
Bước kề hiện cả bài   
Kiểm tra là bước cuối  
Bảy Bước thơ xong ngay.
                    Quên Đi

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2024

Lời Cảm Tạ

 


Từ Nơi Nơi Bạn Bè vui chúc Mừng 13 Sinh Nhật Quên Đi Xúc động thay chẳng biết nói gì Xin Cảm Tạ qua hai từ thô thiển.

 Quên Đi 

Thứ Tư, 7 tháng 2, 2024

Quà Xuân Của Má


 

"Má của Con Má của Con
Tình Người mãi mãi ánh trăng tròn...
"

Nhớ lại những năm còn nhỏ, mỗi khi gần tết, Má tôi thường gom những khúc củi lớn để dành nấu bánh tét. Hình ảnh của Má với nồi bánh Tét mỗi Xuân về, tôi không thể nào quên được. Mãi sau này, khi các con lớn lên có gia đình, Má vẫn nấu bánh tét và mang cho mỗi đứa vài đòn để đón Xuân. Đó chính là món quà mừng năm mới của Má gởi cho anh em tôi.
Bánh Tét của Má, quà Tết cho Con, thường xuyên cho đến những năm gần cuối đời của Người. Bây giờ, mỗi khi xuân về, tôi đều nhớ lại.

Năm nay chờ xuân sang
Ngồi buồn vì nhớ Má
Bao nhiêu cái tết qua
Không có quà năm mới
Của Má gởi cho con
Chỉ còn trong ký ức
Má ơi !...Má của con...

Và năm nay, xuân sắp về, hình ảnh Má và những đòn bánh Tét vẫn lại đến với tôi

Xuân Về Nhớ Má

Năm tháng vô tình lặng lẽ trôi
Má tôi tuy đã hết tuổi Trời
Nhưng hình bóng Má cùng Bánh Tét
Luôn mãi theo tôi đến trọn đời...
Lại một mùa xuân nữa Má ơi
Con nghe trong gió tiếng ru hời
Sông nước vẫn còn xuôi ra biển
Thì Má trong tim vẫn đậm tình...
Bên bếp lửa hồng đêm trừ tịch
Người ngồi canh củi nấu bánh xuân
Reo sôi tiếng nước trong tĩnh mịch
Mường tượng tiếng cười của mẹ quê...
Trời dần khuya gió về thêm lạnh
Môi héo khô nhưng rạng ngời vui
Tình của Má trong từng chiếc bánh
Quà cho con mỗi độ xuân sang...
Nay tết đến sao nghe thiếu vắng
Bánh giao thừa và dáng dấp thân quen
Con ngồi đây lòng đang nghèn nghẹn
Quà Tết đâu?...Con nhớ Má... Má ơi!...

                                       Quên Đi

Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Tục Tảo Mộ Cuối Năm Của Người Việt



Hàng năm, cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp (*) nhiều gia đình người Việt bắt đầu đi tảo mộ. Họ đến thắp nhang thăm viếng, nhổ cỏ, chặt cây cối xung quanh, sửa sang, tu bổ mộ phần của những người quá cố trong gia đình, dòng họ và cả những phần mộ của các vị tổ tiên nhiều đời trước đó.

Đối với dân tộc Việt, tảo mộ ngày Tết mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng, ai ai cũng hướng về cội nguồn. Dù đang làm ăn ở phương trời nào, ai cũng muốn quay về nhà ngày Tết, thăm lại mồ mả ông bà, cha mẹ. Nếu vì một lẽ nào đó, do cuộc sống tha hương cầu thực, con cháu cũng tìm cách gởi gắm người thân chăm lo cho phần mộ ông bà, cha mẹ. Có như thế họ mới yên lòng. Tục tảo mộ cuối năm, không chỉ là phong tục phổ biến của người dân Việt khắp mọi miền đất nước, mà còn là một nét rất riêng của dân tộc Việt. Bởi lẽ, việc tảo mộ đầu năm bên cạnh chăm sóc mộ phần của dòng họ còn mang tính cộng đồng rõ nét. Tục lệ ấy ngày nay trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc và dù có tất bật thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, nhưng hàng năm cứ đến ngày tảo mộ thì tất cả con cháu vẫn luôn hướng về tổ tiên nguồn cội với lòng thành kính nhất

Để tưởng nhớ người đã khuất, những người còn sống mỗi năm đều cúng giỗ. Và vào mỗi dịp năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, người ta còn lo sửa sang, thăm viếng mồ mả, làm sạch đẹp nơi an nghỉ của ông bà tổ tiên, người thân của mình.

Truyền thống tâm linh người Việt tin rằng, khi năm mới đến tất cả mọi thứ đều phải được chuẩn bị, sửa sang cho mới mẻ, kể cả nơi an nghỉ của ông bà, người thân.

Tục ngữ Việt Nam có câu “cao nấm ấm mồ”. Vì vậy, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành, và các bậc tổ tiên đã khuất.

Tục tảo mộ cuối năm, ngoài là một phong tục phổ biến của người dân Việt khắp mọi miền đất nước, còn là một hoạt động mang tính dòng tộc rõ nét.

Đặc biệt, những dòng tộc lớn thường có những ngày tảo mộ được quy định rất cụ thể, thường ghi trong gia phả như một truyền thống của dòng tộc để con cháu ở các thế hệ sau tiếp tục thực hiện, cũng để thắt chặt tình yêu thương, đoàn kết đồng thời cũng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Về quê tảo mộ mỗi dịp xuân về đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội. Người ta ví: “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” là vậy. Ca dao xưa cũng có câu:

           “Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”

Đối với cư dân thành thị, những người đã khuất được mai táng trong các nghĩa trang ở thành phố, do vậy thường khó duy trì việc những người trong gia đình, dòng họ khi khuất núi được chôn cất gần gũi, đầm ấm với nhau như ở thôn quê.

Nhưng cứ mỗi dịp cuối năm, khi sắp đến Tết Nguyên đán, người thành thị cũng luôn sắp xếp thời gian để đi thăm viếng, chăm sóc phần mộ ông bà, cha mẹ, người thân của mình để tỏ lòng hiếu thuận.

Thăm viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa cổ truyền, một tục lệ trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù tất bật thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình.

Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến trong năm với cả gia đình, dòng họ; cũng là để thành tâm mời ông bà tổ tiên chuẩn bị cùng về ăn Tết với gia đình.

Do đó, theo sau phong tục này ta có tục rước ông bà vào trưa ngày 30 âm lịch, và đưa ông bà, thường là vào trưa mùng 3 hoặc mùng 4, tùy theo tập quán ở mỗi địa phương, và nếp sống của mỗi gia đình.

Thường thì ngày tiễn đưa ông bà cũng là ngày cuối cùng của những ngày nghỉ ngơi vui Tết, mọi người trong gia đình lại quay trở về với cuộc sống thường nhật, với những công việc phải làm, cùng với lòng tin là sẽ được tổ tiên phù hộ cho những ngày tiếp sau đó.


* Theo quan niệm của người xưa, ngôi mộ là ngôi nhà của người đã khuất. Vì thế, sau ngày đưa Ông Bà và Táo về trời, lúc đó mới tảo mộ, như thế sẽ không làm phiền Ông Bà nghĩ ngơi. Nhưng ngày nay, do điều kiên sinh kế nên từ mùng 10 tháng Chạp, nhiều gia đình đã đi tảo mộ sớm.
 
Huỳnh Hữu Đức Tổng Hợp


Thứ Bảy, 27 tháng 1, 2024

Thích Vui Hơn Buồn

 


    Thích Vui Hơn Buồn
 
Ta vốn ưa vui, nên vẫn luôn :
Gồng mình, để lệ khỏi sầu tuôn.
Đời là thử thách, ta không né ;
Cảnh dẫu gian truân, tớ chẳng chuồn.
Bình đẳng, không ưa dồn rập nếp ;
Tự do, đâu khứng, xếp theo khuôn. 
Nơi nào “sống tốt” ta tìm đến :
Há phải than van, há phải buồn.
                                 Danh Hữu
            Paris, một sáng thứ năm 20.07.23 

Các Bài Thơ Họa

          Mãi Tự Tin

Đời người biến đổi vẫn luôn luôn 
Mạnh dạn đương đầu chẳng lệ tuôn  
Gặp biến bình tâm không hoảng loạn       
Lâm nguy vững chí chớ lo chuồn
Tang điền thương hải đâu chờ bạn  
Bỉ cực thái lai chẳng rập khuôn 
Tất cả coi như đang thử thách 
Đừng vì trở ngại phải sinh buồn.  
                                  Quên Đi     
***
               An Nhiên

Hãy giữ cho lòng thanh thản luôn
Hơi đâu bi lụy lệ mờ tuôn
Khó khăn trở ngại không sờn tránh
Gian khổ chông gai chẳng né chuồn
Chối bỏ hư danh theo lệ nếp
Khước từ ảo vọng rập nề khuôn
An nhiên tự tại vô tư sống
Đời có gì đâu phải não buồn ?!
                          Phương Hà
                       ( 21/07/2023 )
***
          Lão Giả An Chi 

Thơ Đường niêm luật thích luôn luôn 
Xướng Họa trắc bằng vận cứ tuôn 
Thử thách khả năng ai tránh né 
Gian lao tâm lý kẻ nào chuồn 
Cao niên cân nhắc luôn nề nếp 
Tuổi trẻ so đo vẫn rập khuôn 
Nhập định an nhiên mà tự tại 
Tham thiền thư giãn cớ sao buồn…!
                    Mai Xuân Thanh 
          San Francisco, July 23, 2023




Thứ Ba, 23 tháng 1, 2024

Thơ Và Tôi



Ta buồn thơ lại đến cùng ta     
Tình nghĩa ôi chao quá đậm đà   
Có lúc ngỡ như hình với bóng 
Đôi khi tưởng đấy bướm và hoa 
Có hương thêm sắc hồn tiên nữ    
Kết chữ nên câu chuỗi ngọc ngà  
Bởi thế làm sao rời bỏ được  
Thì thôi giữ kỹ thú đây mà...
                               Quên Đi

Thứ Ba, 16 tháng 1, 2024

Tình Tan Tứ Tuyệt

Nỉ non tiếng dế khóc đêm trường  
Ánh nguyệt buồn tan giữa khói sương   
Bến cũ thuyền xưa vào dĩ vãng
Chữ duyên chữ phận hết chung đường.
                oOo 
Đêm vắng đàn ngân lạnh phím tơ
Ngoài hiên tiếng gió gọi sương mờ
Trăng còn lủi thủi tìm sông bạc       
Người vẫn mỏi mòn đợi bến mơ

                               Quên Đi

 

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2024


Ba còn mãi chốn xa
Một bóng Má quê nhà
Tin nhạn bao giờ đến
Mòn mỏi tháng ngày qua.

                    Quên Đi

Thứ Năm, 4 tháng 1, 2024

Cảm Hoài


Cố lý xa vời vợi
Ngày ngày dõi mắt trông
Cung đàn tôi thổn thức
Khắc khoải tiếng tơ lòng
Năm mới kề bên ngõ
Mai già đã nụ bông
Thân còn nơi đất khách
Bạn cũ có chờ mong.?
                   Quên Đi