Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

Lời Đầu Năm


Những đóa hoa xinh thật xinh
Trang nhà tỏa sắc lung linh
Vào xuân mở bút vui ngày mới
Kết bạn gieo vần thả ý tinh
Họa xướng long vân mùa lễ hội
Đón chào thi hữu buổi bình minh
Tao nhân và Blog nhiều duyên nợ
Năm mới mừng nhau thắm nghĩa tình.
                                Quên Đi


Happy New Year - Lê Ngọc Thúy

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Ca Dao Cạo 6

 
Nhiều khi lại thích hồ đồ
Đúng sai phải trái kệ mồ nó đi
Ngây ngô chả biết giống gì
Mặc cho kẻ nhạo người khi chẳng nhằm
Bao lần lại muốn giả câm
Mặc cho ai mắng chơi khăm mặc người
Để rồi muốn khóc lại cười
Nhân tình thế thái mười mươi chán phèo.

                                           Quên Đi

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Hoài Cổ

Bài Xướng

            Hoài Cổ

Nào phải tài hoa múa bút đâu
Cho nên thơ ráng đạt yêu cầu
Mài mò tập tểnh tìm đôi chữ
Quọt quẹt lung tung ráng mấy câu
Lục Bát liên vần tình giản dị
Đường Thi nghiêm luật ý thâm sâu
Dở hay cũng cố nương lề cũ
Chế biến mà chi vạn cổ sầu.
                          Quên Đi
***

Các Bài Họa:

              Tao Đàn

“Đường thi” theo Nhóm, gởi ai đâu...?
Bạn thiết cùng nhau xướng họa cầu
Học hỏi gieo vần sai mấy chữ
Trau dồi niêm luật lộn đôi câu
Ca dao lục bát xưa mùi mẫn
Tục ngữ thất ngôn mới ý sâu
Bằng hữu tương giao theo nếp cũ
Tao đàn hội ngộ hết âu sầu...!
                 Mai Xuân Thanh
                  Ngày 21/11/2020
***
        Vườn Thơ Thẩn

Thú chơi tao nhã khỏi tìm đâu
Góp chữ cùng nhau nối nhịp cầu
Lục bát nhẹ nhàng thanh thoát ý
Đường thi nghiêm chỉnh gọn gàng câu
Sáng chiều xướng họa vui chan chứa
Khuya sớm luận bàn nhớ đậm sâu
Ngày tháng an vui, lòng thoải mái
Tuổi già thanh thản chẳng lo sầu.
                           Phương Hà
                          (21/11/2020)
***
       Đèo Ngang Hoài Cổ

Đèo Ngang nghĩ tới,nhớ gì đâu!
Bà Huyện Thanh Quan thả nhịp cầu
Cảnh vật phơi bày qua nét chữ
Ý tình mô tả khắp vần câu
Người đời ca tụng vang danh trọng
Hậu thế lưu truyền vọng tiếng sâu
Hoài cổ thi nhân non nước Việt
Lối xưa còn mãi....vạn niên sầu
                      songquang
                       20201122
***
              Hoài Cổ

Tâm giao bằng hữu dễ tìm đâu
Mượn bút đề thơ bắc nhịp cầu
Vương vấn tấc lòng gom góp chữ
Tâm tư bày tỏ viết thành câu
Nương mai gợi ý tình thi vị
Tựa trúc ngỏ tình ý đậm sâu
Đồng cảm trao nhau qua xướng họa
Giữ theo lề cũ vướng chi sầu
                  Kim Phượng
***
            Vào Hội

Sum vầy tập múa chả gì đâu
Chớ nghĩ tài hoa giải được sầu
Lấp ngữ chen từ soi đủ luật
So vần gán vận kiểm từng câu
Niềm vui hoạt khởi lời hô ứng
Quả ngọt bền vun cỗ đáp cầu
Cũ mới tha hồ duyên thụ hưởng
Ưng lòng cảm khoái tự tình sâu
                           Mai Thắng
                              201125

***
             Trở Về

Trở về quê cũ, cố nhân đâu?
Sông nước mênh mang khói sóng sầu.
Văng vẳng thôn xa buồn tiếng sáo
Âm thầm bến vắng quạnh thuyền câu.
Lam chiều mờ ảo sương trên mái
Tơ liễu phất phơ bóng dưới cầu.
Cảnh vật đổi thay hồn lạc lõng
Bên đèn lữ khách lạnh đêm sâu!
                             MaiLoc
                          11-26-2020

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2020

Hồi Chuông Đêm Giáng Sinh

 


Bài Thơ Xướng

Hồi Chuông Đêm Giáng Sinh

 

Vang tiếng chuông ngân tháp Giáo Đường
Giáng sinh lại đến giữa trời sương
Đèn hoa rực rỡ nơi đô thị
Xe cộ ngược xuôi chốn phố phường
Đất khách đông về miền đất lạ
Quê nhà Xuân đến hội quê hương
Khúc ca mừng Chúa trong đêm Thánh
Cám cảnh se lòng kẻ viễn phương

                                 songquang
***
  Các Bài Thơ Họa   
 
           Noel Mùa CoVid

Mưa phùn lất phất nhẹ trên đường
Lành lạnh đông về phố phủ sương
Chuông đổ ngân nga lời khấn nguyện
Âm thầm đón lễ khách tha hương
Cũng do ảnh hưởng từ Covid
Bởi thế lặng yên khắp xóm phường
Mừng Chúa giáng sinh về cứu thế
Đìu hiu vắng vẻ cả hai phương.

                            Quên Đi
***
         Noel Năm Ấy.


Noel năm ấy bước chung đường
Dưới một bầu trời lấm tấm sương
Ta đã hẹn hò nơi góc phố
Và cùng đi dạo khắp thôn phường
Giọng cười anh ấm mênh mang gió
Làn tóc em mềm thoang thoảng hương
Ngoại đạo nhưng tin rằng có Chúa
Đôi mình khấn nguyện rất chân phương.
                                 Phương Hà
***
            Giáng Sinh 2020


Cũng tiếng chuông ngân tự Thánh đường,
Sao nghe lạnh lẽo giữa màn sương.
Cô-vi uy lực tràn phường phố,
Dịch bệnh truyền lan khắp phố phường.
Dị quốc càng sầu niềm dị quốc,
Tha hương thêm chạnh nỗi tha hương.
Giáng Sinh chiếu lệ theo truyền thống,
Mong Chúa hồng ân khắp bốn phương !
                         Đỗ Chiêu Đức
                  Giáng Sinh Cô-vi 2020
***

               Năm Tàn
               (Cảm tác)

Chiều đông, hiu hắt ánh đèn đường
Xa tắp núi đồi phủ khói sương.
Hàng quán im lìm hoang lạnh phố
Co-Vy rờn rợn vắng tanh người.
Tuổi già khắc khoải quê ngàn dặm
Tóc trắng mơ màng gió bốn phương.
Nhạc Thánh vang lừng sao lấp lánh
Năm tàn thấm thía kiếp tha hương!

                              Mailoc
                          12-18-2020
***
                Đêm Noel

Lễ trọng Giáng Sinh ở Thánh Đường
Cây Thông chớp sáng giữa mù sương...
Cô Vy lây nhiễm đau ngoài phố
Nạn dịch tràn lan bệnh dưới phường
Bạn hữu lo âu đời viễn xứ
Anh em khắc khoải kiếp ly hương
Giáng Sinh, Mùa Vọng, theo truyền thống
Đức Chúa Ngôi Hai khắp bốn phương
                        Mai Xuân Thanh

                         Ngày 22/12/2020
***

        Sức Mạnh Niềm Tin

Đèn sao rực rỡ khắp con đường
Buốt giá nghe lòng lạnh tuyết sương
Hòa quyện thánh ca đàn với sáo
Dòng người nhộn nhịp phố cùng phường
Mân Côi sốt sắng lần tràng hạt
Phó thác tình Ngài vọng cố hương
Tha thiết đắm mình đêm nguyện ước
Niềm tin trao trọn kẻ tha phương

                       Kim Phượng
***

            Lời Nhập Thể

Ngôi Lời nhập thế chính là Đưòng
Chấp nhận phong ba với gío sương
Ban phúc trường sinh cho mọi giới
Khơi niềm hi vọng tới thôn phường
Để chung một ý cầu ơn phúc
Và kết muôn lòng thắp nén hương
Khấn nguyện Chúa Trời trừ sự dữ
Giúp người lạc lối hết tha phương.

                             Thái Huy 
                              23/12/20
 

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2020

Chiều Trên Sân Ga Lẻ

 
Bài Xướng

      Chiều Trên Sân Ga Lẻ

Chiều buông tím sẫm ở chân trời
Mờ ảo màn sương phủ khắp nơi
Ngọn gió xạc xào trong khóm lá
Chuông chùa ngân vọng giữa ngàn khơi
Tàu qua vội vã dần xa khuất
Trạm đứng chơ vơ mãi ngóng vời
Những chuyến đi, về luôn hối hả
Kẻ lên, người xuống tai ga đời.

                       Phương Hà
                     (18/11/2020)
***
Các Bài Họa:

1/ Mùa Đông

Ríu rít về Nam đám vịt trời
Cánh đồng bỏ lại tuyết nơi nơi.
Bóng chiều nhoà nhạt tà dương khuất
Đồi núi mơ màng ánh nguyệt khơi.
Rờn rợn chó tru nghe diệu vợi
Vang vang gió hú vọng xa vời.
Rừng phong trơ trọi buồn im đứng
Trắng xoá mênh mông đẹp tuyệt vời!

2/ Tàu Đời

Biết đến ga nao ở cuối trời?
Khách lòng xao xuyến nghĩ về nơi...
Tàu dừng kẻ xuống hành trang bỏ
Còi rúc người cười nhịp sống khơi.
Mấy lúc an vui sương tuyết nguyệt
Nhiều khi ngụp lặn gió mưa đời.
Hành trình tốt xấu tuỳ duyên phước
Bí mật trần gian mãi tuyệt vời!

                              Mailoc
                          11-18-2020
***
     Trên Chuyến Tàu Đời

Ta đang rong ruổi chuyến tàu đời
Đi khắp tận cùng đến mọi nơi
Có lúc gập ghềnh trong núi thẳm
Nhiều khi êm ả giữa đồng khơi
Cửa ra hành lý không mang xuống
Sân đợi tư trang chẳng xách vời
Tàu vẫn âm thầm đưa đón khách
Nhìn quanh xanh biếc một màu trời

                           songquang
***
            Hồn Xưa

Mây xám dần lan một góc trời
Thuyền ai xuôi ngược trú tìm nơi
Con đò năm cũ còn mong nhớ
Lữ khách ngày xưa mãi viễn khơi
Rả rích giọt tình đang thổn thức
Bâng khuâng kỷ niệm đã xa vời
Mỗi mùa mưa đến tình thêm vắng
Bến vẫn người đâu lặng lẽ đời.

                               Quên Đi
***
                  Ga Chiều

Người đã quay lưng lạnh một trời
Nghìn trùng xa cách viễn phương nơi
Hoa trôi sóng nước theo dòng nước
Tình lỡ thuyền tình vượt biển khơi
Xa mặt cớ chi hoài tưởng nhớ
Chung lòng hồ dễ chẳng trông vời
Ga chiều chuyến chót xuân không tới
Là mất nhau thôi suốt cả đời

                            Kim Phượng
***

         Sân Ga Đẫm Lệ

Chiều xuống mống vồng hiện cuối trời
Sân ga tỉnh lẻ trạm nhiều nơi
Giang hồ lãng tử vô bờ bến
Sóng gió thuyền nan lướt biển khơi
Xe lửa đoàn tàu đi tít tắp
Bạn bè thân thích tiễn xa vời
Phù du cát bụi buồn thân phận
Đẫm lệ chia tay khổ một đời !... 

                 Mai Xuân Thanh
                  Ngày 20/11/2020
***

     Hoàng Hôn Trên Sân Ga

Ở tận miền xa bỗng tím trời
Sương mờ thoáng hiện tỏa đầy nơi
Chùa ngân dịu lắng hồi chuông khẽ
Gió thoảng nhàn du những ngọn vời
Vội vã xe vào ga chuyển bến
Âm thầm hướng thả dạng về khơi
Tàu dong ruổi tuyến đường an định
Cõi lặng tìm vui khoảng cuối đời.
                  Mai Thắng – 201124

***

 

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

Tại Sao gọi là chuột máy tính?



Để trả lời câu hỏi này, ta phải quay về thời điểm nhà phát minh Douglas Engelbart thiết kế mẫu chuột máy tính đầu tiên
Vào những năm 1960, Douglas Engelbart và cộng sự Bill English tại Viện Nghiên cứu Stanford (Mỹ) muốn phát triển một thiết bị hỗ trợ con người dễ dàng hơn. Máy tính thời đó có kích cỡ rất đồ sộ, giá cả đắt tiền và việc thao tác cũng vô cùng phức tạp. Muốn thực hiện các tác vụ, người dùng phải gõ từng câu lệnh trên bàn phím.

Sau thời gian dài nghiên cứu và thử nghiệm, Engelbart công bố một thiết bị mà ông gọi là "con trỏ XY”, hoặc “thiết bị định hướng X-Y trên hệ thống hiển thị” vào năm 1964. Nguyên mẫu chuột máy tính đầu tiên có diện mạo khá thô sơ, chỉ là một hộp gỗ với hai bánh xe kim loại giúp thiết bị có thể di chuyển trên bề mặt phẳng. Thoạt nhìn mẫu chuột này có vẻ đơn giản nhưng đội ngũ của Engelbart đã phải thử nghiệm nhiều lần mới có thể tạo ra thiết kế hoàn chỉnh nhất về tốc độ và độ chính xác.
Tuy nhiên, cái tên khó nhớ ban đầu lại không phù hợp với mục đích tiếp thị sản phẩm, buộc Douglas Engelbart phải nghĩ ra tên mới. Cuối cùng mọi người ở Viện Nghiên cứu Stanford đều thống nhất gọi "thiết bị định hướng X-Y trên hệ thống hiển thị" đơn giản là "chuột", bởi hình dáng và kích cỡ của nó khá giống một con chuột thật. Phần đuôi thò ra chính là sợi dây nối với máy tính. Thật ra chiếc đuôi chuột trong bản gốc được đặt ngay dưới cổ tay người dùng, may sao các nhà phát minh nhanh chóng nhận ra sự bất cập nên đã thay đổi thiết kế, kết quả là ta có mẫu chuột với phần dây hướng về phía ngược lại như bây giờ.
Khi được hỏi về vấn đề tên gọi, Doulas Engelbart trả lời: "Không ai nhớ rõ. Nó giống con chuột có đuôi, và chúng tôi đều gọi thế".
Đến năm 1971, kỹ sư Bill English rời Viện Nghiên cứu Stanford để đầu quân cho hãng Xerox PARC và cải tiến mẫu chuột nguyên thủy thành chuột bi. Bánh xe kim loại được thay thế bằng một viên bi cho phép chuột có thể tự do di chuyển theo bất kỳ hướng nào.
Bản quyền Chuột Máy Tinh được bán cho hãng Xerox năm 1981. Mặc dù là người phát minh nhưng vào thời điểm chuột máy tính được phổ biến rộng rãi trên thị trường, bằng sáng chế của Engelbart đã hết hạn nên ông không kiếm được chút tiền bản quyền nào cho phát minh nổi tiếng nhất của mình. 

(Theo Báo Thanh Niên)



Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2020

Độc toạ Kính Đình sơn - Lý Bạch

Độc Tọa Kính Đình Sơn

Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yểm
Chỉ hữu Kính Đình san
                  Lý Bạch (701 -762)

Ngồi Trâm Ngâm Một Mình Ở Núi Kính Đình

1/
Lũ chim đã cao bay xa khuất
Một dải mây cô đơn trôi lững lờ lưng trời
Nhìn nhau mãi mà không thấy chán
Trần ai tri kỷ núi và ta

2/
Chim lũ bay đi mất
Giải mây lạc giữa trời
Chỉ còn ta với núi
Giữa đất trời chơi vơi
            Phạm Khắc Trí
***
Bài Dịch:

Lũ chim bay khuất trời xa
Mây cô đơn bóng chiều tà lặng thinh
Mình ta với núi say tình
Cõi trần tri kỷ nép mình núi cao
                               Trầm Vân
***

獨坐敬亭山    Độc toạ Kính Đình sơn

眾鳥高飛盡    Chúng điểu cao phi tận,
孤雲獨去閒    Cô vân độc khứ nhàn.
相看兩不厭    Tương khan lưỡng bất yếm,
只有敬亭山    Chỉ hữu Kính Đình san.
           李白                               Lý Bạch
***
Dịch nghĩa: Ngồi Một Mình Nơi Núi Kính Đình

Bầy chim bay mất từ lúc nào rồi
Chỉ còn đám mây lẻ loi trôi đi
Cả hai nhìn nhau mãi không thấy chán
Chỉ nơi núi Kính Đình mới có thể tìm đến Đạo.

Dich Thơ: Độc Tọa Kính Đình Sơn

             Đản chim bay mất lâu rồi
       Chỉ còn mây lẻ đang trôi xa dần
            Làm sao chán lúc lòng gần
Muốn tìm đến Đạo dấn thân Kính Đình.
                                       Quên Đi
***
Ngồi Thiền Trước Núi

Cuối trời, chim khuất xa
Cô đơn, mây nhẩn nha
Trước núi, lòng thanh thản
Tâm đạo đến cùng ta
                   Phương Hà
                  (04/11/2020)
***

Đạo...!

1)
Bầy chim bay mất dạng
Mây lẻ bạn trôi đi
Ngó nhau hoài không chán
Kính Đình đây Đạo gì?

2)
Chim bay mất dạng đâu rồi
Mây ơi! Lẻ bóng êm trôi xa dần
Nhìn nhau không chán lại gần
Kính Đình tu học dấn thân Đạo mầu!
                        Mai Xuân Thanh
                        Ngày 04/11/2020

***

Độc tọa Kính Đình Sơn

- Tứ tuyệt

Chim trời bay hút dạng
Mây lẻ trôi bồng bềnh
Cùng ngắm nhau không nản
Chỉ nơi núi Kính Đình

- Lục bát

Chim trời bay hút tầng xa
Vầng mây cô độc trôi là đà trôi
Nhìn nhau cảm thấy bồi hồi
Núi này chỉ điểm là nơi Kính Đình
                   Mai Thắng - 201108

 

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2020

Ngày Thứ Tám


Thứ Hai bất chợt thấy nàng
Thứ Ba ray rức mơ màng giai nhân
Thứ Tư lòng thấy bâng khuâng
Thứ Năm điên đảo theo lần gót ai
Thứ Sáu mong đợi gót hài
Thứ Bảy em lại sánh vai cùng người
Thứ Tám vỡ giấc mộng tươi
Nên giờ còn lại nụ cười héo khô.

                                  Quên Đi

 

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2020

Thu

 
Bài Xướng:

             Thu

Trên cành chiêm chiếp cánh chim nâu
Man mác hồn thu vạn cổ sầu!
Ngõ tối bên hè xào xạc trúc
Mưa chiều trên mái não nề ngâu.
Gió hiu hắt gió rừng vàng lá
Mây chập chùng mây núi bạc đầu.
Rét mướt đã nghe về vạn nẻo
Quê nhà lũ lụt nỗi thương đau!

                            MaiLoc
                         11-15-2020
***
Các Bài Họa:

              Cuối Thu

Lá vàng giờ đã chuyển sang nâu
Trời xám đìu hiu bảng lãng sầu
Lạc lõng ngoài hiên dăm khóm cúc
Bơ phờ bên giậu mấy hàng ngâu
Đêm dài khó ngủ cay xè mắt
Ngày ngắn khôn ngơi nhức nhối đầu
Quanh quẩn vào ra, lòng khắc khoải
Nhớ người...tim nhói một niềm đau.

                           Phương Hà
                          (16/11/2020)
***
            Thu Tàn

Lá khô dưới đất đổi màu nâu
Trời sắp sang đông cảm phận sầu
Sáng sớm sương loang đầu ngọn cỏ
Chiều tà mưa đọng cuối bờ ngâu
Tâm tư thổn thức nhiều bi lụy
Thân xác rã rời lắm khổ đau
Dấn bước ghềnh đời năm tháng lụn
Giờ đây thoáng chốc bạc phơ đầu

                          Song Quang
***
            Man Mác

Lác đác vẫn còn những chiếc nâu
Cành trơ trọi lá dáng cây sầu
Hè qua vương vấn bao tình bạn
Thu đến thẩn thờ những giọt ngâu
Se thắt nhà ai đầy lá chết
Ưu tư mái tóc trắng quanh đầu
Heo may rả rích càng cô quạnh
Như vẳng sáo buồn trổi khúc đau

                               Quên Đi

***
         Chiều Thu

Xám xịt bầu trời ẩn sắc nâu,
Heo may hiu hắt gợi thêm sầu.
Vàng hoe lá úa vài cây khế,
Ảm đạm mưa chiều mấy giọt ngâu.
Cóc nhái tỉ tê vang bến nước,
Dế mèn ri rỉ vọng giang đầu.
Hồn quê xa tít chân trời cũ,
Nhớ mẹ bùi ngùi tấc dạ đau!

             Đỗ Chiêu Đức
         Cuối Thu 2020 Mỹ
***
                 Hỡi Thu

Thu chuyển mùa sang những cánh nâu
Trên môi thu úa dạ thu sầu
Tràn mi ngấn lệ đong niềm nhớ
Động bút trang tình trải giọt ngâu
Buồn hắt hiu buồn giây phút cuối
Nhớ da diết nhớ buổi ban đầu
Trăm năm chữ hẹn chờ duyên kiếp
Chôn chặt tim này một nỗi đau

                         Kim Phượng
***
     Thu Bâng Khuâng

Người có bao giờ nhớ mắt nâu
Hoàng hoa đối ẩm đọng men sầu
Mềm môi vướng nụ hôn vờn tóc
Khan tiếng mong chiều mưa đón Ngâu
Suốt buổi lỡ chờ đôi khắc muộn
Trọn tình lầm hẹn mấy canh thâu
Thì thôi sương thấm bè mây lạnh
Bếp lửa hong thơ thủa gặp đầu...

       Hawthorne 14 - 11 - 2020
                 Cao Mỵ Nhân


Thứ Tư, 2 tháng 12, 2020

Những Phép Đối Ít Dùng Trong Thơ Đường Luật

Chưa lúc nào Đường Luật Thi nở rộ như hiện nay. 
 
Từ hơn nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, những người học về Thơ Đường Luật, đều được truyền từ các Nhà Nho, các nhà khoa bảng, các nhà trí thức có truyền thống Nho Học, theo phương pháp dạy trực tiếp hoặc thông qua sách do Các Vị biên soạn. 
Còn ngày nay, với sự phát triển của Internet, nhiều Thi Đàn Thơ Đường xuất hiện, thật trái ngược với những năm 30 - 40 của thế kỷ trước. Cũng dễ hiểu, vì hiện tại, người làm thơ Đường Luật rất đông, nhờ vào những bài hướng dẫn cách làm thơ, nhan nhản trên các trang Web. Đây là một điều tốt.
Nhưng bất cứ điều gì cũng có mặt trái của nó. Có những Trang rất nghiêm túc, cũng vẫn có những Trang rất sơ suất trong việc phổ biến các bài về Đường Luật, đăng những bài copy từ Trang khác, trong đó có rất nhiều bài tự đặt thêm luật lệ, quy tắc, hoặc những bài viết không rõ nguồn gốc, mà chẳng hề kiểm chứng đúng sai. Vì vậy, sự hiểu biết của một số khá lớn người học Đường Luật trên trang mạng thừa mà lại thiếu. Thừa những cái sai và thiếu những cái đúng. 
Ở đây, tôi xin được đề cập riêng về Phép Đối trong Đường Luật Thi.  
 
Nhiều người cho rằng Đường Luật Thi quá cứng nhắc, như phép đối chẳng hạn, chữ dưới đối chữ trên, đối chan chát thật là khô khan ( Chỉnh Đối). 
Sự thật có phải thế chăng?   
Quan niệm này đúng mà sai, người làm thơ Đường Luật ngày nay, hầu hết đều làm theo phép Chỉnh Đối, dần dà quên đi các phép đối khác. Từ nguyên nhân này, một số người đã ngộ nhận trong Thơ Đường Luật chỉ có một phép đối duy nhất. Vì thế, khi gặp một bài thơ áp dụng những phép đối khác, đã vội cho rằng Thất Luật, hoặc giả cho rằng Phá Cách, kể cả thơ của Tiền Nhân. 
 
Thí dụ như bài "Cò Mổ Trai" của Nguyễn Khuyến:
 
Trai sao chẳng biết tính con cò 
Mày hở hang chi nó mổ cho 
Trai cậy dày mu không khép kín 
Cò khoe dài mỏ chực ăn to 
Thôi về bãi bể cho êm ái 
Để mặc bên sông nó gật gù 
Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ 
Trai già chờ lúc lại phơi mu.

Khi đọc bài thơ này có nhiều người cho rằng cặp Luận: Chữ không đối với Chữ, cũng không đối Tự Loại, như vậy là Thất Đối. 
Những nhận xét trên có đúng không? Dưới đây là một số phép đối trong thơ Đường Luật, ít thấy người làm thơ ngày nay sử dụng:   
 
1- Phép Tá Tự Đối    
 
Đây là phép: ý nghĩa không đối, nhưng lại đối chữ.

Hà Nam, danh giá nhất ông cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co

Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo
Ngớ ngẩn đi xia, may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to!   
                 ("Ông Cò" Trần Tế Xương)    
Trong cặp Thực, chúng ta thấy nghĩa của "trống toang " và "chuông đánh" không hề đối. Nhưng nếu tách ra xét về tự (chữ) "trống" và "chuông" lại đối nhau. 
 
2- Phép Đối Lưu Thủy   
 
Trai sao chẳng biết tính con cò 
Mày hở hang chi nó mổ cho 
Trai cậy dày mu không khép kín 
Cò khoe dài mỏ chực ăn to 
Thôi về bãi bể cho êm ái 
Để mặc bên sông nó gật gù 
Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ 
Trai già chờ lúc lại phơi mu.
                       "Cò Mổ Trai" Nguyễn Khuyến
Chúng ta thấy cặp Luận này xét Tự Loại hay Chữ không hề đối. Nhưng ý được nối tiếp với nhau như dòng nước chảy liên tục. (Trai hãy trở về biển cứ bỏ mặc Cò ở lại sông)

3- Cú Trung Đối
 
Còn gọi Đối Trung Chi Đối hay Tiểu Đối. Tự đối nhau trong từng câu. Câu trên tự đối, câu dưới cũng tự đối. Tự Đối dùng để đối với Tự Đối.

Cái giống yêu hoa lạ lạ đời 
Mắt xanh chưa lọt đã mê tơi 
Chim trời cá nước duyên ai đó 
Vía dại hồn khôn chết dễ chơi 
Xa cách ngoại trăm nghìn dặm đất 
Ước ao trong sáu bảy năm giời 
Cái mê vô ích mà mê dại 
Mê dại mê mê mãi chẳng thôi.   
             ("Cái Giống Yêu hoa" Tản Đà)
 
Chim trời đối với cá nước, vía dại đối với hồn khôn. Hai câu đều tự đối. Tự đối đối với tự đối.    
 
4- Bất Đối Chi Đối
 
Không đối Tự Loại, không đối Chữ, nhưng đối Ý. Cách đối này Tiền nhân sử dụng theo quan điểm "Ý" trọng hơn "Lời".
 
Vàng tung cánh hạc bay bay mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
                ("Bài Dịch Hoàng Hạc Lâu" Vũ Hoàng Chương)  
Hạc vàng mãi không còn quay lại chốn này, mây trắng mãi không có bến dừng. Ý của hai câu này đối nhau thật chặt chẻ.

5- Câu Thơ Đối Với Câu Thơ 
 
Đây là phép mượn thơ của Tiền Nhân để đối nhau:
 
Tương truyền hôm làm rạp để tế, khi trang hoàng xong mới thấy hai bên cột chưa có câu đối, nhân lúc có đông đủ các mặt đại thần, Tiền quân Thành (*) liền yêu cầu cử tọa nghĩ tại tịch một câu để viết và dán ngay cho kịp. 
Các vị bàn tán hồi lâu, nghĩ được mấy câu, cử một người đứng ra đọc cho tiền quân chấm, xem câu nào hơn thì sẽ viết. 
Tiền quân Thành nghe xong còn đương tần ngần lựa chọn vì chưa có câu nào vừa ý, bỗng nhiên thấy
phía ngoài, gần cửa có một thanh niên nhìn vào phía mình, miệng cười nhạt, mặt khinh khỉnh. 
Ông thấy lạ cho gọi vào trách: 
- Đây là chỗ đại thần nghị việc, anh từ đâu tới, dám có cử chỉ vô lễ như vậy? 
Người này thưa: 
- Vì câu đối nghe không được, nên bất giác có thái độ làm phật ý quan tổng trấn, dám xin ngài thứ tội. 
- Ở đây toàn bậc danh nho trong nước, mà anh nghe không được, thì hỗn thật! Nay cho thử làm xem sao, nếu cũng lại không nghe được thì đừng có trách. 
- Chúng tôi là thiếu niên thư sinh, đâu dám so tài với bậc tôn trưởng, chắc rằng có nghĩ ra câu nào cũng không thể nào bằng các vị đại khoa được, vậy nếu quan tổng trấn cho phép, chúng tôi xin lấy văn cổ ra ghép thành câu để trình chuộc tội. 
- Kim hay cổ không sao, miễn nghe được như lời vừa nói. 
- Chúng tôi xin giấy bút. 
Người này cầm bút viết hai dòng trình lên: 
 
Nhật mộ hương quan hà xứ thị (Ngày hết quê nhà đâu chẳng thấy)
                                             Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) 
                                          Lương Châu Từ của Vương Hàn

Tiền quân đọc lên cho các quan nghe mà không ngớt lời khen ngợi: tướng sĩ trận vong đều ở Nam, Trung ra Bắc thì hương quan xứ thị thật là hợp tình. Chinh chiến kỷ nhân hồi là một lời thật thấm thía! Hay, hay thật! (theo Wikiperia.org)

Tóm lại, có thể do chúng ta bảo thủ, hay sợ người nói bài thơ của mình bị thất đối, nên chỉ quen dùng phép Chỉnh Đối, khiến cho bài thơ càng thêm khô khan, mất đi sự thông thoáng. Nếu quả như thế, sao chúng ta không thể tự cởi bỏ cho mình những e ngại, rào cản, mạnh dạn sử dụng những phép đối khác, khi làm thơ Đường Luật.

Dù ai nói đông, nói tây 
Lòng ta vẫn vững như cây giữa rừng
Dù ai nói ngả nói nghiêng 
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
                                       Ca Dao

Thỉnh thoảng tôi cũng có làm một số bài theo các cách đối trên:

* Mơ Nguyệt (Tá Tự Đối)

Vườn bên nguyệt quế tỏa hương lan
Ao ước đêm nay viếng Quảng hàn
Để ngắm Hằng xuân có đổi
Hay là bóng sắc dần tan

Minh Hoàng hữu hạnh du cung quế
Tục sĩ vô phương thỏa mộng vàng
Tròn khuyết nguyệt kia hư lẫn thực  
Mơ trăng ảo giấc vẫn còn đang.

* Sinh Nhật (Đối Lưu Thủy)

Cúng căn lúc nhỏ nhớ đi mà
Lễ lục bát..tuần kính mẹ cha
Con cháu họ hàng mừng tuổi thọ
Anh em bạn hữu xúm đàn ca
Tiệc tùng chủ yếu cầu vui khoẻ
Nào phải kinh doanh để nhận quà

Tây với Ta dù hơi khác biệt
Nhưng thêm sinh nhật có chi là...

*   Cảm Hứng (Tiểu Đối)
 
Thi đàn rực rỡ với ngàn hoa 
Đắm sắc tao nhân thả nét ngà
Kết chữ gieo vần sao khéo chọn
Đề thơ khởi bút ngát hương xa
Mơ màng bao cảnh xuân tươi thắm
Nắn nót đôi câu ý đậm đà
Hà cớ đường thi hay lục bát
Cùng nhau cảm xúc mở lòng ra.

Huỳnh Hữu Đức


(*) Nguyễn Văn Thành Tổng Trấn Bắc Thành, vị quan có công rất lớn của vua Gia Long.