Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

Chiếc Lá Cuối Mùa


Bài Thơ Xướng 

   Chiếc Lá Cuối Mùa

Lá vàng rơi ngỡ bước chân ai
Gió rít qua khe tiếng thở dài
Yêu đã bao năm yêu chẳng nghĩ
Hận dầu hết kiếp hận nào phai
Cuộc đời biến đổi tình tan vỡ
Số phận chia ly cảnh khéo bày
Cam chịu gánh sầu khi rẽ lối
Bởi lòng động tựa lá vàng lay

Bởi lòng động tựa lá vàng lay
Hy vọng còn đâu đếm tháng ngày
Từng khắc âm thầm đau quạnh vắng
Mỗi giây mòn mỏi ngấm chua cay
Yêu chi sớm biết tình di hận
Tiếc chỉ càng thêm héo úa mày
Duyên nợ chẳng thành thôi chớ bám
Đành như chiếc lá cuối mùa bay.
                                  Quên Đi

Các Bài Thơ Họa
 
       Tình Chưa Ngỏ...!

Lá rụng bên thềm ngỡ bước ai
Giao mùa lạnh giá thở than dài
Thương thầm mấy thuở thời tươi trẻ
Nhớ trộm bao năm buổi nhạt phai
Một kiếp phù sinh khôn trọn vẹn
Nửa đời lãng tử khéo an bày
Tương tư khắc khoải, màu ly biệt
Tưởng tượng bâng khuâng, chiếc lá lay

Tưởng tượng bâng khuâng, chiếc lá lay
Nội tâm trắc ẩn vốn bao ngày...
Say mê tấc dạ niềm chua ngọt
Đắm đuối lòng son nỗi đắng cay
Đâu biết yêu đương rồi tối mắt
Nào hay quý chuộng vẫn chau mày
Vô duyên đối diện tình chưa ngỏ
Vướng nợ đôi đường mỏi cánh bay...
                     Mai Xuân Thanh
            ( Black Friday, 26/11/2021 )
***
      Niềm Vui Đã Tắt

Nghe lá vàng rơi ngỡ bước ai
Con đường trước mặt tựa thêm dài
Ráng chiều ngắc ngoải sau vòm thẫm
Mặt đất nhập nhòe dưới nắng phai
Dự định mọi bề dường bế tắc
Ước mơ một thuở đã xa bay
Xác thân rệu rã, tâm tàn héo
Nửa kiếp dư thừa sống lắt lay

Nửa kiếp dư thừa sống lắt lay
Sầu thương trĩu nặng suốt đêm ngày
Ngậm ngùi tâm trạng đầy bi lụy
U uẩn nỗi niềm ngập đắng cay
Nhìn bướm vờn hoa thêm ngứa mắt
Thấy chim chắp cánh  lại cau mày
Vào ra một bóng, đời hiu quạnh
Lẽ sống xa rời tựa lá bay
                       Phương Hà
                     ( 27/11/2021 )
***

   Góp Vui Giữa Mùa Đại Dịch

              

Giữa cơn đại dịch, lắm bi ai !

Đó đó, đây đây, tiếng thở dài.

Phòng chống, cửa nhà thôi vắng ngắt

Cách ly, nhan sắc cũng tàn phai.

Một thời nhộn nhịp, đua nhau phá;

Mấy thuở se sua, mặc sức bày.

Thôi nhé, nhắc chi, buồn cả dạ;

Xa hoa chuyện cũ, chớ thày lay.

 

Xa hoa chuyện cũ, chớ thày lay.

Đắp điếm, giờ đây, ngày biết ngày.

Thời thế, xem ra, chưa hết đắng

Thế thời, ngẫm lại, hãy còn cay.

Vác-Xin mấy mũi, tình thiên hạ;

Cô-Vít dăm con, tội chúng mày.

Đất nước, mong sau mùa Đại Dịch

Sẽ vươn cùng thế giới cao bay. 

                              Danh Hữu

             Paris, Sáng thứ bảy 27.11.2021

***
           Nợ Trần Ai

Cũng mong trả hết nợ trần ai
Dù đã trãi qua những bước dài
Một kiếp phong trần đà gánh vác
Nữa đời lưu lạc chửa phôi phai
Nhân tình bạc bẽo còn đeo đuổi
Thế thái lọc lừa cứ lắt lay
Mơ chút tâm nhàn đâu có được 
Vì chưng con tạo đã an bày !

Vì chưng con tạo đã an bày
Nhân thế tình đời chẳng chuyển lay
Mấy lúc mong tìm theo vạn ngã
Đôi lần ao ước suốt bao ngày
Lòng người ngó tới đầy gian trá
Thế sự nhìn lui ngập đắng cay
Khắc khoải nợ trần còn réo gọi 
Bao giờ trả dứt để sầu bay ?!
                               songquang 
                               20211127
***
              Thu Sầu

Xào xạc lá vàng ngỡ bước ai
Chờ mong thao thức suốt đêm dài
Tâm đầu thắm thiết không thay đổi
Ý hợp thuận hòa chẳng nhạt phai
Dẫu biết ân tình luôn vướng víu
Phải chăng định mệnh đã an bày
Vỡ tan giấc mộng đành ôm mộng
Man mác thu sầu động gió lay


Man mác thu sầu động gió lay
Tiết thu ray rứt cuối thu ngày
Duyên tình nhớ mãi càng da diết
Kỷ niệm mong hoài chuốc đắng cay
Níu giữ hương thừa thêm ủ mặt
Tiếc chi hoa úa đến chau mày
Bâng khuâng gợi nhớ mùa thu ấy
Chiếc lá cuối cùng cũng vút bay
                              Kim Phượng

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Đợi Chờ

 
Bài Thơ Xướng


             Đợi Chờ

Một mình tha thẩn với đèn chong
Thao thức thâu đêm nỗi bận lòng
Tuyết đã rơi kia bay vướng cửa
Hồn thời lạnh đó ngó qua song
Mơ chừng Chúa đến như từng nguyện
Nghĩ chắc Ngài thăm thể ước mong
Để giải giúp cho bài toán khó
Lâu nay cuộc sống tựa rêu rong.
                            Thái Huy 12/13/21

Các Bài Thơ Họa

Nguyện Cầu

Biết mấy đêm trường mỏi mắt chong
Nghĩ về dịch bệnh xót xa lòng
Nhiều người thiêm thiếp trên giường bệnh
Lắm kẻ vật vờ sau chấn song
Cuộc sống bấp bênh, già tuyệt vọng
Miếng cơm ít ỏi, trẻ chờ mong
Giáng Sinh cầu Chúa ban ân phước
Giúp kiếp cơ hàn, phận gánh rong
                             Phương Hà
                     Mùa Giáng Sinh 2021
***
    Mừng Giáng Sinh 2021

Giáng Sinh đã tới mắt chong chong 
Lễ hội mừng vui háo hức lòng
Lấp lánh đèn sao treo trước ngõ
Lặng lờ bông tuyết rớt ngoài song 
Nhà thờ chật ních người cầu nguyện 
Đường phố im lìm ké hát rong
Chúa cả ngôi cao xin cứu giúp 
Dân tình khốn khổ mãi cầu mong
                           songquang 
                             20211215
***
   Giáng Sinh Năm Nay

Kính Chúa con chiên mắt dõi chong 
Đợi Noel đến với muôn lòng  
Đèn hoa rạng rỡ treo đầy lối 
Cô gái ngại ngần nép cạnh song  
Nhưng phố lưa thưa người dự lễ 
Còn đường im ắng gánh hàng rong 
Cũng vì Cô Vít nên như thế  
Nguyện dịch mau tàn dạ ước mong.
                                        Quên Đi
***
             Hằng Mong

Dưới ánh lập lòe ngọn nến chong
Xin vâng thánh ý thảnh thơi lòng
Đớn đau thân xác trao vào Chúa
Tù hãm tinh thần thoát khỏi song
Lần hạt mân côi câu khấn nguyện
Chân Ngài theo dấu ý cầu mong
Dọn mình đón nhận niềm tin mới
Suốt kiếp đời đời thả bước rong
                        Kim Phượng
***
      Đại Lễ Giáng Sinh 

Trang trí Giáng Sinh ánh điện chong
Thương về Đà Nẵng cũng đau lòng...
Delta, nạn dịch luồn khe cửa...
Covid, Omi lọt chấn song...
Kinh tế bấp bênh ai cứu trợ ?
Tiền nong ít ỏi kẻ chờ mong...
Noel, Cứu Thế Giê-Su Christ
Xin nguyện ơn lành giú́p gánh rong...
                     Mai Xuân Thanh

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

Kính Mừng Chúa Giáng Sinh



             
Xướng
 
Kính Mừng Chúa Giáng Sinh

Sao sáng Bê Lem chiếu tuyệt vời
Hang chiên Cứu Thế đã ra đời...
Thiên Thần xuất hiện chào mừng Chúa
Trần thế bừng vui đón rước Người
Tiếng nhạc du dương vang khắp chốn
Tơ đồng dìu dặt vọng muôn nơi...
Giáng Sinh đại lễ dâng lên Mẹ
Bác ái tình thương tạ Đất Trời...
                          Mai Xuân Thanh
                         December 13, 2021

 Họa

            Đêm Noel

Nhân gian đang dõi mắt trông vời
Kỷ niệm Giáng sinh đến với đời
Rực rỡ đèn hoa mừng lễ Chúa 
Tưng bừng phố xá rộn tim người
Chuông ngân thánh thót lan bao nẻo
Lời nguyện vang vang tỏa mọi nơi
Tinh tú đêm nay dường rạng rỡ
Như soi đêm tối sáng bầu trời.
                                    Quên Đi              ***

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2021

Lục Thuỷ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm

  


 

 

 

 


           Lục Thuỷ 

Lục thuỷ thanh sơn thường tại, 
Cô vân dã hạc đồng phi. 
Đoản đĩnh liễu biên khách điếu, 
Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.
                         Miên Thẩm
Dịch Thơ:

Nước Biếc

Nước biếc non xanh mãi vậy thôi
Mây đơn hạc nội vẫn song đôi.
Thuyền con bờ liễu ai câu cá?
Cầu nhỏ sư về bóng nguyệt trôi!
                                      Mailoc
***
       淥水                     Lc Thủy
淥水青山常在, Lục thủy thanh sơn thường tại,
孤雲野鶴同飛。 Cô vân dã hạc đồng phi.
短艇柳邊客釣, Đoản đĩnh liễu biên khách điếu,
小橋月下僧歸。 Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.

Chú Thích:

* Lục Thủy: là Dòng nước trong. Chữ LỤC 淥 có 3 chấm thủy 氵, có nghĩa là Trong trẻo. Chữ LỤC 綠 có bộ Mịch 糸 là sợi tơ mới có nghĩa là Màu Xanh. 
* Đoản Đĩnh: là chiếc xuồng con.

Diễn Nôm:

Nước biếc núi xanh còn đó,
Mây đơn hạc lẻ cùng bay.
Xuồng con thả câu bờ liễu,
Sư về cầu nhỏ trăng lay!

Lục Bát:
       Núi xanh nước biếc còn đây,
  Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.
        Xuồng con bờ liễu câu hời,
Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn.
                            Đỗ Chiêu Đức
***
           Nước Biếc
(1)
Non xanh nước biếc mãi nơi đây
Mây lẻ hạc đồng đã vút bay
Thuyền khách buông câu bên gốc liễu
Trên cầu sư dạo dưới trăng lay.

(2)
      Non xanh nước biếc nơi này
Mây đơn hạc nội cùng bay thuở nào
   Dưới thuyền, bên liễu, khách câu
Trên cầu sư bước lẫn vào đêm trăng.
                               Phương Hà 
***
         Tùng Thiện vương là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (tức 11 tháng 12 năm 1819) tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. biểu tự Trọng Uyên (仲淵), lại có tự khác là Thận Minh (慎明), hiệu Thương Sơn (倉山), biệt hiệu Bạch Hào Tử (白毫子). Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏寶), người Bình Chương, Gia Định, con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu (阮克紹). Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Hiện (晛). Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (阮福绵审).
        Ông là một nhà thơ lớn của triều đại nhà Nguyễn, được xếp vào một trong Nguyễn triều Tam Đường (阮朝三堂) và là một nhà thơ lớn trong hội Mạc Vân thi xã nổi tiếng.
        Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội.  Tự Đức không kết tội chỉ nói ông: "Chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm". Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày.  Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã (文雅). Năm 1878, ông được Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận vương (從善郡王). Năm 1936, Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện vương (從善王), tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.
Có thể bài thơ "Lục Thủy" được Ông sáng tác lúc về ở chùa Từ Lâm.
Bài thơ "Lục Thủy" được làm theo thể loại Cổ Phong. Nhưng có điều thú vị ở bài thơ này là từng cặp đối nhau.
淥水 Lục Thủy là nước trong, đúng như anh Chiêu Đức đã giải nghĩa.Tuy nhiên trong khi dịch thơ hầu hết đều dịch là "nước biếc", đó chẳng qua cho thanh thoát câu thơ mà thôi.

Dịch Nghĩa: Nước Trong

Núi xanh nước trong vẫn còn tồn tại
Đám mây cô đơn và chim hạc nơi đồng nội đang cùng bay.
Ông câu neo buộc xuồng nhỏ bên bờ liễu
Trên cầu nhỏ dưới ánh trăng nhà sư trở gót quay về.

Dịch Thơ
                 Lục Thủy
 1/
Nước biếc non xanh vẫn chẳng thay  
Hạc đồng mây lẻ cặp kè bay 
Xuồng câu neo đậu bên bờ liễu
Cầu nhỏ Sư về bóng trăng lay.

2/
       Còn đây nước biếc non xanh
  Hạc hoang mây lẻ đồng hành về đâu
      Thuyền neo cạnh liễu ông câu
Dưới trăng nhẹ bước qua cầu bóng sư.
                                            Quên Đi
***
       Nước Trong Veo

Núi xanh nước biếc đó bao ngày
Hạc chiếc mây đơn có bạn bay
Bờ liễu xuồng con câu bắt cá
Dưới trăng cầu nhỏ bóng sư thầy.
                     Mai Xuân Thanh
***
           Nước Biếc

Vẫn còn đây non xanh nước biếc
Hạc lạc đàn, mây lẽ bay đâu?
Thuyền neo gốc liễu buông câu
Dưới trăng Sư bước qua cầu bóng lay
                              Song Quang

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2021

VÔ ĐỀ - Vua Thành Thái

        Vua Thành Thái 成泰 (1879-1954) tên thật là Nguyễn Phước Bửu Lân, là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1889 nhưng vì có khuynh hướng chống Pháp đô hộ nên bị trut phế năm 1907, đưa vào giam lỏng ở Vũng Tàu, đến năm 1916 thì bị đày qua đảo La Réunion (ở châu Phi) cùng một lần với vua Duy Tân. Mãi đến năm 1947, vua Thành Thái mới được về nước, nhưng chỉ được chính quyền thực dân cho phép sống tại Sài Gòn. Năm 1953, vua có ra thăm lại cố đô Huế, rồi mất vào năm sau.

         Năm 1902 nhà Vua được Pháp mời đến Hà Nội dự lễ khánh thành cây  cầu Paul Doumer (Long Biên), trong khi Hoàng Cao Khải đưa ra một danh sách xin nhà vua ban thưởng cho những người có công xây cầu, nhà vua đã cười nhạt mà trả lời rằng :"Ta có biết mặt mũi những đứa nào đâu". Vì nghe đâu xây cầu đã phải mộ hơn ba ngàn dân ta và nhiều người đã phải bỏ mạng khi xây dựng cây cầu đó, như bài vè lưu truyền trong dân gian :

                             Lập mưu xây được cây cầu,
                          Chế ra cái chụp để hầu bơm lên.
                             Bơm hết nước đến bùn đen,
                         Người chết như rạ, phải len mình vào.
                             Vỡ bơm nước lại chảy vào,
                        Chết thì mặc chết, ai nào biết không?!...

       Cám cảnh trước dân tình cơ cực, chết chóc; Mình làm vua mà không nói được gì lại phải giả vui mà dự lễ khánh thành, nên nhà vua đã làm nên bài thơ VÔ ĐỀ dưi đây :

    無題                               VÔ ĐỀ
武武文文著錦袍,     Võ võ văn văn chước cẩm bào,
朕為天子獨艱勞。     Trẫm vi thiên tử độc gian lao.
三杯紅酒群黎血,     Tam bôi hồng tửu quần lê huyết,
一盞青茶百姓膏。     Nhất trản thanh trà bách tính cao.
民淚落何予淚落,     Dân lệ lạc hà dư lệ lạc,
歌聲高也哭聲高。     Ca thanh cao dã khốc thanh cao.
休談此潰干戈靜,     Hưu đàm thử hội can qua tịnh,
禍福將來付爾曹。     Họa phước tương lai phó nhĩ tào !
               成泰                              Thành Thái
            阮福寶嶙                        Nguyễn Phúc Bửu Lân
 
* Chú thích :
  - Gian Lao 艱勞 : là Gian nan lao nhọc; ở đây nhà vua mượn để chỉ cái tâm lý, tâm tình của mình lúc bấy giờ. GIAN LAO về mặt tinh thần chớ không phải thể chất.
  - Quần Lê 群黎 : là Quần chúng Lê dân, chỉ chung tất cả những người dân bình thường trong nước.
  - Bách Tính 百姓 : là Bá tánh, là Trăm họ, cũng chỉ chung tất cả nhân dân trong nước. 
  - Cao 膏 : Trái cây thực vật hay xương cốt động vật đổ nước nấu cho sắt lại thành nhựa, đó là chất CAO, như CAO HỔ CỐT là chất nhựa, thuốc dán được nấu bằng xương cọp... Ở đây BÁCH TÍNH CAO 百姓膏 : là chất nhựa được nấu thành bởi xương cốt của bá tánhl Ý chỉ : Đó là huyết lệ xương máu của nhân dân.
  - Hưu Đàm 休談 : là Nghỉ nói, Thôi nói, không nói nữa; là Đừng bảo là...
  - Hội 潰 : Có 3 chấm thuỷ 氵bên trái, nên có nghĩa là : Vỡ (đê), là Tan vỡ, nghĩa phát sinh là : Thua trận, là Bỏ chạy, là Dân bỏ người cai trị trốn đi...
  - Can Qua 干戈 : CAN là cái mộc để đở; QUA là ngọn giáo để đâm. Nên CAN QUA là Vũ khí dùng để đánh nhau, nghĩa phát sinh là Chiến tranh.
  - Nhĩ Tào 爾曹 : NHĨ là Danh xưng Đại từ Ngôi thứ 2; NHĨ TÀO là số nhiều, có nghĩa : Lũ chúng bây, các ngươi, các người. Ở đây chỉ các quan trong triều.

* Nghĩa Bài thơ :
                            VÔ ĐỀ
   - Tất cả quan văn quan võ đều xôn xao mặc áo gấm để dự lễ hội.
   - Riêng mình Trẫm là thiên tử đây cảm thấy xốn xang trong lòng.
   - Ba ly rượu đỏ (rượu Chát hay rượu Vang) như là máu của quần chúng lê dân.
   - Một chén trà xanh như được sắt từ cao cốt của bách tính trăm họ.
   - Dân rơi lệ nhưng sao lệ của ta cũng rơi theo,
   - Tiếng hát (chúc mừng) cất cao thì tiếng khóc (của dân) cũng cất cao.
   - Đừng bảo là sau lần thua trận bỏ chạy nầy can qua sẽ lặng yên...
   - Cái họa phước về sau trong tương lai sẽ phó thác trông nhờ vào lũ các ngươi đó !

     Sanh năm 1879, lên ngôi năm 1889, lúc mới chỉ có 10 tuổi. Khi dự lễ khánh thành cầu Paul Doumer năm 1902, nhà vua mới chỉ có 23 tuổi đời, còn rất trẻ, nhưng đã có khẩu khí của một đấng minh quân thương nước thương dân. Gian nan khổ hận vì lực bất tòng tâm, có lòng vì dân vì nước nhưng lại không có thực quyền. Đến nỗi thấy cảnh dân tình lao khổ làm thơ cảm thán cũng phải để là VÔ ĐỀ (Sao lại "Vô Đề" ? Chủ đề chẳng đã hiện rõ ràng từng câu từng chữ trong nội dung bài thơ rồi hay sao ?!). Mừng lễ khánh thành cây cầu đã giết hại biết bao con dân của mình, nên chi nhà vua thấy rượu nho màu đỏ như là màu máu của dân đã đổ ra; và chén trà màu xanh như là cao cốt của bá tánh lê dân đã thiệt mạng. Lệ của dân rơi khiến cho lệ của nhà vua cũng rơi theo, và tiếng hát chúc mừng càng cất cao thì tiếng khóc của con dân cũng vút theo lên cao. Đừng bảo rằng sau trận can qua chết chóc nầy rồi sẽ yên đâu, vì tương lai họa phúc biết đâu mà lường, tất cả chỉ còn trông chờ vào lũ các ngươi (là những quan văn quan võ áo mão sum suê kia, chớ ta là thiên tử nhưng lại chẳng có thực quyền gì cả !)
       Đau xót thay cho nhà vua trẻ có lòng vì nước vì dân nhưng đành phải bó tay ! Nhưng nhà vua vẫn không "yên thân" được với Thực dân Pháp, vì họ cũng rất tinh ý, nên chỉ 5 năm sau, 1907 nhà vua trẻ đã bị truất phế và bị đày vào Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay) để ngồi chơi xơi nước. Đến năm 1916 ông bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.

* Diễn Nôm :
                               VÔ ĐỀ  
                Văn võ bá quan mặc cẩm bào,
                  Mình ta thiên tử chịu gian lao.
                  Rượu hồng tựa thể muôn dân huyết,
                  Trà đậm trông như bá tánh cao.
                  Dân lệ ướt mi ta cũng ướt,
                  Tiếng ca cao vút khóc càng cao.
                  Thôi đừng vọng tưởng can qua hết,
                  Họa phước về sau mặc chúng nào !
   Lục bát :
                               Văn văn võ võ cẩm bào,
                    Thân là thiên tử nghẹn ngào riêng ta.
                           Rượu vang máu của dân mà...
                         Trà xanh tựa thể như là cao dân.
                                 Lệ rơi ta cũng như dân,
                     Tiếng ca như tiếng khóc ngân vút trời.
                             Can qua đừng tưởng yên rồi,
                  Tương lai họa phước trông vời các quan !
                                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm             
 ***

Đồng Cảm Với Dân

1/
Văn võ rình rang trong áo gấm
Làm vua Trẫm nghĩ thật không đành
Rượu hồng tựa máu bao dân  đổ
Trà biếc giống cao lắm họ thành
Tiếng khóc thầm lòng ta chẳng khác
Câu mừng vang nước mắt vòng quanh
Chiến chinh đã hết bàn chi nữa 
May rủi sau này mặc các khanh.

2/
              Cà triều áo gấm rỡ ràng
Khiến lòng dạ Trẫm xốn xang bao đường
        Rượu hồng tựa máu dân thường  
Trà xanh càng giống cao xương trăm nhà  
           Dân than khóc cũng như Ta   
      Hát vui chi khiến mắt sa hai hàng  
          Chiến tranh đã dứt đừng bàn  
      Mai đây mọi việc các quan lo làm.
                                              Quên Đi 
 ***

 Thơ vô đề

 

Xúng xính võ văn, áo cẩm bào,

Thân vua, ta cũng góp gian lao.

Rượu hồng ba chén, muôn dân huyết,

Trà tía một ly, trăm họ cao.

Dân nhỏ lệ, ta sao chẳng nhỏ;

Ca cao vút, khóc há không cao !

Việc xong, chớ nói là xong chuyện:

Họa phước rồi đây, chẳng chuyện tao !

                         Danh Hữu dịch

           Paris, Sáng thứ bảy 13.11.2021

***
            Vô Đề

Văn võ quan xôn xao áo gấm
Xót xa lòng trẫm nỗi đau nầy
Rượu hồng so máu muôn dân đó
Trà biếc sánh cao trăm họ đây
Cùng thống khổ ta dân bật khóc
Càng mừng vui ngấn lệ đong đầy
Lạm bàn chi nữa tàn chinh chiến
Cơ nghiệp tiền đồ phó thác bây 
                      Kim Phượng

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2021

Mùa Lá Rụng

Lác đác ngoài hiên lá rụng nhiều
Tình hờ tròn khuyết vẫn cô liêu
Xót thương vóc liễu trầm mưa nắng
Run rẩy mong manh giữa gió chiều
             Lác đác ngoài hiên lá rụng đầy
             Ngậm ngùi ai khóc quẩn quanh đây
             Tình yêu đoạn cuối nào ai biết
             Phó thác trời cao khéo sắp bày
Lác đác ngoài hiên lá rụng vàng
Phải chăng tình muộn đã sang trang
Cô đơn ánh nguyệt không nơi tựa
Cung điệu ai gieo khúc phủ phàng. 

                                     Quên Đi

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2021

Viếng Hồn Trinh Nữ Thơ Nguyễn Bính - Nhạc Trịnh Lâm Ngân - Phương Mỹ Chi trình bày.



Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ,
Tôi thấy quanh tôi và tất cả
Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô.
            Nước mắt chạy quanh, tình thắt lại,
            Giờ đây tôi khóc một người về,
            Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng,
            Như có ai mời chén biệt ly.
Sáng nay vô số lá vàng rơi,
Người gái trinh kia đã chết rồi.
Có một chiếc xe màu trắng đục,
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi,
            Đem đi một chiếc quan tài trắng,
            Và những vòng hoa trắng lạnh người.
            Theo bước những người khăn áo trắng,
            Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.
Để đưa nàng đến nghĩa trang này,
Nàng đến đây rồi ở lại đây.
Ờ nhỉ! Hôm nay là mấy nhỉ,
Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay...
            Sáng nay, sau một cơn mưa lớn,
            Hà Nội bừng lên những nắng vàng.
            Có những cô nàng trinh trắng lắm,
            Buồn rầu theo vết bánh xe tang.
Từ nay xa cách mãi mà thôi,
Tìm thấy làm sao được bóng người,
Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn.
Tay cầm sáp đỏ đặt lên môi.
            Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,
            Nàng vừa may với gió đầu thu.
            Gió thu còn lại bao nhiêu gió,
            Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ!
                    
Chắc hẳn những đêm như đêm qua,
Nàng còn say mộng ở chăn hoa.
Chăn hoa ướp một trời xuân sắc
Đến tận tàn canh, rộn tiếng gà.
            Chắc hẳn những đêm như đêm kia,
            Nửa đêm lành lạnh gió thu về.
            Nàng còn thao thức ôm cho chặt
            Chiếc gối nhung mềm giữa giấc mê.
Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,
Máu đào ngừng lại ở nơi tim.
Mẹ già xé vội khăn tang trắng,
Quấn vội lên đầu mấy đứa em.
            Người mẹ già kia tuổi đã nhiều  
            Đã từng đau khổ biết bao nhiêu!
            Mà nay lại khóc thêm lần nữa,
            Nước mắt còn đâu buổi xế chiều?
Những đứa em kia chưa khóc ai,
Mà nay đã khóc một người rồi!
Mà nay trên những môi ngoan ấy,
Chả được bao giờ gọi: Chị ơi!
 
            Nàng đã qua đời để tối nay,
            Có chàng đi hứng gió heo may,
            Bên hồ để mặc mưa rơi ướt,
            Đếm mãi bâng quơ những dấu giầy...
Người ấy hình như có biết nàng,
Có lần toan tính chuyện sang ngang.
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,
Vội cắm nghìn thu ở suối vàng.
            Có gì vừa mất ở đâu đây?
            Lòng thấy mềm như rượu quá say.
            Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối:
            Bàn tay lại nắm phải bàn tay.

Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi
Người ta thương nhớ có ngần thôi.
Người ta nhắc đến tên nàng để,
Kể chuyện nàng, như kể chuyện vui.  
            Tôi với nàng đây không biết nhau,
            Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
            “Mới hay tự cổ bao người đẹp,
            Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu.”
                                        Hà Nội, 1940
                                        Nguyễn Bính
 
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân phổ nhạc thành bài hát Hồn trinh nữ..
 Phương Mỹ Chi diễn tả dưới đây:
 

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

Thất Bộ Thi - Tào Thực

Nhà tỷ phú Mỹ Elon Musk khi thấy Trung Quốc lăm le đánh Đài Loan, ông đã đăng bài thơ "Thất Bộ Thi" của Tào Thực. Ông ví Trung Quốc như Tào Phi và Đài Loan như Tào Thực:

   七步詩               Thất Bộ Thi

煮豆然豆萁.    Chử đậu nhiên đậu ky 
豆在釜中泣     Đậu tại phủ trung khấp
本是同根生     Bản thị đồng căn sinh
相煎何太急。 Tương tiễn hà thái cấp.

Dịch Thơ: Bài Thơ Làm Trong Bảy Bước Đi

Dùng cây đậu làm củi để nấu hạt đậu
Hạt đậu ở trong nồi than khóc
Đã được sanh ra cùng một cội rễ
Sao lại nỡ đốt nhau gấp thế này.

Dịch Thơ:

Củi đậu dùng nấu đậu
Đậu trong nồi khóc than
Cả hai cùng một gốc
Sao lại nấu không màng.

Ngoài bản trên, "Thất Bộ Thi" còn một bản khác, có 6 câu:

七步詩             Thất bộ thi     

煮豆持作羹    Chử đậu trì tác canh 
漉豉以為汁    Lộc thị dĩ vi trấp 
萁在釜下然    Ky tại phủ há nhiên   
豆在釜中泣    Đậu tại phủ trung khấp  
本自同根生    Bản tự đồng căn sinh  
相煎何太急。Tương tiễn hà thái cấp.

Dịch nghĩa 

Nấu đậu để làm canh
Lọc đậu để lấy nước
Thân đậu đốt ở dưới nồi
Hạt đậu trong nồi cất tiếng khóc than
Đã được sanh ra cùng một cội rễ
Sao lại nỡ đốt nhau gấp thế này.

Dịch Thơ:

Nấu đậu dùng làm canh
Lọc qua để lấy nước      
Thân đậu cháy dưới nồi
Đậu bên trong khóc mướt 
Cả hai chung một dòng
Lại đốt nhau cho được.   
                       Quên Đi

Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng. Tào Tháo thương lắm nhưng không thể truyền ngôi cho một chàng giàu tâm hồn nghệ sĩ ấy được.  Tháo chết, truyền ngôi cho con cả là Tào Phị Thực bản tính ngông nghênh bất phục, có ý chống lại ông vua anh. Phi giận lắm, truyền người bắt Thực đến định làm tội. Nhưng vì yêu tài Thực nên Phi bảo:
- Ta với mày tuy tình anh em nhưng nghĩa vua tôi, sao dám cậy tài miệt lễ? Ngày tiên quân còn, mày thường đem văn chương khoe giỏi lòe đời. Ta rất nghi, có lẽ mày nhờ người khác làm giúp. Vậy giờ đây ta ra hạn: đi bảy bước phải làm xong một bài thơ. Nếu làm được thì tha tội chết; bằng không xong, ta quyết chẳng dung.
Thực nói: 
- Xin ra đề cho.
Phi nói: 
- Ta với mày là anh em. Cứ lấy câu đó làm đầu đề. Nhưng cấm dùng hai chữ "Huynh", "Đệ".
Thế là Tào Thực làm bài thơ "Thất Bộ Thi".
Phi nghe cảm động, sa nước mắt, liền tha cho, nhưng giáng Tào Thực làm An Hương Hầu. (Theo "Điển Hay Tích Lạ" của Nguyễn Tử Quang)

Cảnh anh em vì tranh giành quyền lực như hai con của Tào Tháo không phải là hiếm. Ngay trong sử Việt cũng có câu chuyện tương tự. Đó là chuyện nói về anh em nhà Tây Sơn.
Do tranh quyền, Nguyễn Nhạc và Nguyện Huệ đánh nhau. Nguyễn Nhạc yếu thế, nên xuống nước thốt lên: 
- “Bì oa chử nhục đệ tâm hà nhẫn” (Nồi da nấu thịt em nỡ đành lòng sao).
Nghe xong Nguyễn Huệ cảm động và anh em giảng hòa.
                                                                         Huỳnh Hữu Đức.
***
Thất Bộ Thi 1
 

Nấu đậu bằng củi đậu,

Đậu trong nồi hu hu :

Vốn sinh cùng gốc giậu

Sao nở đãi như thù ?

                  Danh Hữu
***
1)  Thất Bộ Thi Số 1

Củi Đậu Nấu Đậu

Củi đậu đem nấu đậu
Đậu kêu khóc trong nồi
Vốn sinh cùng một gốc
Nung nhau đau đớn...ôi !

2)  Thất Bộ Thi Số 2

Củi Đậu Nấu Canh Đậu

Đun nấu đậu làm canh
Lọc qua nước đậu nhanh
Dưới nồi bằng củi đậu
Nghe đậu kêu thất thanh !
Cội rễ sinh cùng gốc
Mà đốt chết sao đành ?...!
              Mai Xuân Thanh
             November 08, 2021
***
 1/ Thất Bộ Thi

Đun đậu dùng củi đậu
Hạt trong nồi đớn đau
Trót sinh cùng một gốc
Đốt vội thế này sao

2/ Thất Bộ Thi

Dùng đậu để nấu canh
Nước đậu trong gạn lọc
Củi đậu đốt dưới nồi
Hạt trong nồi khóc lóc
Sinh ra cùng cội rễ
Nở đốt nhanh thật độc
                    Kim Phượng
***

1/ Thất Bộ Thi


Củi đậu đem nấu đậu

Hạt trong nồi khóc thầm

Cùng sinh ra một gốc

Sao lại nỡ đành tâm

 

2/ Thất Bộ Thi      

 

Đậu nấu dùng để làm canh

Gạn đục lọc lại trong lành nước ngon

Thân đậu cháy dưới đáy soong

Bên trong đậu khóc nỉ non đau lòng

Được sanh ra cùng một dòng

Cớ chi lại đốt sao không sót tình.

                                Kim Oanh