Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021

Nỗi Niềm

 

(Cảm xúc khi Họp Mặt Bạn cũ)

Thời tiết chuyển sang đông   
Từng cơn bấc ngập lòng       
Còn đâu thời áo trắng   
Để nhớ khoảng trời trong
Bạn hữu dần thưa thớt    
Từ từ đến cõi không 
Mỗi năm thêm một vắng  
Họp mặt chẳng còn đông.
                    Quên Đi

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

Bản Ngã


Dẫu tuổi có già vẫn mộng mơ
Chữ tình muôn thuở thật vô bờ
Gặp tài mấy kẻ không ham hố
Thấy sắc bao người chẳng ngẩn ngơ
Suy gẫm nhân gian nầy vốn trọc
Xét ra nẻo đạo quá xa mờ
Thôi thì hãy cứ tuỳ duyên vậy
Lo nghĩ chi nhiều vấy cả thơ
                              Quên Đi

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2021

Trường Can Hành - Lý Bạch



Trường Can Hành, bài thơ Ngũ ngôn Trường thiên Cổ Phong của Lý Bạch, kể về tình cảnh của một thiếu phụ ở làng Trường Can. Thành ngữ "Thanh Mai Trúc Mã" xuất phát từ bài thơ này, ý nói đôi nam nữ quen biết chơi đùa với nhau từ thuở nhỏ và lớn lên kết thành chồng vợ.

     長 干 行             Trường Can Hành 

妾 髮 初 覆 額      Thiếp phát sơ phúc ngạch
折 花 門 前 劇      Chiết hoa môn tiền kịch
郎 騎 竹 馬 來      Lang kỵ trúc mã lai
遶 床 弄 青 梅      Nhiễu sàng lộng thanh mai
同 居 長 干 裡      Đồng cư Trường Can lý
兩 小 無 嫌 猜 。 Lưỡng tiểu vô hiềm sai.
十 四 為 君 婦      Thập tứ vi quân phụ
羞 顏 未 嘗 開      Tu nhan vị thường khai
低 頭 向 暗 壁      Đê đầu hướng ám bích
千 喚 不 一 回。  Thiên hoán bất nhứt hồi. 
十 五 始 展 眉      Thập ngũ thỉ triển mi
願 同 塵 與 灰      Nguyện đồng trần dữ hôi
常 存 抱 柱 信      Thường tồn bảo trụ tín
豈 上 望 夫 臺。  Khởi thượng Vọng phu đài. 
十 六 君 遠 行      Thập lục quân viễn hành
瞿 塘 灩 澦 堆      Cù Đường Diễm Dự đôi. 
五 月 不 可 觸      Ngũ nguyệt bất khả xúc
猿 聲 天 上 哀      Viên thanh thiên thượng ai
門 前 遲 行 跡      Môn tiền trì hành tích
一 一 生 綠 苔      Nhất nhất sinh lục đài. 
苔 深 不 能 掃。  Đài thâm bất năng tảo.
落 葉 秋 風 早      Lạc diệp thu phong tảo
八 月 蝴 蝶 黃      Bát nguyệt hồ điệp hoàng
雙 飛 西 園 草      Song phi tây viên thảo
感 此 傷 妾 心      Cảm thử thương thiếp tâm
坐 愁  紅 顏 老。 Tọa sầu hồng nhan lão. 
早 晚 下 三 巴      Tảo vãn hạ Tam Ba
預 將 書 報 家      Dự tương thư báo gia. 
相 迎 不 道 遠      Tương nghinh bất đạo viễn
直 至 長 風 沙。  Trực chí Trường Phong Sa.
             李白                              Lý Bạch

Trường Can: tên một ngôi làng
Sàng:
  ♦(Danh) Cái giá (để gác, đặt đồ vật). ◎Như: cầm sàng 琴床 giá đàn, mặc sàng 墨床 giá mực.
  ♦(Danh) Cái gì trên mặt đất hình như cái giường, gọi là sàng. ◎Như: hà sàng 河床, miêu sàng 苗床, hoa sàng 花床. 
  ♦(Danh) Bàn, sàn, sạp. ◎Như: thái sàn 菜床 sạp rau, bào sàng 鉋床 bàn máy bào.
  ♦(Danh) Cái sàn bắc trên giếng để đỡ con quay kéo nước.
Bảo trụ tín: theo chuyện chàng thư sinh Vĩ Sinh có hẹn với một người con gái ở dưới chân cầu, nước lên mà không thấy tới, vẫn ôm chân cầu mà chờ, nên bị chết đuối. 
Vọng Phu Đài: đài trông ngóng chồng, phía nam Trung Châu chừng mười dặm.
Cù Đường, Diễm Dự: hai bãi cát nằm hai bên sông Trường Giang ngay cửa Tam Hiệp
Tam Ba: Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây gọi chung là Tam Ba.
Trường Phong Sa: địa danh xưa, bây giờ là huyện Quý Trì.

Dịch Nghĩa: Khúc Ca Làng Trường Can

Tóc em mới vừa ngang trán
Đang hái hoa chơi trước cửa
Chàng lấy tre giả làm ngựa chạy đến
Chạy quanh sạp gỗ đùa giỡn với nhánh mơ xanh
Cùng sống tại làng Trường Can
Cả hai còn nhỏ nên không hề nghi ngại gì
Mười bốn tuổi đã trở thành vợ của chàng
Nhưng vẫn còn mắc cỡ chưa dám mở lời
Chỉ quay mặt vào vách tối
Gọi cả ngàn lần mà không dám đáp lại một câu
Năm mười lăm tuổi mới mở mày (dạn dĩ vui tươi)
Nguyện cùng cực khổ vẫn có nhau
Mãi luôn giữ lời không thay đổi (Bão trụ tín)
Chẳng ngại lên đài Vọng Phu để ngóng đợi chàng
Thiếp mười sáu tuổi thì chàng đi xa
Đến tận Cù Đường Diễm Dự
Tháng năm không thể đến đó được
Tiếng vượn kêu nghe buồn cả trời cao
Trước cửa vẫn còn lưu lại dấu chân
Đâu đâu rêu xanh cũng đã phủ đầy
Rêu dầy đến đổi không thể quét sạch
Gió thu đến sớm lá cũng bắt đầu rơi rụng
Tháng tám những con bướm vàng bay về
Chúng bay từng cặp nơi vườn mọc toàn là cỏ ở phía tây
Nhìn thấy thế lòng càng thêm đau
Ngồi buồn càng lo cho nhan sắc mau già
Một sớm hay chiều nào chàng có về Tam Ba
Có thể viết thư về nhà
Thiếp sẽ đón mà chẳng ngại đường xa
Dù có đi thẳng đến Trường Phong Sa.

Dịch Thơ

Trường Can Hành

Ngang trán tóc em vừa
Hái hoa chơi trước cửa
Ngựa tre chàng đến nơi
Đùa mai quanh sạp ván
Mình chung xóm Trường Can
Còn bé chẳng ngại ngùng.
Mười bốn nên chồng vợ
Nên hãy còn mắc cỡ
Thường quay vào vách tối
Gọi mấy cũng im hơi.
Mười lăm thiếp tươi mày
Khổ mấy cũng chẳng thay
Một lòng bền son sắt
Dù đến Vọng Phu Đài.
Năm sau chàng lên đường
Cù Diễm cách người thương
Tháng năm không thể tới
Vượn kêu thảm ngất trời
Trước sân còn dấu cũ
Khắp nơi rêu che phủ
Quét sao sạch rêu xanh
Thu về lá rụng nhanh
Tháng tám bướm bay về
Vườn cỏ từng đôi kề
Nhìn cảnh dạ thiếp đau
Buồn nhan sắc tàn mau.
Bao giờ đến Tam Ba
Nhớ viết thư về nhà
Gặp chàng thiếp nào ngại
Dẫu tận Trường Phong Sa.
                         Quên Đi
***

Đỗ Chiêu Đức tham gia với bài thơ đã dịch sẵn từ trước để góp vui và để tham khảo.

TRƯỜNG CAN HÀNH
Ngũ ngôn Cổ phong Nhạc phủ : 李白 Lý Bạch

*CHÚ THÍCH :

- Trường Can : Tên một làng, nay thuộc huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. HÀNH là tên một khúc hát trong Nhạc phủ như CA, KHÚC, HÀNH … Nên TRƯỜNG CAN HÀNH là Khúc hát xứ Trường Can. Ngoài bài nầy của Lý Bạch ra, ta còn có 2 bài TRƯỜNG CAN HÀNH ngũ ngôn tuyệt cú nhạc phủ cũng rất nổi tiếng của Thôi Hiệu ( Mời đọc Đường Thi Tuyển Độc I, bài 21 ).
- Phúc Ngạch : Phúc là Đậy, Ngạch là Trán; nên Phúc Ngạch là Phủ trán.
- Kịch : không phải là Kịch nghệ, ở đây có nghĩa là Chơi Đùa.
- Hiềm Sai : là Nghi Ngại. Vô Hiềm Sai là Không nghi ngại gì cả, rất vô tư.
- Triển Mi : là Mở mày. Ta hay nói là Mở Mày Mở Mặt, ý chỉ Mặt Mũi đã trưởng thành, đã đẹp đẽ. Mở Mày Mở Mặt trong tiếng Việt ta còn dùng để chỉ Vui Vẻ hân hoan vì Hãnh Diện bởi việc gì đó.
- Nguyện Đồng Trần Dữ Hôi : là Nguyện cùng tro cùng bụi, ý muốn nói là Sẽ Đồng cam cộng khổ với nhau. - Bão Trụ Tín : là theo Thành ngữ : BẢO TRỤ CHI TÍN抱柱之信 là Cái Uy Tín Về Việc Ôm Cột ( Cầu ). Theo sách TRANG TỬ : VĨ SINH hẹn với cô gái ở dưới trụ cầu. Khi nước lớn, cô gái không đến, VĨ SINH ôm lấy cột cầu "chịu trận" mà chết. Si tình đến thế là cùng !
Vọng Phu Đài : là Đài Trông Chồng, ở cách Nam Huyện của tỉnh Tứ Xuyên hai ba chục dặm. Tương truyền là nơi của Tôn Phu Nhân đứng để ngóng trông Lưu Bị, khi Bị đã chết ở Bạch Đế Thành
- Cù Đường : Tên một bến nước, ở phía thành đông của Quỳ Châu Phủ, tên cũ là Tây Lăng Giáp, là cửa ngỏ ra vào của Tam Giáp, hai bên vách đá dựng đứng giữa dòng Trường Giang.
- Hành Tích : là Dấu tích của bước chân đã đi qua. Là Dấu Giày.
- Tam Ba : là Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, hợp xưng là Tam Ba.
- Trường Phong Sa : là địa danh, nay thuộc huyện Qúy Trì, tỉnh An Huy.

* NGHĨA BÀI THƠ :

KHÚC HÁT XỨ TRƯỜNG CAN

Khi tóc của thiếp vừa phủ lưa thưa xuống trán, đang hái hoa chơi đùa phía trước cửa, thì chàng cởi ngựa tre chạy đến, chạy vòng quanh miệng giếng để ngắt ghẹo cành mai xanh. Chúng ta cùng lớn lên ở xứ Trường Can, hai đứa trẻ cùng ngây thơ trong trắng không úy kỵ gì cả ! Nhưng… Mười bốn tuổi thiếp đã về làm vợ chàng rồi, mà vẫn còn rất thẹn thùng bẽn lẽn, chỉ cúi đầu nằm xây mặt vào vách, chàng gọi trăm ngàn lần vẫn không quay đầu lại. Đến mười lăm tuổi mới mở mặt mở mày ra nguyện cùng chàng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau, và quyết một lòng chung thủy với chàng (bảo trụ tín) cho dù phải lên Vọng Phu Đài để trông ngóng chồng về. Mười sáu tuổi chàng lại phải đi xa đến tận xứ Cù Đường hiễm trở. Giữa tháng năm mùa hè nóng nực, tiếng vượn hú vang mãi tận trời xanh. Những dấu chân của thiếp khi đưa tiễn chàng trước cửa đều đã nổi rêu xanh, rêu dầy đến nỗi thiếp cố quét nhưng vẫn không đi. Lá rụng theo làn gió thu sớm thổi, những con bướm tháng tám đã vàng vọt, nhưng vẫn bay song đôi trong vườn tây đầy cỏ, làm cho thiếp cảm thấy thương tâm cho thân phận lẻ loi, ngồi đây mà sầu não cho cái nhan sắc sớm già nua của mình ! Nếu trong một sớm tối nào đó mà chàng về đến xứ Tam Ba, hãy viết thư về nhà báo cho thiếp biết trước, thiếp sẽ chẳng nệ đường xa mà đi đón chàng dù cho phải trực chỉ đến tận Trường Phong Sa !

*DIỄN NÔM :

KHÚC HÁT TRƯỜNG CAN

Khi tóc thiếp mới vừa phủ trán,
Bẻ hoa chơi lảng vảng trước sân.
Ngựa tre chàng cưỡi đến gần,
Chạy quanh bờ giếng ghẹo cành mai xanh.
Xứ Trường Can em anh cư trú,
Hai bé con vẫn cứ thơ ngây,
Mười bốn làm vợ chàng ngay,
Thẹn thùa chưa biết mảy mai chuyện tình.
Cứ quay đầu mặt nhìn vào vách,
Gọi ngàn lần… nhìn vách làm thinh.
Mười lăm mới đắm đuối tình,
Nguyện cùng lên thác xuống ghềnh có nhau !
Như Vĩ Sinh ôm cầu giữ hẹn,
Nào phải cần thẹn đá vọng phu.
Mười sáu chàng phải viễn du,
Cù Đường non nước mịt mù xa xôi.
Trời tháng năm tơi bời nóng bức,
Tiếng vượn buồn thổn thức mây xanh.
Dấu giày đưa tiễn bước anh,
Giờ đà đã phủ rêu xanh mất rồi !
Rêu xanh phủ ngậm ngùi khôn quét,
Lá vàng rơi gió rét thu sang.
Trung thu tháng tám bướm vàng,
Song song đôi lứa bay sang vườn đoài.
Thấy đôi bướm ai hoài lòng thiếp,
Hồng nhan sầu ai biết già mau.
Sớm chiều mơ ước bên nhau,
Nếu thư chàng báo về mau lại nhà,
Thiếp sẽ chẳng nề hà đường xá,
Nguyện vượt ngàn đến xứ Tam Ba.
Thẳng dong tận Trường Phong Sa,
Đón chàng về lại quê nhà đoàn viên !
                            
Nhưng đó chỉ là mơ ước của nàng thiếu phụ trông chồng mà thôi, chứ thực tế thì … vẫn biền biệt bặt vô âm tín, không biết chàng đang ở nơi nao và khi nào thì mới về quê như trong bài XUÂN TỨ cũng của Lý Bạch là :
當君懷歸日. Đương quân hoài quy nhật,
是妾斷腸時 ! Thị thiếp đoạn trường thì !
Có nghĩa :
         Khi chàng nhớ trở lại nhà,
Là khi lòng thiếp xót xa đoạn trường ! 
                                   
Đỗ Chiêu Đức

***

Trường Can Hành

Tóc lòa xòa chấm trán
Ngoài cổng đang hái hoa
Chàng lấy tre giả ngựa
Chạy quanh sạp đùa mai
Cùng sống tại Trường An
Cả hai đều trẻ dại
Mười bốn tuổi thành thân
Tuy gần lời ngại tỏ
Em thẹn thùng giấu mặt
Ngàn tiếng gọi vẫn im
Đến mười lăm thì đã
Vui cộng khổ bên nhau
Trước sau nguyền chung thủy
Dẫu đến Vọng Phu Đài
Mười sáu chàng lại đi
Tận Cù Đường Diễm Dự
Tháng Năm chẳng thể tới
Tiếng vượn buồn ngất trời
Trước cửa dấu chân in
Nhìn quanh rêu phủ đầy
Làm sao quét sạch đây
Thu chớm về lá rơi
Đàn bướm trời tháng Tám
Vườn cỏ vờn từng đôi
Cảnh ấy ôi não lòng
Lo nhan sắc chóng già
Khi nào tới Tam Ba
Nhớ thư về báo tin
Ngại gì đường diệu vợi
Dẫu đến tận Phong Sa
             Kim Phượng
***
Trường Can Hành

- Dịch ngũ ngôn


Tóc thiếp che vầng trán
Trước cửa khẽ đùa chơi
Trúc Mã chàng thả đến
Quanh giếng đùa Thanh Mai.
Quê Trường Can khôn lớn
Hai đứa còn thơ ngây
Làm vợ năm mười bốn
E thẹn giữ lâu dài
Quay đầu vào vách trốn
Chàng khều nắm không xoay.
Mười lăm đà mở mặt
Thề cộng khổ đồng tay
Lòng thủy chung đã quyết
Dẫu lên Vọng Phu đài.
Mười sáu chàng dấn bước
Cù Đường, Diễm Dự ôi!
Tháng Năm không gặp được
Vượn hú trời xa xôi!
Dấu giày in trước cửa
Đã mọc đầy rêu xanh
Không quét đi được nữa
Thu sớm, lá rụng nhanh
Tháng Tám vàng bướm lượn
Từng đôi dạo vườn tây
Thiếp thương đời lẻ bạn
Ngồi ngắm phận tàn phai.
Tam Ba về sớm trễ
Cũng thư báo ngay nhà
Đường dù xa chẳng nệ
Đến vội Trường Phong Sa

- Dịch lục bát

Tóc che vầng trán lòa xòa
Vô tư trước cửa giỡn hoa miệt mài
Chàng phi Trúc Mã khoe tài
Chạy quanh giếng ghẹo Thanh Mai điệu đàng.
Lớn lên nơi xứ Trường Can
Thơ ngây còn đọng xóm làng còn ghi
Năm mười bốn tuổi thành thê
Thẹn thùa lắm nỗi thẹn e lắm điều
Đêm nằm lơ cú móc khều
Chàng kêu thiếp vẫn thảy đều làm ngơ.
Mười lăm mở mắt tìm mơ
Đồng cam cộng khổ dệt tơ lâu dài
Thủy chung giữ vẹn không sai
Lòng vui dẫu phải lên đài Vọng Phu.
Mười sáu chàng bước phiêu du
Cù Đường Diễm Dự mây mù khó khăn
Tháng Năm không thể vào thăm
Bi ai vượn hú xa xăm tầng trời.
Trước sân in đậm dấu hài
Giờ nơi lưu dấu bám dày rêu xanh
Không sao tẩy xóa quét nhanh
Thu về lá rụng lìa cành đơn côi.
Bướm vàng Tháng Tám cuốn lôi
Vườn Tây bay lượn từng đôi nhịp nhàng
Thương đời cô lẻ buồn chan
Ngồi đây ngắm phận hồng nhan chiều tà.
Nếu chàng về đến Tam Ba
Lời thư trực hướng quê nhà báo sương
Dù xa cũng chẳng ngại đường
Vội vàng thiếp sẽ đến Trường Phong Sa. 

                                                  Mai Thắng - 210118 

 ***

Khúc Ca Trường Can Thôn

Tóc ngắn ngang tầm trán
Trước cửa hái hoa chơi...
Giả ngựa thời trúc mã
Còn dại lúc thanh mai
Cùng sống thôn Trường Can
Nghi ngại gì thơ dại
Hôn sự năm mười bốn
Còn mắc cở hôm nao ...
Nằm quay đầu vách trốn
Kêu hoài không trả lời !
Tới mười lăm dạn dĩ
Cực vẫn vui mình ơi...!
Tâm địa đâu đổi dạ
Dẫu tới Vọng Phu Đài
Đến mười sáu xa nhau
Đi Cù Đường Diễm Dự
Tháng năm chưa gặp lại
Vượn hú buồn trời cao
Dấu giày xưa ngoài cửa
Rêu xanh đã phủ đầy
Không thể quét sạch đây
Thu phong lá rụng bay
Tháng tám bướm vàng lại
Từng cặp vườn phía Tây
Thiếp tủi đời lẻ bạn
Rồi nhan sắc tàn phai
Đợi Tam Ba sớm muộn
Tin tức thư về nhà
Dù đường xa chẳng nệ
Ta đến Trường Phong Sa...
            Mai Xuân Thanh
            Ngày 18/01/2021

 

Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2021

"The Good, Bad and the Ugly"


 "The Good, Bad and the Ugly".
Một giai điệu viết cho thể loại phim Viễn Tây của Hoa Kỳ thật hay.  

 "The Good, the Bad and the Ugly" là chủ đề của cuốn phim năm 1966 cùng tên, do Sergio Leone đạo diễn. Bao gồm trong soundtrack của cuốn phim "The Good, Bad and the Ugly", là bài nhạc hòa tấu được sáng tác bởi Ennio Morricone, và được Bruno Nicolai đứng điều khiển dàn nhạc

Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

Vườn Thơ Thẩn


Bài Xướng: Vườn Thơ Thẩn

Lòng đầy cảm xúc mối tương giao
Thơ Thẩn bao năm lắm ngọt ngào
Sóng gió đã qua dù trở ngại
Tơ duyên vẫn đó chẳng hề nao
Thi đàn tái họp cùng hoan hỉ
Xướng họa câu vần thỏa khát khao
Bền vững vung bồi hoa đậm sắc
Vườn nhà hương vị sẽ bay cao.
                              Quên Đi

Các Bài Họa:


         Vườn Thơ Thẩn

Tự bốn phương trời đến kết giao,
Buồn vui Thơ Thẩn ngọt cùng ngào.
Bao nhiêu trắc trở không lay chuyển,
Biết mấy thôi xao chẳng núng nao.
Bằng trắc luật niêm con chữ đãi,
Bổng trầm vần điệu tứ thi khao.
Thẩn Thơ chìm nổi theo năm tháng,
Bỉ cực qua rồi lại vút cao 

                             Đỗ Chiêu Đức
                                13-10-2020

 ***

        Niềm Vui Gặp Gỡ
(Kỷ niệm buổi họp mặt VTT )

Nhớ lần họp mặt buổi sơ giao
Cảm đông mừng vui đến nghẹn ngào
Chủ xị Quên Đi lòng náo nức
Vơ chồng Chiêu Đức dạ nôn nao
Cao Linh điềm đạm, người chơn chất
Đắc Thắng khoan hòa, dáng dỏng cao
Thân mật, Phương Hà cùng góp chuyện
Cả ngày rôm rã tiệc mời khao.
                                   Phương Hà
***
       Tâm Sự Chiều Thu

Tự ngẫm khi đồng mối cảm giao
Dường như đã thệ tiếp chung ngào
Âm thầm dệt chuyển vần thơ mới
Thoải mái vun bồi đạo nghĩa cao
Dõi ánh trăng vàng chia quả mộng
Chan tình tuổi lão động lòng nao
Trà sen điệu lý hương mùa cũ
Ý niệm chân thành viễn ảnh khao.
                           Mai Thắng
                               201015

***
Đêm Thu
Ngoài kia mờ ảo nước-trời giao
Lá bỏ vườn thu đứng nghẹn ngào.
Lạnh lẽo trăng khuya trùng thiết thiết
U hoài tiếng hạc dạ nao nao.
Nhành lan ấp ủ màn sương trắng
Đáy cốc mơ màng bóng nguyệt cao
Bên chén trà sen hồn lắng đọng
Nhạc buồn Thanh Thuý giọng khao khao.
                                       MaiLoc
                                   Oct 13-2020

***
      Hoàng Hoa Kết Nghĩa

Nhập đường, chưa dám nghĩ tri giao
Lạ mặt, quen tên lòng nghẹn ngào
Tưởng tượng một ngày vui hạnh ngộ
Mộng mơ mỗi lúc thấy nôn nao
Thả vần mỹ tửu khai hương đãi
Hoà điệu hoàng hoa trổ sắc khao
Thắm nghĩa đậm tình chan chứa nắng
Trăm mầu , ngàn đoá cúc vươn cao ...
                     Utah 13 - 10 - 2020
                         Cao Mỵ Nhân 

***
              Hoài Nhớ

Họp Vườn Thơ Thẩn kết tâm giao
Những đóa hoa hương lắm ngạt ngào
Hải Ngoại mỏi mong lòng háo hức
Quê Nhà chờ đón dạ nôn nao
Cùng nhau đề bút trao tình ý
Tương ngộ ly mời cạn chén khao
Mới đấy đoàn viên đông đúc bạn
Thế mà bỗng chốc vắng anh Cao (*)
                              Kim Oanh

(*) Anh Cao Linh Tử đã mãn phần
                        
***
      Vườn Thơ Thẩn

Lâu ngày gặp lại bạn tâm giao
Tình tự đổi trao thể mật ngào
Lộc(*) khỏe nghê nhe như dạo trước
Hà(*) xem cũng vậy hệt hôm nao
Nào say cả nhé cô Kim đãi
Hãy cạn đi thôi anh Đức khao
Đừng để Thẩn Thơ thành quán vắng
Chắp muôn cánh hạc vút bay cao.

(*) Xin phép anh Mai Lộc và chị Phương Hà

                                  Thái Huy
                                 14/10/2020

***

       Thơ Thẩn Vườn Xưa

Thơ Đường xướng họa cũng tâm giao
Bạn quý thầy yêu vẫn ngạt ngào
Nhớ buổi hôm nao lòng quyến luyến
Thương ngày tháng mấy dạ nôn nao
Tao nhân tới viếng em chào đón
Mặc khách vãng lai chị đãi khao
Biên khảo, văn chương bài súc tích
Thơ tranh minh họa với tầm cao !...

                   Mai Xuân Thanh
                   Ngày 14/10/2020

***
      Tửu Phùng Tri Kỷ 

Hương vị Đinh lăng lắm ngạt ngào
Kết tình thi hữu buổi tâm giao
Thời gian xa cách tình không đổi
Giây phút cận kề dạ chẳng nao
Rượu chuốc rượu mời cùng họp lại
Chén thù chén tạc chúc mừng khao
Tửu phùng tri kỷ bao nhiêu đủ
Cảm hứng hồn thơ nhẹ vút cao 

                             Kim Phượng

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2021

Thơ Vui Ngày Tết: Bó Tay

Nhà tớ Thần Tài thích bưởi tơ
Ỷ hơi thần thánh biết sao thờ
Bưởi tơ mơn mởn đi đâu kiếm
Khiến tớ sáng nay chạy có cờ.

Nhà tớ thần tài khoái bưởi long
Cho nên tớ cũng phải cam lòng
Lựa hai quả lớn thêm tròn trịa
Chả biết mấy ngài có chịu hông?
                           Quên Đi

 

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

Thành Ngữ Trâu

 


Thơ Xướng:

Thành Ngữ Trâu

"Mài sừng" theo chủ "cũng thân trâu",
"Ngưu mã tầm ngưu mã" với nhau.
"Chín đụn mười trâu" đâu chẳng thấy,
"Bán trâu trật toán" tự gieo sầu.
"Đầu trâu mặt ngựa" người sai khiến,
"Sẩy nghé tan đàn" kẻ trước sau.
"Đàn gãy tai trâu" khuyên chẳng được,
"Hoa lài tự cắm bãi phân trâu"!
                                   Đỗ Chiêu Đức
                              Xuân con Trâu 2021
Thơ Họa:
Ca Dao Tục Ngữ Trâu

Có chọi có ăn mới gọi trâu
Trâu cày ngựa cỡi số như nhau
Đuôi trâu lạc ngõ nhanh tay níu
Chết lổ chân trâu thật quá sầu
Trâu buộc trâu ăn nào có hạp
Trâu thời đi trước kéo cày sau
Dao phay chẳng nệ là trâu lão
Cơ nghiệp khởi đầu phải có trâu.
                              Quên Đi
*** 
Tục Ngữ Liên Quan Đến Trâu
(Qua thơ THÀNH NGỮ TRÂU - anh đồ ĐỖ CHIÊU ĐỨC )  

Giúp Chủ "mài sừng" tủi phận trâu 
"Mã Ngưu, bè lũ, tự tìm nhau"  
"Mười trâu, Chín đụn" sao không biết ?... 
"Sai toán, mất trâu" lại chuốt sầu...! 
"Sẩy nghé tan đàn" chờ cháo trước  
"Đầu trâu mặt ngựa đợi cơm sau (3) 
"Tai trâu đàn gảy" nghe không thấu 
Ai "cắm bông lài xuống bãi trâu"...? 
                      Mai Xuân Thanh
  
Ghi Chú:

Bài Thơ Xướng:

- Câu 1: Học Lạc nhà nho nghĩa khí Miền Nam, không chịu hợp tác với Pháp, làm bài thơ trào phúng "Vịnh con trâu", chế diễu những kẻ xu thời, nghênh ngang mũ áo, nham nhở như phường tuồng theo gót ngoại xâm: 
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Nghĩ lại mà coi thực lớn đầu
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài cầm lún phún một chòm râu.
- Câu 2:  đây là câu  "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã"  
- Câu 3: từ câu  "Số giàu lấy khổ cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo" và "Cái kiến mày kiện củ khoai, Mày chê tao khó, lấy ai cho giàu. Nhà tao chín đụn, mười trâu, Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân
- Câu 4: từ câu : "Trật con tán bán con trâu
- Câu 5:  đây là câu  "Người nách thước, kẻ tay đao. Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi"
- Câu 6:  từ câu : "Vợ bé nghé con. Sẩy đàn tan nghé
- Câu 7: Câu  "Đàn khảy tai trâu
- Câu 8: Câu "Con vợ khôn lấy thằng chồng dại. Như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu

Bài Thơ Họa:

- Câu 1: từ câu "Có ăn có chọi mới gọi là trâu"  
- Câu 2: từ câu " Trâu cày ngựa cỡi"  
- Câu 3từ câu "Lạc đường nắm đuôi chó. Lạc ngõ năm đuôi trâu
- Câu 4từ câu "     "Chết lỗ chân trâu, hay Chết vũng trâu nằm", "Thà chết vũng trâu hơn chết khu đĩa đèn"  
- Câu 5: từ câu "Trâu buộc thì ghét trâu ăn. Quan võ thì ghét quan văn dài quần
- Câu 6từ câu "Con trâu đi trước cái cày theo sau", "Mười năm cắp sách theo thày. Năm thứ mười một vác cày theo trâu". 
- Câu 7: từ câu"Trâu già chẳng nệ dao phay"  
- Câu 8từ câu "Con trâu là đầu cơ nghiệp"
 Huỳnh Hữu Đức
 

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2021

Điểm Danh Trâu

 Bài Thơ Xướng     
          Điểm Danh Trâu

Bước sang năm Sửu điểm danh trâu
Các chú ngưu mau lẹ tới hầu
Trâu cổ dềnh dàng nên đứng chót
Trâu cò xinh xắn được lên đầu
Trâu rừng khó dạy tìm nơi  khác
Trâu ngố giỏi ghê đến chỗ chầu
Mấy nghé chú tâm lo học hỏi
Lớn lên chẳng ngại chốn đồng sâu.
                                   Quên Đi
Các Bài Thơ Họa

        Điểm Danh Trâu

Trâu Nước cấy cày tiêu biểu trâu,
Trâu Cui mạnh mẽ chực chờ hầu.
Trâu Cò quý hiếm cò thêm trắng,
Trẩu Cổ hiên ngang cổ tới đầu.
Trâu Nái ruộng sâu không thích gái,
Trâu Rừng xác lớn chẳng thèm chầu.
Trâu Đồng an phận nằm nhai cỏ,
Trâu Núi khoẻ to thích ruộng sâu !  
                                  Đỗ Chiêu Đức    
                                    02-02-2021
***
       Điểm Danh Trâu

Trâu nào cũng được gọi là trâu...
Ta điểm danh ngươi hãy tới hầu
Trâu núi lẹ làng cho học trước 
Trâu rừng ngổ ngáo phải hành sau
Trâu nhà năng nổ chờ phiên đến
Trâu ngố ngô nghê đợi trực chầu
Trâu cổ dềnh dàng nhưng xốc vác
Trâu cui lớn xác giỏi cày sâu 
                           songquang
                      Ngày 03/02/2021
***
      Điểm Danh Trâu 

Tân Sửu sửu này đích thị trâu
Nhanh chân kẻo trễ đến phiên hầu
Trâu cò xinh dáng đâu hàng cuối
Trâu cổ to con há chỗ đầu
Hung hãn trâu rừng đều phải tới
Lầm lì trâu ngố cũng theo chầu
Nghe đây trâu nghé noi gương tốt
Nghiệp dĩ cấy cày chốn ruộng sâu 
                             Kim Phượng
***
Cảm Tác

        Năm Sửu Đời Trâu

Ngang tàng ở ruộng ấy loài trâu 
Chẳng thiết hèn sang lỡ cuộc ngầu 
Vốn dĩ trông trời mưa đổ mạnh 
Âu là bám mặt cảnh cày sâu  
Đời vui hỏi lại nguồn duyên cớ 
Phận hẩm nhìn theo khúc ngưỡng cầu 
Cũng tại thân quèn nên gánh khổ 
Mơ chuồng mỹ cảm lựa tìm khâu. 
                        Mai Thắng – 210204
***

Lk Mùa Xuân Đó Có Em, Ngày Xuân Thăm Nhau, Cảm Ơn - Liên Khúc Nhạc Xuân ...

Thứ Hai, 8 tháng 2, 2021

Thiệp Chúc Tết Vườn Thơ Thẩn



Những Câu Đối Thú Vị

Lang thang trên Internet, tình cờ bắt gặp trên http://vi.wikiquote.org đôi câu đối thật thú vị, của hai Nữ Sĩ đứng đầu trong thi ca Việt Nam.
Tôi xin giới thiệu ra đây cùng Các Vị giải trí trong những ngày đầu năm mới. 

1 - Hồ Xuân Hương với anh người Tàu

vế ra: Chân đi hài Hán - tay bán bánh Đường - miệng hát líu Lương - ngây Ngô ngây ngố

Câu này do Hồ Xuân Hương ra cho 1 anh người Tàu sang An Nam bán bánh có ý trêu ghẹo bà, trong đó có tên 4 triều đại Trung Quốc là: Hán, Đường, Lương, Ngô khiến chú khách kia tẽn tò chuồn thẳng
Vế đối này phải tới hơn 200 năm sau mới có ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại giúp anh người Tàu, trong đó sử dụng tên 4 triều đại của Việt Nam là: Đinh, Triệu, Lý, Mạc rất chỉnh:

Tóc cắt đầu Đinh - vai nghinh lá Triệu - bụng liệu lẽ Lý - mộc Mạc mộc mà 

Nếu nói phải hơn 200 năm sau mới có ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại! Như thế có cường điệu quá chăng?
Có thể do câu đối này của Hồ Xuân Hương ít được biết đến nên không có người đối.
Theo Tôi,
Vế Ra này được xướng theo lối Vè, Vế Ra ngoài chữ Hán gieo vần với chữ Bán, còn có chữ Đường gieo vần với chữ Lương. Nhưng vì lý do khách quan nên Vế Đối trên không thể rất chỉnh mà chỉ tương đối chỉnh mà thôi.

Nếu đối như trên, dầu biết không thể chỉnh, Tôi xin mạn phép đối cho vui:

Mình mặc áo Hồng - Nhà trống thôn Mạc - Lời khoát muôn Triệu - Nói Lý nói vè.

Tôi cũng dùng 4 triều đại của Việt Nam để đối lại: Hồng Bàng, Mạc, Triệu và Lý để đối. Đúng ra, chữ cuối của đoạn 3 là Triệu phải bắc vần với chữ cuối của đoạn 2 là Mạc. Nhưng vương triều Việt Nam quá ít nên đành chịu.
                          Huỳnh Hữu Đức
***
Bấy Giờ ở kinh đô Thăng Long có bốn danh sĩ được gọi là "Trường An Tứ Hổ" gồm Vũ Diệm, Nguyễn Bá Lân, Nhữ Đình Hiền cùng Nguyễn Công Thái rủ nhau đến nhà bà Đoàn Thị Điểm để thử tài. Bà ra câu đối:

Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang

(Trước sân, thiếu nữ mời ăn trầu). Tân lang(*) là trầu cau, lại đồng âm (Hán) với tân lang là chàng rể mới. Tràng An Tứ Hổ đều chịu phục không nghĩ ra câu đối lại. Phải chờ đến gần 300 năm sau khi văn hóa phương Tây đã xâm nhập vào Việt Nam mới có người là Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại được câu trên như sau:

Các hậu trưởng nam hoài cựu ước

(Sau lầu, người con trai lớn nhớ lời nguyện ước cũ) (Cựu ước là lời ước nguyện cũ, cũng có nghĩa là Kinh Cựu Ước trong đạo Thiên Chúa)
Trường hợp Vế Ra này của Đoàn Thị Điểm cũng tương tự như Vế Ra ở bên trên của Hồ Xuân Hương. Nhưng đây là vế đối thơ, tôi cũng mạn phép đối:

Thư nội tiểu sinh tầm hậu nghệ

(Từ trong sách cậu học trò tìm học nghề cho mai sau . Hậu nghệ ngoài nghĩa nghề nghiệp mai sau, còn là tên của chồng Hằng Nga: Hậu Nghệ).

(*) Tân Lang : ý chỉ cây cau không phải là trầu cau
                                                                 Huỳnh Hữu Đức

3 - Bà Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh:

Trạng Quỳnh rất si mê Đoàn Thị Điểm… Một lần biết bà đang tắm, Quỳnh liền đến bên nhà tắm và đòi bà cho vào ‘xem’. Bà một mực từ chối, nhưng Quỳnh cứ nằng nặc, năn nỉ đòi vào. Nhanh trí bà nghĩ ra một cách đối phó, bà nói sẽ ra một vế đối, nếu Quỳnh đối được sẽ cho vào xem, không thì từ lần sau phải xách cho bà tắm. Quỳnh đồng ý.

Vế ra:

Da trắng vỗ bì bạch.

Từ ‘bì bạch’ theo nghĩa tiếng Hán cũng chính là ‘da trắng’, như vậy bản thân vế đối này đã chính là một câu đối. Từ ‘bì bạch’ còn là một từ tượng thanh mô tả tiếng kêu của tay vỗ vào mình khi có nước chảy. Vậy thì bì bạch ở đây vừa là tượng hình (da trắng) vừa là tượng thanh (tiếng động). Trạng Quỳnh nghĩ nát óc không tìm ra vế đối lại, cho đến lúc Đoàn Thị Điểm tắm xong bước ra ngoài vẫn còn thấy đang đứng nghĩ trán vã cả mồ hôi, từ đó mỗi lần cô Điểm tắm đều có mặt Trạng Quỳnh nhưng Quan Trạng chỉ đóng vai trò là người xách nước 

Trời xanh màu thiên thanh (tương truyền là của Trạng Quỳnh sau đó rất lâu mới nghĩ ra)

Rừng sâu mưa lâm thâm (Nguyễn Tài Cẩn)
Quạ vàng đội kim ô (không rõ)
Tay tơ sờ tí ti (khuyết danh)
Nhà vàng ngồi đường hoàng (không rõ)
Áo vàng mặc trang hoàng (khuyết danh)
Đêm đen sờ dạ thâm (không rõ)
Đêm đen nhìn tối thui (chưa biết)
Mây đen quyện ô vân (Phạm Tuyên)
Gấu vàng ăn Hùng Hoàng (chưa rõ)
Tóc xanh thấy phát thương (chưa rõ)
Béo phù thở phì phò (Lê Anh Chí)
Áo xanh lay lục phục (Lê Anh Chí)
Quần áo vung phùng phục (Lê Anh Chí)
Đá chàm sờ lam nham (Lê Anh Chí)
Suối đỏ khoan thông hồng (khuyết danh)
Biển Tây có Hải Âu (khuyết danh)
Lên núi gặp thượng sơn (khuyết danh)
Bắp vàng đợi ngô huỳnh (khuyết danh)
Mực đen dính mặc huyền (khuyết danh)
Giấy đỏ viết chu da (khuyết danh)
Sen xấu mọc liên tục (khuyết danh)
Bẩy xanh la thất thanh (khuyết danh)
Lưỡi đỏ ngó thiệt hồng (khuyết danh)
Ra vào đòi giao hợp (khuyết danh)
Mũi thấp hun tị ti (khuyết danh)
Giếng nhỏ bé tỉnh tinh (khuyết danh)

"Da trắng vỗ bì bạch" Đây mới quả thật là Vế Ra hóc búa.

Nhìn lên trên, chúng ta thấy có mấy mươi Vế Đối. Tuy đã có nhiều Vế Đối như thế, nhưng Tôi cho rằng chưa có vế đối được.
Ngoài những ý nghĩa về tượng hình tượng thanh như ở trên đã nêu, còn một điều rất quan trọng mà bài viết bên trên chưa nêu ra.
Đó chính là :Vế Ra là Câu Đối Thơ.
Đây câu 5 chữ trong Đường Luật Thi. Khi ra Vế Đối, ta phải tuân thủ Luật Bằng Trắc.

- Chữ thứ hai (trắng), chữ thứ năm (bạch) cả hai là Vần Trắc, ta phải sử dụng vần Bằng để đối lại.
- Chữ thứ tư (bì) vần Bằng, ta phải đối lại là vần Trắc.

Chúng ta nhìn lại mấy mươi Vế đối trên, không có một vế nào hội đủ các điều kiện về tượng hình, tượng thanh, luật bằng trắc..để đối lại cả.

Như thế tính đến ngày hôm nay, Vế Ra của Bà Đoàn Thị Điểm vẫn chưa có ai đối được.

Huỳnh Hữu Đức

 

Thứ Ba, 2 tháng 2, 2021

Trường Can Hành Kỳ 1, 2, 3 & 4 - Thôi Hiệu


Trường Can Hành của Thôi Hiệu có 4 bài Tứ Tuyệt Cổ Phong. Gồm 2 bài của người nữ hỏi
và hai bài người nam đáp. Tuy những điều hỏi cũng như đáp có vẻ bình thường, nhưng lại đầy tình ý.


             長 干 行  其 一 &
      Trường Can Hành Kỳ 1& 2

1/ 
君 家 在 何 處      Quân gia tại hà xứ
妾 住 在 橫 塘      Thiếp trú tại Hoành Đường
停 船 暫 借 問      Đình thuyền tạm tá vấn
或 恐 是 同 鄉。  Hoặc khủng thị đồng hương.

2/
家 臨 九 江 水      Gia lâm Cửu Giang thuỷ
來 去 九 江 側      Lai khứ Cửu Giang trắc.
同 是 長 干 人      Đồng thị Trường Can nhân
生 小 不 相 識。  Sinh tiểu bất tương thức.
              崔顥                       Thôi Hiệu
 
Hoành Đường: Thời Tam Quốc, Ngô xây đê ở đầu sông, gọi là Hoành Đường, giờ là huyện Giang Tô, tỉnh Giang Ninh.
Cửu Giang: con sông ở tỉnh Giang Tây.
Trường Can: Một làng ở phía nam sông Tần Hoài, thuộc tỉnh Giang Tô.

Dịch Nghĩa: Khúc Hát Làng Trường Can 1&2
1/
Nhà anh ở nơi nào
Còn nhà em ở tại đê Hoành Dương
Xin tạm dừng thuyền cho hỏi
Có lẽ chúng ta vốn chung một làng

2/
Nhà anh kề bờ sông Cửu Giang
Anh thường qua lại bên sông Cửu Giang này
Đúng là hai ta là người cùng làng Trường Can
Sống ở đó lúc còn nhỏ nên bây giờ không biết nhau.

Dịch Thơ:

 Trường Can Hành 1&2

1/
       Nhà anh vốn tại nơi đâu
    Còn em thì ở tận đầu con đê
  Dừng thuyền cho hỏi khoan về
Trường Can có lẽ là quê bọn mình.
2/
      Cửu Giang nhà vốn chẳng xa
Đôi bờ bến nước lại qua thường ngày
        Trường Can quê của cả hai
  Sống thời nhỏ dại nên nay lạ người.
                                Quên Đi
                       ----------

               長 干 行 其 三 &  
       Trường Can Hành Kỳ 3 và 4

3/
下 渚 多 風 浪      Hạ chử đa phong lãng
蓮 舟 漸 覺 稀      Liên chu tiệm giác hy
那 能 不 相 待      Na năng bất tương đãi
獨 自 逆 潮 歸。  Độc tự nghịch triều quy.

4/
三 江 潮 水 急      Tam Giang triều thuỷ cấp
五 湖 風 浪 湧      Ngũ Hồ phong lãng dũng
由 來 花 性 輕      Do lai hoa tính khinh
莫 畏 蓮 舟 重。  Mạc uý liên chu trọng.
          崔顥                       Thôi Hiệu

Dịch nghĩa
Khúc ca Làng Trường Can Kỳ 3&4

3/
Bến nước bên dưới có nhiều sóng gió
Nên ít thấy thuyền chở sen qua lại 
Sao không đợi em cùng đi chung
Mà một mình chàng đi ngược con nước

4/
Con nước sông Tam Giang có lên rất nhanh
Con sóng Ngũ Hồ có đánh dữ dội
Nhưng vì hoa nhẹ và anh cũng thường đi
Nên dù thuyền chở sen có nặng mấy cũng không sợ.

Dịch Thơ 3

1/                                                     2/
Trên sông nhiều sóng gió                  Dưới sông sóng gió còn nhiều
Chẳng thấy thuyền sen nào          Thuyền sen vắng bóng bến chiều ủ ê
Sao chàng không đợi thiếp                 Sao không đợi thiếp cùng về
Đi nước ngược đành sao.            Mà đi ngược nước chẳng nề hiểm nguy.
                                                                                            
Dịch Thơ 4

1/                                                    2/
Tam Giang nước lớn nhanh                Tam Giang nước có dâng trào     
Ngũ Hồ sóng dẫu mạnh               Ngũ Hồ sóng gió chẳng xao xuyến lòng
Hoa nhẹ chẳng lo gì                            Chở hoa việc đó như không
Thuyền sen nặng vẫn đi.              Thuyền sen dù khẳm chớ hòng cản anh.
                                                                                               Quên Đi