Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

Tấm Mẳn

Bài Thơ Xướng

           Tấm Mẳn


Quá hai tháng ngồi bên giường bệnh
Thương bạn đời đau ốm bấy lâu
Đêm tối phủ trăng dường nhớt nhác
Sương khuya rơi dạ cũng u sầu
Tình son sắc trải bao giông tố
Chữ thủy chung qua lắm bể dâu
Nay tóc chuyển sang màu bạc trắng
Vẫn bên nhau tựa lúc ban đầu.
                               Quên Đi

Các bài Thơ Họa:

             Tấm Mẳn


Mình đó bệnh, đây mình cũng bệnh
Sẻ chia chưa biết sẽ bao lâu
Mới đây hai tháng dù ê ẩm
Chừng tới bốn ba dẫu thảm sầu
Với chữ phu thê ken thắm thiết
Cùng câu chung thủy vượt nương dâu
Chẳng cho nghịch cảnh làm say yếu
Tình nghĩa luôn luôn thể buổi đầu.
                           Thái Huy 30/4/21
***
            Chuyển Tiết

Thật buồn khi biết bạn đời bệnh
Dù mới hay là đã nhuốm lâu
Ly nước đầu giường pha lệ tủi
Khăn lau dưới gối thấm cơn sầu
Chia đôi tâm sự vun đồng lúa
Giữ một niềm tin đắp ruộng dâu
Cho tới bây giờ ông vẫn khoẻ
Bà hơi choáng váng tiết xuân đầu ...
              Hawthorne 1 - 5 - 2021
                  CAO MỴ NHÂN



Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

Lãng Đào Sa - Lý Hậu Chủ

           Nguyên Tác               Âm Hán Việt                                          Dịch Thơ 1





            浪淘沙             
   後 主 
     
簾外雨潺潺
春意闌珊
不耐五更寒
夢裏不知身是客
一晌貪歡。
獨自莫憑欄
無限江山
別時容易見時難
流水落花春去也
天上人間。
 
           Lãng Đào Sa
          Lý Hậu Chủ
 
Liêm ngoại vũ sàn sàn
Xuân ý lan san,
La khâm bất nại ngũ canh hàn.
Mộng lý bất tri thân thị khách,
Nhất hướng tham hoan.
Độc tự mạc bằng lan,
Vô hạn giang san,
Biệt thời dung dị kiến thời nan.
Lưu thuỷ lạc hoa xuân khứ dã,
Thiên thượng nhân gian.
      Lãng Đào Sa
                         Quên Đi
 
Ngoài rèm tiếng mưa rơi
Hơi xuân xa rời
Đêm lạnh rét chỉ chiếc mền tơi
Trong mơ quên thân đang là khách
Bởi vui một thời
Mình ta đứng chơi vơi
Đất nước diệu vợi
Được thì khó mất dễ như chơi
Nước chảy hoa rơi xuân đã khuất
Giờ chỉ trên trời.
Lãng Đào Sa: tên gọi một điệu hát (Từ). Nguyên là bài hát của Đường giáo phường còn có tên là Lãng Đào Sa Lệnh hay Mại Hoa Thanh, thất ngôn tuyệt cú, được Lý Hậu Chủ đổi thành  trường đoản cú, tổng cộng 54 chữ.
Sàn sàn 潺 潺: róc rách, rì rào, tí tách. 
Lan san 阑 珊: tàn lụn suy tàn.
La khâm 羅 衾: cái mền dệt bằng tơ lụa.
Bất nại 不 耐: không thể chịu được
Nhất hưởng 一 晌: một khoảng thời gian.
Bằng lan 凭 栏: dựa vào lan can. 
Thiên thượng nhân gian: Cõi thế đã từng vui thú, giờ chỉ có thể tìm lại trên trời. Câu này có nguồn gốc từ câu 天 上 人 間 會 相 見   Thiên thượng nhân gian hội tương kiến trong "Trường Hận Ca" của Bạch Cư Dị, nhà Thơ Tản Đà dịch câu này như sau: "Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau".

Dịch Nghĩa

Bài Hát Điệu Lãng Đào Sa

Bên ngoài rèm tiếng mưa tí tách
Hơi hám mùa xuân không còn nữa
Chăn tơ không thể chịu được cái lạnh suốt đêm
Trong mộng không biết mình đang bị làm khách (bị giam lỏng)
Chỉ vì một ngày tháng ham vui
Một mình đứng xa lan can
Sông núi không chừng
Mất đi thì dể nhưng lấy lại thì khó
Nước chảy hoa rơi xuân đã qua rồi
Đã từng có nơi cõi thế, giờ muốn tìm lại chỉ trên trời.

Dịch Thơ 2:
       Lãng Đào Sa

Ngoài rèm tiếng mưa rơi
Mùa xuân đã vội rời
Đêm lạnh mền chẳng ấm
Mơ quên bị giam cầm
Năm tháng ham vui vẻ
Giờ một mình lặng lẽ
Nước cũ biết tìm đâu
Được mất tựa bóng câu
Nước hoa xuân nhạt màu
Gặp lại chỉ trời cao.
                          Quên Đi
***




Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021

Bên Sông

Bài Thơ Xướng

               Bên Sông

Mới lên giọt nắng chỉ thưa thưa
Lấp lánh xuyên ngang những đọt dừa
Dưới nước lăn tăn con sóng gợn
Lưng trời bảng lảng áng mây đưa
Bèo trôi lờ lững về mô tá?
Bậu đứng nghiêng nghiêng hát ưỡm ừa
Gợi cảnh thanh bình luôn mãi nhớ
Xa rồi đây đó những năm xưa.

Thái Huy
16/4/21
***
Bải Thơ Họa:

             Màu Kỷ Niệm

Hạ đến đầu mùa những giọt thưa
Gió lùa bụi nước đẫm thân dừa
Phất phơ tàu lá rung rung động
Ra rả ve hè thổn thức đưa
Nhớ thuở hồn nhiên vui lắm chuyện
Cái thời hờn mát chẳng câu ừa
Nụ cười chợt đến khi hồi tưởng
Hình ảnh ngôi trường với bạn xưa.

Quên Đi
***
               Vườn Xưa

Nắng chiếu vườn sau cũng đã thưa
Sầu vương lơ đãng ngọn cây dừa
Gió chưa thổi tới, sương thầm đợi
Mây vội về xa, khói tiễn đưa
Cháu đến thăm đang chờ cửa gọi
Bà cười hỏi nhỏ:" biết ai ừa? "
Hoàng hôn thấp thoáng quanh nhà vắng
Cảnh với người như ở cõi xưa ...

Hawthorne 17 - 4 - 2021
Cao Mỵ Nhân
***
Ơi Người Bên Sông

Dõi mắt lưng trời cánh nhạn thưa
Dáng ai thấp thoáng cạnh hàng dừa
Cũng quang cảnh ấy lần quen biết
Cũng khúc sông này lúc tiễn đưa
Tình bén thầm thì... chờ đợi nhé
Duyên ưa xao xuyến... mỉm cười ừa
Xuôi chi gặp gỡ rồi xa cách
Ơi hỡi ơi người của thuở xưa

Kim Phượng
***
          Cố Nhân Ơi !...

Em ơi gọi mãi chẳng nghe..." thưa "
Thấp thoáng ai xa tận gốc dừa?
Cảnh cũ còn đây cùng bậu nhớ?
Người xưa đâu tá, tiễn chân đưa?
Bồi hồi nhớ lại... chờ "Qua" nhé?
Cả thẹn thầm mơ thấy " Bậu " ừa
Hoàn cảnh trớ trêu mình cách trở?
Đôi ta lỗi hẹn chuyện tình xưa !...

Mai Xuân Thanh
April 20, 2021
***
          Ngày Xưa ơi!

Dìu dịu hoàng hôn bóng nắng thưa
Bên song xào xạc mấy hàng dừa
Vi vu điệu sáo ai dìu dặt
Trầm bổng khúc đàn em nhẹ đưa
Bé nhé! Tương tư không cứ bảo
Anh này! Vương vấn chẳng thèm ừa
Tình yêu ngày ấy ngây thơ quá
Nuối tiếc âm thầm nhớ chuyện xưa

Kim Oanh

***
          Dòng Sông Xưa

Rải nắng ban chiều duỗi sợi thưa
Dòng sông ẩn hiện bóng thân dừa
Lưng trời thẳm suốt vầng mây gợn
Mặt dãy xuôi dài mảng sóng đưa
Cứ nghĩ thanh bình không gặng hỏi
Dường xem bất diệt chẳng mê thừa
Qua thời lửa loạn nhiều nguy khốn
Vẫn quẩn quanh mình nhịp sống xưa.

Mai Thắng
210421

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2021

An Bang Phong Thổ - Lê Thánh Tôn

Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm... Ông là Tao Đàn Đô Nguyên suý của "Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú". Sau đây là những bài thơ tiêu biểu bằng Hán văn của ông.

安邦風土                 An Bang Phong Thổ

海上萬峰宭玉立, Hải thượng vạn phong quần ngọc lập,
星羅奇佈翠崢嶸。 Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh.
魚鹽如土民趍便, Ngư diêm như thổ dân xu tiện,
鏵稻無田賦薄征。 Hoa đạo vô điền phú bạc trưng.
波向山坪低處踊, Ba hướng sơn bình đê xứ dũng,
舟穿石壁隙中行。 Chu xuyên thạch bích khích trung hành.
邊氓久樂承平化, Biên manh cửu lạc thừa bình hoá,
四十餘年不識兵。 Tứ thập dư niên bất thức binh.

Lê Thánh Tông

* Chú Thích 
:
- An Bang Phong Thổ 安邦風土 : AN BANG là tên lộ thời Hồng Đức, nay là vùng Quảng Ninh. PHONG THỔ là do thành ngữ PHONG THỔ NHÂN TÌNH 風土人情, dùng để chỉ khí hậu, địa thế, tập tục, lễ tiết, thị hiếu... của một địa phương nào đó. Nên
AN BANG PHONG THỔ là chỉ Đất nước con người của xứ AN BANG.
- Quần 宭 : là tụ tập, là ở chung lại với nhau.
- Bố 佈 : là sắp xếp, rải đều ra.
- Tranh Vanh 崢嶸: là Cao ngất, cao chót vót, chênh vênh, ngất nghểu.
- Xu 趍: là rảo bước, đi nhanh (tới trước). Nên XU TIỆN 趍便 là cái phương tiện mà nhiều người hướng tới nhất.
- Hoa 鏵: là cái Lưỡi cày. ĐẠO 稻 là Lúa. Nên HOA ĐẠO chỉ sự canh tác,làm ruộng.
- Phú 賦: là Thuế Phú 稅賦 là Thuế má, Thuế khóa.
- Bạc Trưng 薄征: là trưng thu mỏng, là trưng thu nhẹ.
- Sơn Bình 山坪: Chỗ bằng phẳng của núi.
- Khích 隙: Cái kẻ hở. THẠCH BÍCH KHÍCH 石壁隙 là Cái khe hở của vách đá.

* Nghĩa bài thơ:
Đất Nước Con Người của xứ An Bang

Trên mặt biển như gom góp lại cả vạn ngọn núi giống như những tảng ngọc dựng đứng được bày bố la liệt một cách diệu kỳ với những chóp núi chênh vênh xanh biếc. Cá và muối nhiều như đất, nên dân cúng đều đổ xô sinh sống bằng cái phương tiện nầy, không có đồng ruộng để cày bừa canh tác nên việc trưng thu thuế khóa cũng nhẹ đi. Sóng thì cứ nhằm vào những chỗ bằng phẵng thắp xuống của núi đá mà vỗ vào, còn thuyền thì cứ lách qua những khe hở của vách đá mà đi. Dân của vùng biên tái nầy đã thừa hưởng cái niềm vui thanh bình lâu nay rồi, đã bốn mươi mấy năm hơn mà không biết đến việc binh đao là gì cả!

* Diễn Nôm:

Trên biển núi non như dựng ngọc,
Biếc xanh rải rác ngọn chênh vênh.
Cá nhiều muối lắm dân vui sống,
Ruộng ít đồng không thuế nhẹ tênh.
Sống vổ núi bằng khi nước xuống,
Thuyền len vách đá lúc triều lên.
Vùng ven thanh thản dân an lạc,
Bốn chục năm hơn chẳng chiến tranh.

Lục bát:

         Ngàn non trên biển chênh vênh,
   Biếc xanh tựa ngọc bồng bềnh khắp nơi.
          Cá, muối, dân sống thảnh thơi,
Không đồng không ruộng thuế thời nhẹ tênh.
             Bên sườn núi thấp sóng lên,
     Thuyền nương kẻ đá lách luồn mà đi.
         Thái bình an hưởng thường khi,
      Bốn mươi năm lẻ biết gì việc binh !

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
***
              Phong Thổ An Bang

   Sừng sững muôn ngàn ngọn núi xanh
        Lô nhô trên biển, đá xây thành
        Dồi dào cá muối, dân tìm đến
Khan hiếm ruộng đồng, thuế giảm nhanh
       Sóng vỗ bờ xuôi triền xoải cạn
     Thuyền qua khe hở đá vây quanh
      Thanh bình ngự trị nơi đây mãi
  Mấy chục năm rồi chẳng chiến tranh

Phương Hà phỏng dịch
***
              An Bang Phong Thủy  

      Mặt biển xanh núi non sừng sững
     Đá xây thành lững thững khắp nơi
          Cá nhiều ,muối lắm dân vui
Ruộng đồng khan hiếm thuế thời nhẹ tênh
           Dọc bờ núi sóng lên vỗ đá
       Thuyền len theo khe hở luồn đi
           Chiến tranh nào có biết gì
 Bốn mươi năm đã thường khi thanh bình

songquang
***
An Bang Phong Thổ

- An Bang là tên lộ thời Hồng Đức, niên hiệu thứ 2 của Lê Thánh Tông sau Quang Thuận, nay là tỉnh Quảng Ninh, và hai cầu đầu bài thơ tả cảnh Vịnh Hạ Long.
- (*) Phong Thổ 風土: Theo Tự điển Đào Duy Anh (trang 124 quyển Hạ) Phong Thổ có nghĩa là phong tục thổ nghi của một địa phương - Khí hậu của một nơi.
Nhưng qua ý bài thơ này, tả nét đep, cái được của vùng An Bang, theo Quên Đi nghĩ chữ 豐 có lẽ hợp lý hơn.

Dịch Nghĩa: Nét Đẹp Vùng Đất An Bang

Trên biển, muôn ngọn núi vươn lên như những viên ngọc tụ lại
Bày biện thật diệu kỳ giống những ngôi sao cao chót vót giữa màu xanh biếc
Nơi này cá và muối rất nhiều, nên ngườì dân nương theo đó làm ăn thật thuận tiện
Không có ruộng lúa hoa màu, nên thuế đóng rất nhẹ
Sóng hướng về phía thấp của núi mà nhảy mạnh lên
Thuyền len lỏi giữa khe hở của hai vách núi mà đi
Người dân ở vùng biên giới sống sung sướng trong cảnh yên bình lâu rồi
Đã hơn bốn mươi năm họ không hề biết đến chiến tranh.

Dịch Thơ: An Bang Phong Thổ

Muôn núi ngỡ rằng ngọc khắp nơi
Diệu kỳ xanh biếc tựa sao trời
Nơi nhiều cá muối dân vui hưởng
Ruộng chẳng hoa màu thuế nhẹ thôi
Sóng vỗ triền non tràn chỗ thấp
Thuyền len khe núi tiến ra khơi
Từ lâu biên giới dân yên ổn
Bốn mấy năm rồi đao kiếm lơi.

Quên Đi


Chủ Nhật, 16 tháng 5, 2021

Ca Dao Cạo 7

 


Người ta đêm tối sợ ma
Còn tôi đêm tối có ba bốn người.
 
Người ta đi cấy lấy công
Còn tôi đi cấy chỉ mong gặp nàng.

Ai ơi hãy sớm mà chơi
Hoa kia có lúc, người thời có khi.

Anh thương em đừng buông mắt liếc
Em thương anh đừng tiếc thứ chi
Bọn mình đang tuổi xuân thì
Tuổi già nó đến còn gì để vui.
                                     Quên Đi

Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2021

Thuyền Trăng

Thơ Xướng

           Thuyền Trăng

Đêm hè tĩnh lặng mặt hồ trong
Gác mái thuyền con thả giữa dòng.
Thăm thẳm gương trăng lồng đáy nước
Mơ màng ánh nguyệt bủa trời không.
Bờ lau lặng lẽ vi vu gió
Tiếng cuốc buồn tênh khắc khoải hồn.
Nhớ mãi những ngày thơ mộng cũ
Tình xưa sóng dậy sắt se lòng!
                                 Mailoc
                               04-11-21
Thơ Họa
           Đêm Trăng

Bến nước mười hai biết đục trong
Thuyền hồn lơ lửng ngược xuôi dòng
Nghe tim xao xuyến đan lối mộng
Thả mắt mơ màng hướng khoảng không
Nỗi nhớ dịu dàng thêm lãng mạn
Gương trăng vằng vặc đến mê hồn
Tơ duyên năm cũ xa xôi quá
Đáy nước lồng trăng dậy bão lòng
                                 Kim Phượng
 ***
          Đêm Dài

Đêm buồn lặng ngắm ánh trăng trong
Mượn chữ đôi câu tỏ chút lòng
Bạn hữu ngày nao đà lặn mất
Nhân tình một thuở có như không
Bao năm đèn sách tàn theo mộng
Một thoáng nhân sinh đã đổi dòng
Mơ ước qua đêm trời lại sáng
Để cho mặt nhật sáng soi hồn.
                              Quên Đi
***
        Vàng Rơi Đáy Nước

Bến cạn trăng vàng đáy nước trong
Sông sâu ngư phủ thả câu dòng
Chim trời én liệng mây lơ lửng
Cá nước hồ bơi khoảng trống không
Xướng họa tìm câu văn chí khí
Gieo vần chọn chữ nghĩa tâm hồn
Yêu nhau chiếc bóng kia khuê cát
Chung thủy đôi ta nọ tấm lòng...
                    Mai Xuân Thanh
                       April 12, 2021
***
          DẤU TRĂNG.

Lênh đênh thuyền đã cập bờ trong
Bỏ lại vầng trăng lẻ cuối dòng
Ánh nguyệt chan hoà trên cõi vắng
Tơ sương vương vấn khắp đồng không
Sóng đầy đón gió về hoang đảo
Biển cạn chờ mây tản lạnh hồn
Thêm một chút buồn ngoài bến giác
Người đi, sông nước có yên lòng...
             Hawthorne 12 - 4 - 2021
                  CAO MỴ NHÂN
***

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2021

Lẩy Kiều


Chúng ta đều biết, Truyện Kiều đã ăn sâu vào các thành phần trong xã hội, từ bình dân cho đến trí thức, mọi người, ai cũng có thể biết ít ra một đôi câu trong Kiều, nếu không muốn nói là dân ta rất mê Kiều, từ đó phát sinh ra những thú vui tao nhã. Các thú vui này xuất hiện mỗi khi có hội hè, hay những lúc trà dư tửu hậu, như Bói Kiều, Nhái Kiều, Vịnh Kiều, Đố Kiều... trong đó có lẽ Lẩy Kiều là khó nhất.
Thế Lẩy Kiều là gì? Sao còn có tên gọi Tập Kiều? Lẩy Kiều và Tập Kiều có phải là một chăng?

I- Lẩy Kiều

- "Lẩy Kiều" là thú tiêu khiển tao nhã và rất khó . Người chơi sẽ lấy thơ các câu từ những vị trí khác nhau trong Truyện Kiều, sau đó ghép lại thành một bài thơ Lục Bát, nhưng mang ý nghĩa khác; một cảnh khác, tùy theo ý muốn của người chơi Lẩy. Muốn chơi "Lẩy Kiều", người chơi phải thuộc "Truyện Kiều", nắm rõ các diễn biến trong 3254 câu thơ. Lẩy Kiều có thể dài hoặc ngắn tùy theo người chơi.

Xin mạn phép tự làm các thí dụ bên dưới: Những số đứng trước câu thơ trong các thí dụ bên dưới, chính là số thứ tự của câu thơ trong Truyện Kiều

                              Tòng Phu
99.                Rút trâm sẵn giắt mái đầu
1058. Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
1295.            Khi gió gác khi trăng sân 
296.    Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ .
2179.        Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
2180.   Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
2781.          Bấy lâu nghe tiếng má đào,
2782.   Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
2217.        Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
2218. Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
181.             Người đâu gặp gỡ làm chi,
182.   Trăm năm biết có duyên gì hay không?

                                   Kỷ Nữ
3197.             Phím đàn dìu dặt tay tiên
3198.   Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
177.           Một mình lặng ngắm bóng nga
178.        Rộn đường gần với nỗi xa bời bời
1065.          Than ôi ! sắc nước hương trời.
1066.      Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây

                         Tương tư
1057.        Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,
1996.   Rón chân đứng nép độ đâu nửa giờ.
365.          Sông Tương một dải nông sờ,
366.      Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia.

                               Lạc Lối
13.                   Một trai con thứ rốt lòng,
14.        Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
1.                  Trăm năm trong cõi người ta,
2.            Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
109.              Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
2496.    Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
3245.               Có đâu thiên vị người nào
3246.         Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
3247.                   Có tài mà cậy chi tài,
3248.          Chữ tài liền với chữ tai một vần.

II- Tập Kiều

- "Tập Kiều" cũng giống như "Lẩy Kiều", chỉ khác một điều, là người chơi có thể thêm vào các câu Lục Bát do chính mình sáng tác.

Thí dụ: (các dòng chữ màu Xanh là thơ Kiều)

                     Nhân Sinh
         Đêm thâu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
        Nửa đời sống kiếp tha hương
Gẫm câu thế sự cũng dường chiêm bao.
         Mơ chi tước rộng quyền cao
 Đỉnh chung kia chẳng thể nào bền lâu.

                     Duyên số
        Tình ơi duyên số phủ phàng
Ngậm ngùi khi phải đôi đàng chia tay
      Niềm đau đeo đẳng tháng ngày
Thôi đành hẹn kiếp sau này sánh vai
       Đã không kẻ đoái người hoài
 Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm.

                      Hiu Quạnh
            Mời xuân chim én đưa tin
   Thẹn thùng thiếu nữ xinh xinh trâm cài
          Cửa trời rộng mở đường mây
  Hoa chào ngỏ hạnh hương bay dặm phần
              Gió đông kia đã bao lần
Khuê phòng lạnh vắng tủi thân canh trường.
      Thâm nghiêm kín cổng cao tường 
 Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh

Thật là thú vị, ngoài giá trị trong văn học, Truyện Kiều còn mang lại những thú vui tao nhã đến như thế. Phải chăng đây là trường hợp duy nhất, chỉ Truyện Kiều mới có mà thôi.

Huỳnh Hữu Đức