Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham xuất phát từ truyền thống Do Thái (Semitic) cổ xưa, khởi sự từ Abraham, được miêu tả trong kinh Torab, Thánh Kinh và Kinh Qur'an, các tôn giáo Độc Thần hay Nhất Thần (monotheistic) này bao gồm: Do Thái Giáo,Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo, chiếm gần nửa số người có đạo trên thế giới.
Allah là tiếng Ả Rập dùng để gọi Thiên Chúa, truyền thống Hồi Giáo cũng miêu tả 99 tên của Thiên Chúa. Người Hồi giáo tin rằng Thiên Chúa
của người Do Thái cũng là Thiên Chúa của họ và Chúa Giê-xu là đấng tiên
tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Như thế, họ xem thần học của Kinh thánh
Do thái và sự day dỗ của Chúa Giê-xu là đúng trên nguyên tắc nhưng họ
tin rằng Hồi giáo là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo trên.
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki Tô Giáo và Do Thái Giáo. Thể hiện rõ trong Kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu Ước và Tân Ước ). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an ,
gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh
Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng
Toàn Năng.Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moser v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu Ước và Tân Ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự "lệch lạc" do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur'an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.
- Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng
họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ
là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của
Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur'an đã phán:
- Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101)
- Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.
Vị giáo
chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm
570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi
Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh
Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông
qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca
khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62
tuổi.
Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu
từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm
sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng
đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn
trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy
chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử
của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.
Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do
Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần
như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người
ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời
sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại
của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín
ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc
chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo
Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v...
Tất cả đều được Muhammad phản
ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh
Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các
sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử.
Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh
bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp
chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad
cũng như về đạo Islam.
1. Về địa dư:
Bán đảo
Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200
miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một
triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc
bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng
này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc
ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp
Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây
giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán
đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới
biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi
nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai
nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này
bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu
không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành
phải đi những quãng đường rất xa mới gặp
được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa
mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở
dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa
mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân.
Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán
đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.
2. Dân cư:
Bán đảo
Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc
gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn
dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm
vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân,
Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và
Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con
cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải
và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện
chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng
tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết
người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du
mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng
tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục
(Arab means Nomad).
Người Ả Rập và Do Thái thù ghét
nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập
và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo
Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại
hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn
lại một gia đình của ông Noah sống sót mà
thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở
thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả
Rập. Do đó, phát sinh danh từ "Semites" để
gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa
là "con cháu của Shem" (Semites: Descendants
of Shem).
Mới đây, một số nhà khoa học về
nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA
trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả
Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ
công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người
Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng
chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn
gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có
chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn
ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ
Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có
nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad
và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic)
hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người
thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông.
3. Chính Trị và Tôn Giáo:
Trong
thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng
Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới
sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư
làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria
và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba
Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc
giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc
Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do
Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung
Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm
quốc giáo và chọn Constantinople (nay là
Istambul) làm thủ đô.
Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine
đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ
7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc
Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành "Công
Giáo", tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là
tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất
nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của
đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả
những người này thuộc quyền cai quản của
Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế
kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục
được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày
nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo
xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.
Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của
Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do
Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái
nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510
(tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với
sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả
Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống
lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai
trị toàn bán đảo Ả Rập.
Đến năm 525, đế quốc Byzantine
yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem
quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai
chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng
nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán
đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và
Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.
Năm 570, người Ả Rập cầu cứu
hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô
Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và
biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế
quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được
truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.
4. Phong
Tục Tập Quán:
Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc
hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại
thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng
là "những người con của sa mạc" (sons of
desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay,
người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những
con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng
đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn
cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng
trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị
suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra
hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải
luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm
các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các
thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều
thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi
các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán
đặc biệt:
a. Tục trả thù:
Để có thể sống còn trong những
điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người
Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm
(groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết
thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành
đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc
(tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với
quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi
tinh thần gắn bó ấy là "muruwah" bao hàm rất
nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu,
phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi
bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ
mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm
trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh
mạng và tài sản của bộ lạc.
Các tù trưởng có trách nhiệm bảo
vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu
không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến
sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ
lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được
tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm
trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một
người trong bộ lạc này bị giết thì một người
trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền
mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng
máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại
của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt.
Trong những thời kỳ đói kém hay
hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn
một trong những bộ lạc thù địch để tấn công
nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần
thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc
địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt
đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị
đưa đi bán ở chợ nô lệ.
Những người Ả Rập du mục không
hề coi những vụ cướp của giết người như vậy
là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là
những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù
một cách hợp lý mà thôi.
b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide)
Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như
luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ
yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái
sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số
của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ
lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai
thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu.
Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng
nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu
chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất.
Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du
mục không dành cho họ một quyền lợi luật
định nào (no legal right). Họ bị coi như một
thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động
sản (movabal property). Những gia đình nào
đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé
gái sinh sau thường bị giết chết không
thương tiếc.
c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật
Theo tương truyền thì Abraham là
người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và
cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ
lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt
da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối
với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này
thường được gọi là Phép Cắt Bì
(Cirumcision).
Trước khi có đạo Hồi, đa số
người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo
Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ
thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống
như người Do Thái.
Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ
cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được
gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ
4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của
người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện
nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen,
Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ
tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau
đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi
sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao
đẹp hơn.
d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu
Một tục lệ của người Ả rập gây
căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi
lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh
tiết cô dâu (Proof of the bride's
Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong
gia đình cô dâu và những người khách tham dự
tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ.
Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi
phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người
biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất
trinh trước đám cưới thì đây là một điều
nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn
nhân có thể bị hủy bỏ!
e. Tục giết gái chửa hoang
Các cô gái Ả Rập không chồng mà
chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với
danh dự của gia đình. Các cô gái này thường
bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ
danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi
tục lệ này là "Giết người vì danh dự" (Honor
Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó
có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu
các cơ quan luật pháp cũng không được bảo
vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp
này được xã hội coi là hành động chính đáng
và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời
gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà
thôi.
Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.
Huỳnh Hữu Đức Biên soạn theo Wikiperia - http://sachhiem.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét