Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Ba Nam Chu Trung Dạ Thu Sự - Sầm Tham


Ba Nam Chu Trung Dạ Thu Sự
 
Đ khẩu dục hoàng hôn , 
Quy nhân tranh độ huyên 
Cận chung thanh dã tự 
Viễn hỏa điểm giang thôn 
Kiến nhạn tự hương tín 
Văn viên tích lệ ngân
Cô chu vạn lý dạ
Thu nguyệt bất kham luân . 
                            Sầm Tham

Dịch nghĩa : 
Ở bến đò trời sắp tối
Tiếng người về xôn xao tranh nhau qua đò
Tiếng chuông gần ngoài cánh đồng
Xa xa đèn ở xóm bên sông
Thấy chim nhạn mong tin tức quê nhà
Nghe vượn kêu , lệ chan chứa
Một chiếc thuyền đêm ở xa quê hương muôn dặm
Không muốn thưởng ngoạn trăng thu . 

Dịch thơ :

Tâm Sự Đêm Trong Thuyền  Ở  Ba  Nam  

Đò bến nước, hoàng hôn mờ ảo ,
Vẳng khách thuyền, huyên náo sang sông .
Chuông gần vang khắp cánh đồng ,
Bên sông, thôn vắng, lửa hồng xa trông
Nhìn cánh nhạn lòng mong tin tức ,
Nghe vượn sầu, lệ chực tuôn rơi .
Thuyền đêm vạn dặm một nơi ,
Không nhìn thu nguyệt lả lơi đầu thuyền 
                              Mailoc phỏng dịch 

Bến đò trời sắp tối
Huyên náo khách sang sông.
Chuông vẳng qua đồng rộng
Thôn xa ánh lửa hồng
Tin nhà, trông cánh nhạn ,
Nghe vượn, lệ tuôn dòng .
Vạn dặm, thuyền đêm lẻ
Trăng thu chẳng muốn trông . 
                Mailoc phỏng dịch
  
                         Nhớ Quê


                  Bến đò trời sắp tối rồi
     Tranh nhau vội vã bao người qua sông
       Tiếng chuông vang vọng cánh đồng
   Ánh đèn trong xóm thắp hồng bóng đêm
           Quê nhà bóng nhạn trông tin
    Vượn kêu, giọt lệ nổi chìm nhớ mong
        Quê hương canh cánh bên lòng
Trăng thu vằng vặc mà không muốn nhìn              
                                        Trầm Vân

 
Đỗ Chiêu Đức xin được bổ sung các phần sau đây :
 
   岑参(cén shēn) (约715年—770年)唐代诗人,原籍南阳(今属河南新野),迁居江陵(今属湖北)。汉族,荆州江陵(湖北江陵)人,去世之时56岁,是唐代著名的边塞诗人。其诗歌富有浪漫主义的特色,气势雄伟,想象丰富,色彩瑰丽,热情奔放,尤其擅长七言歌行


     Sầm  Tham ( Sâm ) ( khoảng 715-770 ) Thi nhân đời Đường, nguyên quán Nam Dương ( Nay thuộc huyện Tân Dã tỉnh Hà Nam ), thiên cư đến Giang Lăng ( Nay thuộc tỉnh Hồ Bắc ), người Hán tộc. Mất lúc 56 tuổi , là thi nhân Biên tái nổi tiếng đời Đường. Thơ của ông mang sắc thái đặc biệt của chủ nghĩa lãng mạn, khí thế mạnh mẽ, tưởng tượng phong phú, đầy màu sắc và nhiệt tình, sở trường về thơ ca phổ nhạc 7 chữ.
 
2. Bản chữ Hán của bài thơ. BA NAM CHU TRUNG DẠ THỊ , như sau ;
 
                           巴南舟中夜市         BA NAM CHU TRUNG DẠ THỊ
                            渡口欲黃昏,              Độ khẩu dục hoàng hôn,
                            歸人爭渡喧。              Quy nhân tranh độ huyên.
                            近鐘清野寺,              Cận chung thanh dã tự,
                            遠火點江村。              Viễn hỏa điểm giang thôn.
                            見雁思鄉倍,                 Kiến nhạn tư hương bội ,

                            聞猿積淚痕。              Văn viên tích lệ ngân.
                            孤舟萬里外,              Cô chu vạn lý ngoại,
                            秋月不堪論。              Thu nguyệt bất kham luân.
                              
            岑參                            
                       Sầm Tham.
Dịch nghĩa :
 
Ở bến đò trời sắp tối
Tiếng người về xôn xao tranh nhau qua đò
Tiếng chuông gần ngoài cánh đồng
Xa xa đèn ở xóm bên sông
Thấy chim nhạn mong tin tức quê nhà
Nghe vượn kêu , lệ chan chứa
Một chiếc thuyền đêm ở xa quê hương muôn dặm
Không muốn thưởng ngoạn trăng thu .
 
  3. Chú thích :
           (1). THAM : Chữ nầy có 2 cách viết,( 参 và 參 ), 2 cách đọc, 2 tự loại với 2 nghĩa khác nhau, như sau :
* Đọc là THAM : Động từ, có nghĩa là Can Dự Vào, Gia nhập vào. Ví dụ : Tham gia, Tham khảo, Tham luận....
* Đọc là SÂM : Danh từ, một loại thảo mộc quý hiếm : Nhân Sâm, Cao Ly Sâm...
Ngoài ra, SÂM còn là tên của một vì sao ( Sao KIM ) mà ta gọi là SAO HÔM, mọc lúc chạng vạng tối... và nếu đi với âm SI, thì sẽ thành một Tính từ kép SÂM SI, có nghĩa là SO LE, không bằng nhau, như trong Kinh Thi có câu :
SÂM SI hạnh thái ,
Tả hữu lưu chi...
            (2). ĐỘ 渡 : Có 3 chấm thủy một bên, có nghĩa là đi ngang qua ao hồ sông biển, nên ĐỘ KHẨU trong bài thơ có nghĩa là Bến Đò, Bến Nước.
            (3). HUYÊN 喧 : Có bộ Khẩu là cái miệng một bên, nên có nghĩa là : Ốn ào, om sòm, xôn xao, huyên náo.
            (4). DÃ 野 : Danh từ là Cánh đồng, Phần đất ngoài thổ cư. Ví dụ : Dã ngoại, Điền Dã... Nhưng, nếu là...
Tính từ thì có nghĩa là Còn Hoang Sơ, Chưa Khai Phá. Ví dụ : Dã Thú, Hoang Dã...
           (5). NGÂN 痕 : là cái Vết, cái Sẹo, là Vết Hằn, trong bài thơ LỆ NGÂN là Cái vết còn sót lại của giọt nước mắt đã khô, cái ngấn lệ.
 
4. Diễn nôm :
           Thầy Lộc đã diễn nôm bằng thơ Ngũ Ngôn và bằng Song thất Lục bát rất hay, nên tôi chỉ diễn nôm bằng thơ 6 chữ và Lục bát...
Thơ 6 chữ :

TRONG THUYỀN NGẮM CHỢ ĐÊM Ở BA NAM

Bến đò hoàng hôn phai nắng,
Người về bến nước lao xao.
Chuông chùa ngân nga đồng vắng,
Đèn đêm lóe xóm sông xa,
Trông nhạn mong tin quê cũ,
Nghe viên xúc động lệ nhòa.
Thuyền đi xa ngoài vạn dặm,
Trăng thu thôi chẳng thiết tha !


Lục bát :
 
           Hoàng hôn qua bến nước xưa,
      Lao xao tiếng nói chào thưa qua đò.
      Chuông chùa đồng vắng vẳng đưa,
       Bên sông lắp lóe đèn chưa tối trời.
               Tin quê nhạn đã bay rồi,
       Xót xa vượn hú bồi hồi lòng quê.
           Thuyền đi vạn dặm chưa về,
Trăng thu biếng ngắm não nề một thân !  
                                       Đỗ Chiêu Đức.
 
 
Quên Đi xin giới thiệu đến Quý Vị thêm một bản khác cùng để tham khảo:

   巴南舟中                 Ba Nam Chu Trung


 

渡口嘆黃昏,          Độ khẩu thán hoàng hôn,
歸人爭渡喧。          Quy nhân tranh độ huyên.
近鐘清野寺,          Cận chung thanh dã tự,
遠火點江村。          Viễn hoả điểm giang thôn.
見雁思鄉倍,          Kiến nhạn tư hương bội,
聞猿積淚痕。          Văn viên tích lệ ngân (ngấn)
孤舟萬里夜,          Cô chu vạn lý dạ,
秋月不堪論。          Thu nguyệt bất kham luận.

           岑參                                         Sầm Tham

Dịch Nghĩa

Đêm Trong Thuyền Nơi Bến Ba Nam

Nơi bến đò lúc hoàng hôn tắt dần
Người về tranh nhau qua đò xôn xao
Tiếng chuông ngôi chùa ngoài đồng ngân vang nghe thật gần
Những ngọn đèn của xóm ven sông trông thật nhỏ giống như ở ngoài xa
Nhớ quê nhà tăng lên khi thấy bóng nhạn bay qua
Dấu nước mắt chảy thật nhiều vì nghe tiếng vượn kêu
Chiếc thuyền đơn độc xuôi muôn dậm trong đêm
Lòng buồn không thể nào thưởng thức vẻ đẹp của trăng thu.

Dịch Thơ:
                   1
Bến đò ngày tắt hẳn
Náo nhiệt khách qua sông
Chùa vắng tiếng chuông vọng
Xóm xa đóm lửa hồng
Nhạn về quê nặng nhớ
Nghe vượn lệ đôi dòng
Muôn dậm thuyền đơn lẻ
Trăng thu thêm tủi lòng


                           2
Đêm buồn dần phủ bến đò ngang
Nhộn nhịp qua sông khách vội sang
Đồng vắng chùa bên chuông vọng tiếng
Cạnh sông xóm nhỏ ánh đèn vàng
Nhạn bay thấy nhớ quê yêu dấu
Vượn hú nghe buồn lệ chứa chan
Vạn dậm trong đêm thuyền một bóng

Trăng thu sáng đẹp dạ đâu màng
                                            Quên Đi

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét