Tựa Cửa Tựa Cổng
"Tựa cửa", "tựa cổng" do chữ "Ỷ môn", "Ỷ tư".Nhạc
Nghị là tướng nước Yên đời Chiến Quốc đem quân đánh Tề, hạ được 72
thành. Tề chỉ còn 2 thành là Cử Châu và Tức Mặc. Tề Mẫn vương thua chạy
ra Cử Châu, có quan đại phu là Vương Tôn Giả hộ giá.Vương
Tôn Giả mới 12 tuổi, chỉ còn mẹ già, Mân vương thương cho làm quan. Tôn
Giả theo phò Mân vương đến nước Vệ thì cả hai lạc nhau. Giả chẳng biết
Mân vương ở đâu, bèn lẻn về nhà. Bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề ở đâu, Giả
nói:- Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, rồi không biết vua đi ngả nào.Bà mẹ giận, nói:-
Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong; mày chiều đi mà không
về thì ta đứng tựa cổng mà mong. Vua mong bề tôi có khác gì mẹ mong con.
Mày làm tôi vua Tề, vua ban đêm chạy trốn, mày không biết vua đi đâu,
sao lại bỏ về?Giả
thẹn quá, lại từ biệt mẹ già đi tìm vua Tề, nghe vua ở Cử Châu, đến
ngay để tìm. Nhưng khi đến đó mới biết vua Tề bị Tướng quốc Tề là Trác
Xỉ mưu phản, tư thông với Nhạc Nghị giết chết vua Tề. Giả bèn trần tay
áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ:-
Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung. Nếu ai bằng
lòng giết kẻ có tội ấy thì theo ta cùng trần tay áo bên tả.Người
trong chợ cùng bảo nhau: "Người ấy ít tuổi mà có lòng trung nghĩa,
chúng ta ai là người hiếu nghĩa, tưởng đều nên theo". Chỉ trong một chốc
có đến hơn bốn trăm người cùng trần tay áo bên tả.Trác
Xỉ, trước vốn tướng nước Sở. Khi Tề bại trận có sai sứ sang cầu viện
vua Sở tiếp cứu, hứa cắt dâng cả đất Hoài Bắc cho Sở để đền ơn. Vua Sở
sai đại tướng Trác Xỉ mang 20 vạn quân lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận
đất, nhưng lại mưu mẹo dặn Xỉ cứ liệu chừng mà thi hành, hễ có lợi cho
Sở thì làm ngay. Xỉ được Tề Mân vương lập làm tướng quốc. Quyền hành đều
về tay Xỉ.Xỉ
thấy quân Yên thế mạnh, sợ cứu Tề vô công, bèn mật sai sứ tư thông với
Nhạc Nghị, định giết Mân vương rồi cùng Yên chia đất Tề, và yêu cầu Yên
để cho mình làm vua. Tướng Yên là Nhạc Nghị ưng chịu.Trác
Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Lý, mời Mân vương đến duyệt binh, đoạn
bắt Mân vương rút gân treo lên nóc nhà. Sau ba ngày, Mân vương mới tắt
hơi. Xỉ liền về Cử Châu, muốn tìm thế tử vua Tề mà giết nốt nhưng tìm
không được. Xỉ liền làm biểu tâu với vua Yên kể công mình, nhờ Nhạc Nghị
chuyển đệ cho.Giữa
lúc ở Cử Châu, Trác Xỉ vào cung vua Tề uống rượu say sưa, truyền mỹ nữ
tấu nhạc làm vui. Quân Sở đông nhưng đều đóng ở ngoài thành, chỉ có vài
trăm quân dàn hầu ở cửa cung. Vương Tôn Giả đem 400 người xông vào cướp
khí giới của quân lính, tiến vào cung bắt được Trác Xỉ. Xỉ bị xả thây,
bằm nát thành nước thịt. Quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn,
một nửa đầu hàng nước Yên.Vương Tôn Giả truyền đóng chặt cửa thành, cố giữ.Lời
nói của bà mẹ Vương Tôn Giả: "Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa
mà mong; mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong...",
nguyên văn: "Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng; mộ xuất
nhi bất hoàn, tắc ngô ỷ lư nhi vọng". Do đó, nên sau trong văn chương,
người ta thường dùng chữ "ỷ môn, ỷ lư" (tựa cửa, tựa cổng) để chỉ sự cha
mẹ trông con.Trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm", bản dịch nôm của bà Đoàn Thị Điểm, đoạn nói về tình gia thất của khách chinh phu, có câu:
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Trong
tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều ở lầu Ngưng
Bích của mụ Tú Bà, nàng nhớ quê hương, nhớ tình nhân, nhớ cha mẹ, cũng
có câu:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
"Tựa cửa" là do điển tích trên.Riêng
có chữ "hôm mai" đi theo chữ "tựa cửa" là vì trong chữ sách, mẹ của
Vương Tôn Giả có nói đến việc con đi buổi mai và buổi chiều (triêu xuất,
mộ xuất).
Tứ Thư
Tứ
Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này
vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn
chương tối cổ của nước Tàu.Tứ Thư (bốn sách) gồm có Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.1/ Đại học là sách của bực "đại học" cốt dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm hai phần:a/ Phần đầu gọi là Kinh, chép lời đức Khổng Tử có 1 chương.b/ Phần cuối gọi là Truyện, lời giảng giải của Tăng Tử là môn đệ của Khổng Tử có 10 chương.Mục
đích bực đại học hay tôn chỉ của người quân tử, đã tóm tắt ở câu đầu
sách là: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư
chí thiện". Nghĩa là: "Cái đạo của người theo bực đại học là cốt làm
sáng cái đức sáng (đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải hóa) người
dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện". Vậy người quân tử trước phải sửa
sang đức mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên hay, và lấy sự chí
thiện làm cứu cánh.Mục
đích đã vậy, phương pháp phải thế nào? Con người phải sửa mình trước
(tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (bình
thiên hạ). Phương pháp này phải tuần tự tiến hành là tự mình đến người
ngoài, mà điều cốt yếu nhứt là việc sửa mình. Vì vậy trong Đại Học có
câu: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bản".
(Từ vua đến thường dân, ai ai cũng đều lấy việc sửa mình làm gốc). Vậy
muốn sửa mình phải thực hành cách nào? Trước hết phải cách vật (thấu lẽ
mọi sự vật), rồi phải trí tri (biết cho đến cùng), thành ý (phải thành
thực), chánh tâm (lòng phải ngay thẳng). Thực hành bốn điều này thì sẽ
tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được thiên hạ, mà
làm tròn được cái đạo của người quân tử.2/
Trung Dung là sách gồm những lời tâm pháp của đức Khổng Tử do học trò
ngài truyền lại, rồi sau thầy Tử Tư là cháu của ngài chép thành sách,
gồm có 33 chương.Thầy
Tử Tư dẫn những lời nói của Khổng Phu Tử đã giảng về đạo trung dung, có
cho rằng: Trung hòa là tính tình tự nhiên của trời đất mà trung dung là
đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch về bên nào; dung là
thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Muốn theo đạo này cốt
phải có cái đạo đức: trí, nhân và dũng. Trí để biết rõ các sự lý, nhân
để hiểu điều lành mà làm, dũng là có cái khí cường kiện mà thực hành
theo điều lành đến cùng.Đạo
người là phải cố gắng để đạt đến bực chí thánh. Phải học cho rộng, xét
hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ và dốc
lòng làm điều thiện cho đến cùng. Nếu ai làm được như thế thì ngu thành
sáng, yếu thành mạnh, tức là dần lên đến bực chí thánh. Trong thiên hạ
chỉ có bực chí thánh mới hiểu rõ cái tính của Trời. Biết rõ cái tính của
Trời thì biết được cái tính của người. Biết rõ cái tính của người thì
biết được cái tính của vạn vật. Biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ
giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy.Sách
Trung Dung nói về đạo của thánh hiền vốn căn bản của Trời, rồi giải
diễn ra hết mọi lẽ, khiến cho con người phải giữ mình cho kính cẩn trong
khi hành động và khi im lặng một mình.Tóm lại, Trung Dung thuộc về loại sách triết lý rất cao.3/
Luận Ngữ là quyển sách chép những lời nói của đức Khổng Tử khuyên dạy
học trò, hoặc những câu chuyện của ngài nói với những người đương thời
về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chính trị, học thuật) do các môn đệ
của ngài sưu tập lại.Sách
chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên lấy 2 chữ
đầu đặt tên). Các chương không có liên lạc, hệ thống gì nhau.Sách
Luận Ngữ có thể cho là quyển sách dạy đạo người quân tử một cách thực
tiễn và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của đức Khổng Tử, như phác họa
một mẫu mực hoạt động cho người đời sau noi theo.Sách
này cho ta biết được nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử.
Còn cho ta nhận thấy phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm
cung, khoái hoạt) của đức Khổng Tử biểu lộ qua những chuyện ngài nói với
học trò. Sách này chẳng những cho ta thấy được cảm tình phong phú và
lòng ái mỹ mà còn là khoa sư phạm của Khổng Tử. Trong những lời khuyên
dạy chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý
học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ,
cảnh ngộ của mỗi người. Có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác,
tùy theo tư chất và chí hướng của từng người.4/
Mạnh Tử là tên bộ sách do Mạnh Tử viết. Sách gồm có 7 thiên. Các chương
trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn một vấn đề.Sách này cho ta nhận thức được tư tưởng của Mạnh Tử về các vấn đề:Về
luân lý, ông xướng lên thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của
người đương thời (như Cáo Tử) cho rằng tính người không thiện không ác.
Theo ý ông, thiên tính con người vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy
xuống chỗ thấp; sỡ dĩ thành ác là vì làm trái thiên tánh, ví như ngăn
nước cho nó chảy lên chỗ cao.Tính
người vốn thiện nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh, vì vật dục làm sai lạc
đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện, giữ
lấy bản tính. Những điều cốt yếu trong việc giáo dục là: dưỡng tính (giữ
lấy thiện tính), tồn tâm (giữ lấy lòng thành), trì chí (giữ chí hướng
cho vững). Và, ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà gọi là
đại trượng phu hoặc đại nhân. Bực này phải có bốn điều là: nhân, nghĩa,
lễ và trí.Về
chính trị, ông cho rằng bực làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ
đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và chiến tranh. Ông
cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế. Ông cho rằng người có hằng sản rồi mới
có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì
mới sinh ra có lòng tốt muốn làm điều thiện, và có phương tiện để thực
hiện điều thiện ấy. Vậy bổn phận kẻ bề trên là phải trù tính sao cho tài
sản của dân được phong phú, rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân
làm điều hay được. Ông lại chỉ cho các vua chúa những phương lược để làm
cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt.Mạnh
Tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một văn gia đại
tài. Văn của ông rất hùng hồn và khúc chiết. Ông biện luận điều gì cũng
rạch ròi, sắc cạnh. Ông hay nói thí dụ. Muốn cho ai hiểu điều gì, muốn
bắt ai chịu phục lẽ gì, ông thường dẫn những thí dụ mượn ở sự vật cho
người ta dễ nhận xét. Ông lại thường dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu
chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận
cái hàm ý của ông.Tóm lại, bộ Tứ Thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo. Ai muốn hiểu rõ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu.
Ngũ Kinh
Ngũ
Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của
Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy
Hoàng (246-209 trước D.L.), một kinh là kinh Nhạc (âm nhạc) bị mất đi.
Kinh này chỉ còn lại một thiên, sau đem vào sách Lễ ký (kinh Lễ), đặt là
thiên Nhạc ký.Ngũ Kinh là:
1/
Thi (thơ), do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn. Kinh này vốn là những
bài ca dao ở nơi thôn quê và nhạc chương nơi triều miếu của nước Tàu về
thời thượng cổ.Nguyên
trước có đến ba ngàn thiên. Sau, đức Khổng Tử san định lại hơn ba trăm
chương và theo ý nghĩa các thiên, sắp đặt thành bốn phần. Đến đời Tần
Thủy Hoàng, kinh Thi cũng như các kinh khác, bị đốt nhưng có nhiều nhà
nho còn nhớ. Đến thế kỷ thứ hai trước Dương lịch, về đời nhà Hán có bản
kinh Thi xuất hiện, đại thể giống nhau, duy chữ viết có khác. Truyền lại
đến nay là bản của Mao Công (tức Mao Trường).Kinh
Thi có bốn phần gồm 305 thiên (bài thơ). Trong đó có 6 thiên chỉ truyền
lại đề mục mà không còn bài. Mỗi thiên lấy vài chữ chính trong thiên
làm đề mục và chia làm nhiều chương. Bốn phần trong kinh Thi là: Quốc
phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.Quốc
phong là những bài ca dao của dân các nước chư hầu đã được nhạc quan
của nhà vua sưu tập lại: Quốc là nước (đây là các nước chư hầu về đời
nhà Chu); phong nghĩa đen là gió, ý nói các bài hát có thể gợi cảm con
người như gió làm rung động các vật.Quốc
phong gồm có Chính phong và Biến phong. Chính phong phân làm 2 quyển
Chu Nam và Thiệu Nam, gồm những bài hát từ trong cung điện nhà vua
truyền ra khắp dân quân. Biến phong gồm những bài hát của 13 nước chư
hầu khác.Tiểu nhã gồm những bài hát dùng ở nơi triều đình, nhưng chỉ dùng trong những trường hợp thường như khi có yến tiệc.Đại nhã chỉ những bài hát dùng trong những trường hợp quan trọng như thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường.Tụng nghĩa là khen, gồm những bài ngợi khen các vua đời trước và dùng để hát ở nơi miếu đường.Các
bài trong Kinh Thi thường viết theo thể thơ 4 chữ (thỉnh thoảng có câu 3
chữ hoặc 5 chữ). Cách kết cấu các bài làm theo ba thể: phú, tỉ, hứng.Đọc
Kinh Thi, ta biết được tính tình, phong tục của người dân và chính trị
các đời vua cùng các nước chư hầu ở nước Tàu về đời thượng cổ. Đọc Mân
phong, ta biết được tính đức cần kiệm người dân đất Mân. Đọc Vệ phong,
ta biết được thói dâm bôn của người dân nước Vệ. Đọc Tần phong, ta biết
được sự hối quá của người dân nước Tần. Đọc Đại nhã, Tiểu nhã, ta biết
được chính trị của nhà Chu thịnh suy thế nào.Kinh
Thi là một nguồn thi hứng: các thi sĩ thường mượn đề mục. Kinh Thi còn
là một kho điển tích. Các nhà làm văn thường lấy điển hoặc lấy chữ ở
đây. Cũng như ca dao của Việt Nam, Kinh Thi là nền tảng thơ tối cổ của
Trung Hoa. Trong đó có nhiều bài mô tả tính tình, phong tục dân Tàu một
cách chất phác, hồn nhiên.
2/
Thư (nghĩa đen là ghi chép), do đức Khổng Tử sưu tập. Kinh này chép
những điển (phép tắc), mô (mưu mẹo, kế sách), huấn (lời dạy dỗ), cáo
(lời truyền bảo), thệ (lời răn bảo tướng sĩ), mệnh (mạng lịnh) của các
vua tôi bên Trung Hoa từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu (từ năm 2357
đến năm 771 trước D.L.)
3/
Dịch (nghĩa đen là thay đổi) là bộ sách tượng số dùng về việc bói toán
và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hóa của trời đất và sự hành động
của muôn vật. Nguyên vua Phục Hi (4480-4365 trước D.L.) đặt ra bát quái
(tám quẻ, tức là 8 hình vẽ); tám quẻ ấy lại đặt lần lượt chồng lên nhau
thành ra 64 trùng quái (quẻ kép). Mỗi trùng quái có 6 nét vạch (hoặc
vạch liền biểu thị lẽ "dương", hoặc vạch đứt biểu thị lẽ "âm") gọi là
hào, thành ra 384 hào. Đức Khổng Tử nhân đó mà giải nghĩa các quái, các
trùng quái và các hào.
4/
Lễ Ký (chép về lễ) là sách chép các nghi lễ trong gia đình, hương đảng
và triều đình. Hiện Kinh Lễ (Lễ Ký) còn truyền lại đến giờ phần nhiều là
văn của Hán nho, chớ chính văn do đức Khổng Tử san định về đời Xuân Thu
không còn mấy.
5/
Xuân Thu (mùa xuân và mùa thu) nguyên là sử ký nước Lỗ, do đức Khổng Tử
san định lại, chép công việc theo lối biên niên từ năm đầu đời Lỗ Ẩn
công đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai công (từ năm 722 đến năm 481 trước D.L.).
Kinh Xuân Thu cũng gọi là Kinh Lân, vì đức Khổng Tử chép lúc nước Lỗ săn
được con lân què thì ngài dừng bút. (Loan rằng: "Sử Mã kinh Lân" - cụ
Nguyễn Đình Chiểu).
Lợn Người
"Lợn người" do chữ "nhân trệ" của Lữ hậu, vợ vua Hán Cao Tổ Lưu Bang đời Tây Hán.
Lữ
hậu tên Lữ Trĩ lấy Lưu Bang lúc còn hàn vi. Lưu Bang dựng nghiệp nhà
Hán phong Lữ Trĩ làm hoàng hậu. Nhà vua có người hậu phi tên Thích Cơ
trẻ đẹp nên rất sủng ái. Một hôm, vua vào cung Thích Cơ bày yến tiệc.
Uống say, vua nằm trên vế Thích Cơ ngủ vùi. Lữ hậu cho người dọ biết nên
lên kiệu đi thẳng lại cung Thích Cơ. Kẻ tả hữu chạy vào phi báo, nhưng
vì nhà vua nằm trên vế ngủ, nên Thích Cơ chẳng dám động, đành phải ngồi
yên.Lữ hậu bước vào thấy thế máu ghen càng sôi lên:
- Loài tiện tỳ thường vô lễ, nay ta vào cung của mi, sao mi dám ngồi trên cao, không đứng dậy là đạo lý chi vậy?Thích Cơ sợ sệt thưa:
-
Tôi thấy nương nương đến, há chẳng tiếp nghinh. Vì chúa thượng ngủ
đương ngon giấc, tôi chẳng dám động nên mới thất lễ, xin nương nương tha
tội.Lữ hậu nghiến răng, mắng:
- Loài tiện tỳ, cứ lấy vua làm nể, chừng người có muôn tuổi rồi, ta sẽ nghiền mi nát ra tro cho mi coi.
Đoạn Lữ hậu quày quả bỏ đi.Sau
khi Hán Cao Tổ chết, Thích Cơ không người bảo bọc, ủng hộ nên Lữ hậu
thừa dịp trả thù. Lữ truyền bắt Thích Cơ cùng một số cung nhân trước kia
theo Thích Cơ, được nhà vua sủng ái đem ra hành hình một cách bi thảm
rùng rợn. Lữ bắt họ phải uống thuốc câm, rồi chặt tay chân, khoét mắt,
cắt tai, giam vào chuồng xí dơ bẩn. Họ đau đớn quá nhưng bị câm, không
thốt ra tiếng người được nữa, chỉ tru lên những tiếng ú ớ u ơ rất thê
thảm. Lữ hậu lại bắt mọi người gọi những nạn nhân ấy là lũ "nhân trệ"
(lợn người).
Đời
Tam Quốc, Lưu phu nhân là vợ của Viên Thiệu chúa chư hầu đất Hà Bắc...
thấy 5 nàng hầu diễm lệ được chồng sủng ái thì phát ghen. Sau khi Thiệu
chết, Lưu bắt 5 nàng ra giết chết cả. Lại sợ âm hồn các nàng về chín
suối được tái ngộ với chồng, mụ còn sai người cạo tóc, vạt mặt, khoét
mắt và băm vằm năm cái thây ma ấy ra như tương. Con mụ là Viên Thượng sợ
có kẻ oán mà mưu hại, bèn sai bắt hết thân nhân gia thuộc của năm nàng
này đem giết hết.Sư tử Hà Đông trả thù thật khiếp.Máu ghen lạ đời và tàn ác đến thế là cùng.
Đọc
"Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, diễn tả Hoạn Thư tuy ghen mà
còn khá. Nàng Hoạn Thư ghen sâu sắc tế nhị chớ không tàn bạo như Lữ hậu,
Lưu... hay những mụ tạt át xít vào mặt tình địch như thời nguyên tử.
Tây Thi, Trịnh Đán
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.Nàng
xuất thân một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở Trữ La Sơn.
Trữ La có hai thôn: Đông thôn và Tây thôn, phần nhiều là họ Thi. Vì nàng
ở về Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Ở đây lại có nàng Trịnh Đán, bạn láng
giềng Tây Thi, cũng là một mỹ nữ sắc nước hương trời. Nhà ở gần sông,
ngày nào hai nàng cũng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng nước
biếc, hai bóng lộn nhau, trông hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi
đẹp.Vua
nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn
ngựa cho vua nước Ngộ Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn mong rửa
được nhục thù. Đại phu Văn Chủng hiến 7 kế phá Ngộ Một trong 7 kế là đem
mỹ nữ sang dâng để làm mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay.
Trong vòng nửa năm, tuyển được hai ngàn mỹ nữ, lại chọn hai người đẹp
nhứt là Tây Thi và Trịnh Đán. Câu Tiễn sai Tướng quốc Phạm Lãi đem 100
nén vàng đến thôn Trữ La rước hai nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi
trong xe có màn phủ.Người
trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài
cõi đón. Đường xá chật ních những người. Phạm Lãi liền để hai nàng ở nhà
quán xá rồi truyền dụ rằng: "Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng
tiền". Chỉ trong một lúc mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa
bao lơn, khác nào như tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài cõi ba
ngày, tiền thu không xiết kể. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ
Thành, rồi sai một lão nhạc sư đến dạy múa hát.Ba
năm qua, Tây Thi và Trịnh Đán cùng số mỹ nữ học múa hát đã được tinh
xảo, Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai.
Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy vua Ngô, tâu rằng:-
Đông hải tiện thần là Câu Tiễn cảm ơn đại vương, không thể đem thê
thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy cố tìm khắp trong nước được hai mỹ
nhân khéo nghề múa hát nên sai chúng tôi đem nộp vương cung để giữ việc
quét rửa.Phù
Sai trông thấy hai nàng, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê
mẩn, mắt nhìn đăm đăm một cách say sưa. Phù Sai rất lấy làm hài lòng
nhận lấy mỹ nữ. Tây Thi và Trịnh Đán được Phù Sai yêu mến. Nhưng riêng
Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm
người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn. Tây Thi được ở Cô Tô đài với
Phù Sai. Nàng đi dạo nơi đâu cũng dùng đồ nghi vệ theo địa vị phi hậu.
Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi uất ức không nói ra, được hơn một
năm đau chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở Hoàng Mao sơn và lập đền
thờ cúng.Phù
Sai rất yêu Tây Thi, lập Quán Khuê cung ở Linh Nham sơn, trang trí toàn
bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra dạo, ngắm cảnh. Lại xây cất
Hưởng Điệp lan, Ngoạn Hoa trì, xây giếng Ngô vương tỉnh... để cho Tây
Thi đến ngắm hoa, thưởng trăng và soi bóng mình dưới làn nước trong. Phù
Sai lại lập cầm đài để Tây Thi ngồi đàn để Phù Sai thưởng thức những
cung đàn tuyệt diệu của nàng. Phù Sai lại cho đào một con sông con ở
trong thành, từ nam sang bắc rồi làm một chiếc buồm gấm để nàng Tây Thi
dong thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và, còn rất nhiều nơi nữa, cứ mỗi lần
nàng ngự đến là trở nên một di tích "lịch sử" mà Phù Sai sắp đặt kiến
trúc cho.Phù
Sai từ khi được Tây Thi cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi,
rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Tây Thi, con người kiều
diễm ấy, tuy có một thân hình mảnh mai như cành liễu yếu nhưng tiềm tàng
một sức mạnh phi thường là quyết lật đổ cả một triều Ngô để đem lại sự
chiến thắng vinh quang cho triều Việt. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn của
nàng, xưa kia là để quay tơ giặt lụa nhưng nay lại để bóp nát dần cả
một nước Ngô có binh hùng tướng mạnh cho đến ngày tàn. Mắt nàng cau một
cái là một cái đầu của viên thượng tướng bị rơi. Môi nàng cười một nét
là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu... Ngũ Viên, một vị Tướng quốc
kiên trung, đa mưu, túc trí, đầy tài dũng lược của triều Ngô vì nàng mà
chết dưới thanh kiếm Trúc Lâu của Ngô vương.Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận. Ngô vương Phù Sai tự tử.Tây
Thi làm tròn sứ mạng của một người nhi nữ quần vận yếm đối với tổ quốc,
nàng mong được trở lại quê nhà thăm cha ở Trữ La thôn, nhưng vương phi
Câu Tiễn sợ rằng chồng sẽ say đắm sắc đẹp của nàng, nên mật sai người
bắt Tây Thi neo đá quăng xuống dòng nước Tam Giang. Thật là mụ đàn bà
ghen đanh ác.Cái chết của Tây Thi nói trên là theo chính sử.Có
truyện chép: Phạm Lãi yêu nàng Tây Thi nhưng thấy Việt vương Câu Tiễn
muốn lấy Tây Thi, nên ghen mới bày mẹo cho mụ vợ Câu Tiễn giết thác
nàng. Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau, nên
trong trận tấn công nước Ngô, đốt phá Cô Tô đài, Phạm Lãi đón rước Tây
Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn tình chung
thủy. Truyện sau này thấy chép trong "Tình sử". Có lẽ những nhà tiểu
thuyết diễm tình giàu cảm, giàu tưởng tượng và cũng giàu lòng nhân đạo,
thấy đôi trai tài gái sắc, nhứt là đối với Tây Thi, một bực sắc nước
hương trời lại có công to với nước mà bị chết một cánh oan uổng, bi thảm
như thế nên quá xúc cảm, viết thành câu chuyện kia để an ủi oan hồn của
người đẹp chăng?
Nữ Trượng Phu
Đời
Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận
Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu. Viên đốc
tướng Đan Dương là Qui Lãm cùng viên quận thừa là Đái Viên thường có ý
mưu sát Dực. Hai tên mới kết thông với kẻ tùy tùng của Dực là Biên Hồng.
Thế là cả ba mưu giết Dực.Một
hôm, các tướng cùng các vị huyện lịnh về hội họp đông đủ tại Đan Dương.
Tôn Dực cho bày yến tiệc thiết đãi. Vợ của Dực là Từ thị có sắc đẹp lại
thông minh, rất giỏi khoa bói Dịch. Bấy giờ nàng bói thử một quẻ thấy
"tượng" rất xấu, mới khuyên chồng chớ ra tiếp khách. Nhưng Dực không
nghe, cứ cùng các quan ra công đường, chủ tọa buổi tiệc. Đến chiều tiệc
tan, Biên Hồng ngầm giấu dao trong mình, theo chân Dực ra cửa, rồi bất
thình lình rút dao đâm Dực chết ngay. Qui Lãm và Đái Viên bèn đổ tội cho
Biên Hồng, lôi ra giữa chợ chém đầu. Rồi hai tên thừa thế đoạt lấy của
cải và thị thiếp của Dực. Qui Lãm thấy Từ thị nhan sắc diễm lệ, động
lòng dục vọng, bèn bảo nàng:- Ta đã báo thù cho chồng nàng, vậy nàng hãy về ở với ta. Nếu không nghe thì có toàn mạng.Từ thị nói:-
Chồng thiếp vừa mới chết, chưa tiện theo tướng quân ngay. Xin đợi đến
tối 30 này, thiếp cúng "trừ phục" xong, rồi chúng ta thành thân cũng
chẳng muộn.Qui
Lãm nghe nói, sung sướng ưng lời lui ra chờ đợi. Từ thị bèn bí mật
triệu hai viên tướng tâm phúc của Dực là Tôn Cao và Phó Anh vào phủ,
khóc và nói:-
Khi tiên phu còn sống, vẫn thường khen hai ông trung nghĩa. Nay hai tên
giặc Đái, Qui mưu sát chủ, rồi đổ tội cho một mình Biên Hồng và đem hết
gia tư, tôi tớ nhà tôi ra chia nhau. Qui Lãm lại cưỡng bức, đòi hại cả
đời tôi nữa. Tôi phải giả tảng ưng lời cho yên lòng nó. Nay hai tướng
quân nên sai người đi gấp về báo Ngô hầu. Một mặt hãy bày mật kế trừ hai
tên giặc ấy để rửa thù nhục này, thì người chết được ngậm cười mà kẻ
sống đội ơn muôn phần.Đoạn, nàng cúi xuống lạy hai lạy. Tôn Cao, Phó Anh cũng khóc, nói:-
Hai chúng tôi đã đội ơn tri ngộ của Phủ quân nay Phủ quân bị hại, mà
chúng chưa thể chết theo là còn muốn lập kế báo thù cho chủ. Giờ phu
nhân sai khiến, chúng tôi há dám không hết sức?Đến
đêm 30, Từ thị bí mật cho hai tướng Tôn, Phó vào phục sẵn trong màn the
nơi phòng kín. Đoạn bày lễ cúng tế ngoài nhà thờ. Tế chồng xong, nàng
trút bỏ hết đồ tang phục, tắm gội nước hương, trang điểm thật lộng lẫy,
cười nói tươi vui. Qui Lãm nghe tin, sung sướng như mở cờ trong bụng.
Đến đêm, Từ thị cho con hầu ra mời Lãm vào phủ, bày tiệc giữa nhà, chuốc
rượu. Người đẹp, rượu ngon, những lời chuốc mời ngọt dịu, những cái
liếc hữu tình, những nụ cười tươi tắn say đắm làm cho Lãm ngây người
tưởng mình đã lạc vào bồng lai ... nên mặc sức cứ uống.Khi
Lãm đã say, nàng mới mời vào buồng the. Lãm sung sướng mê mẩn. Chắc hẳn
phen này bên cạnh giai nhân mặc đi mây về gió, cảm thấy đời sắp lên
hương, nên Lãm chuếnh choáng theo vào. Bỗng Từ thị kêu lên:- Tôn, Phó, hai tướng quân đâu?Tức
thì hai tướng từ sau màn cầm dao nhảy ra. Lãm trở tay không kịp, bị Phó
Anh chém một đao lăn ngã xuống. Tôn Cao bồi thêm một đao nữa, chết
không kịp la. Đoạn, Từ thị lại mời Đái Viên đến dự tiệc. Viên không nghi
ngại, lòng lại thấy hớn hở, biết đâu mình may phúc được mắt xanh để ý.
Nhưng khi vừa hăng hái bước vào phủ, óc còn đương toan tính những lời
nói sao cho có duyên dáng và mơ tưởng những chuyện lông bông thì Tôn,
Phó xông ra mỗi người phạt cho một đao, chết không kịp dãy.Hạ được chúng, Tôn Cao và Phó Anh sai quân đi bắt cả gia thuộc già trẻ cùng dư đảng của hai tên Lãm, Viên rồi giết chết cả.Thù chồng đã trả, Từ thị lại mặc đồ tang phục, đem thủ cấp Đái Viên, Qui Lãm đặt trước bàn thờ Tôn Dực mà tế.Khắp Giang Đông, ai cũng khen tài đức tiết liệt của Từ thị. Người sau có làm bài thơ khen:
Tài đức gồm hai tuyết giá trong,
Tru di nghịch tặc rửa hờn chồng.
Tôi hèn bó gối, tôi trung chết,
Thua hẳn Đông Ngô một má hồng.
(Bản dịch của Tử Vi Lang)
Nguyên văn:
Tài tiết song toàn thế sở vô,
Gian hồi nhất đán thụ thôi từ.
Dung thần tòng tặc, trung thần tử
Bất cập Đông Ngô nữ trượng phu!
Hết Phần 20
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét