"Tôi
chỉ muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông ,
đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chớ không chịu
khom lưng làm tỳ thiếp cho người"
Một câu nói bộc lộ khí phách của bậc Anh Thư.
Tuy chỉ xuất hiện trong lịch sử với khoảng thời gian rất ngắn. Nhưng Bà Triệu là một điểm son, một tấm gương sáng, là niềm kiêu hãnh của dân tộc nói chung và phụ nữ Việt nói riêng. Chúng ta cùng tìm đến với Bà Triệu qua những trang sử, sách.
Bà Triệu, Triệu Trịnh Nương hay Triệu Thị Trinh đều là tên các đời sau để gọi người nữ anh hùng dân tộc hồi thế kỷ thứ III.
Theo dã sử, Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (256), tại một
vùng sơn thôn nay thuộc địa phận huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa. Mồ côi
sớm, cô gái nông thôn sống với người anh Triệu Quốc Đạt, một hào mục khá
giàu có.
Vợ Triệu Quốc Đạt bản tính ác nghiệt nên người em chồng không được đối
xử tử tế. Cô gái lớn lên tại một vùng bìa rừng hẻo lánh, nên không có
điều kiện học
hành chu đáo, nhưng được đền bù bằng sự thông minh và sức lực thiên bẩm
nên mới được 17, 18 tuổi đã nổi tiếng khắp vùng là có mưu lược và bản
lãnh hơn người.
Do thế người thôn nữ chưa xuất đầu lộ diện mà đã có uy tín đáng kể tại địa phương.
Đến năm 20 tuổi, Triệu Thị Trinh lỡ tay đánh chết người chị dâu nên
phải chạy trốn vào ở trong núi Nưa (nay thuộc xã Tân Ninh huyện Triệu
Sơn, Thanh Hoá), sống tự lập để khỏi lệ thuộc vào người anh nữa.
Nhưng một phần nhờ ở sẵn có nhiều người mến phục và phần khác nhờ ở
tình hình địa phương mà trong thời gian rất ngắn người thôn nữ bôn đào
đã thu hút
được cả ngàn trai tráng chạy theo mình vào rừng sâu, để nghiễm nhiên
trở thành người điều khiển một lực lượng võ trang khả dĩ đương đầu với
quân Đông Ngô và vùng vẫy ở địa phương ấy.
Ở đó cho đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô.
Đó là chuyện Bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà, chuyện "Đá
Biết Nói" rao truyền lời thần nhân mách bảo từ trên núi Quan Yên.
Thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công có truyền thuyết "Đá biết nói" như
sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại
mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn
đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn
lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục
được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến
đấu trung thành của Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu, những ngày đầu tụ
nghĩa, đã đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài
đồng dao:
Có Bà Triệu tướng
Vâng lệnh trời ra
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước
Lệnh truyền sau trước
Theo gót Bà Vương....
Vâng lệnh trời ra
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước
Lệnh truyền sau trước
Theo gót Bà Vương....
Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết nói, báo hiệu cho
dân chúng biết Bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước.
Vì vậy hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau
xuống Phú Điền dựng căn cứ.
Trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Đây là một thung
lũng nhỏ nằm giữa hai dãy núi đá vôi thấp, dãy phía bắc (Châu Lộc) là
đoạn núi chót ngăn cách hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình cũ, dãy núi phía
nam (Tam Đa) là đoạn chót của dải núi chạy dọc sông Mã. Chân phía bắc
núi Châu Lộc là sông Lèn, chân phía nam núi Tam Đa là sông Âu, xưa là
một dòng sông lớn. Thung lũng mở rộng cửa về phía đồng bằng ven biển và
bị chặn ngang về phía tây bởi dòng sông Lèn. ở căn cứ này, ngược sông
Lèn có thể liên lạc với miền quê Bà Triệu. Là địa điểm gần biển, lại là
cửa ngõ từ đồng bằng miền bắc vào Thanh, đó là một vị trí quân sự hiểm
yếu, thuận lợi cả công lẫn thủ.
Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô. Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.
Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô. Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc... tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.
Mến mộ bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ, chờ ngày nỗi dậy:
"Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu Tướng cỡi voi đánh cồng".
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu Tướng cỡi voi đánh cồng".
Triệu Quốc Đại lúc đầu vốn chủ trương cầu an nên đã tìm khuyên
em trở về với kiếp sống bình thường của một thôn nữ, lập gia đình. Nhưng
Triệu Thị Trinh đã khẳng khái:
"Tôi
chỉ muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông ,
đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chớ không chịu
khom lưng làm tỳ thiếp cho người"
Bị câu nói của em gái khích động, Triệu Quốc Đạt quyết cùng em chiêu mộ tướng sĩ dựng cờ khởi nghĩa.
Lúc bấy giờ bọn quan lại Đông Ngô cai trị ngày càng tàn ác, khiến dân
chúng vô cùng khổ cực, oán than thấu trời. Vừa phẫn nộ vừa cho rằng thời
cơ đã thuận lợi, Triệu Quốc Đạt đột ngột mang quân đánh dinh quận Cửu
Chân.
Bị bất ngờ dồn vào thế không thể trì hoãn được nữa. Triệu Thị Trinh
đành mang quân đi giúp anh. Triệu Quốc Đạt vẫn tự biết
không bằng em, quân sĩ dưới cờ ông lại khâm phục người nữ tướng có tài
lãnh đạo, mọi người liền nhất trí suy tôn Triệu Thị Trinh chỉ huy lực
lượng khởi nghĩa.
Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quân bắt đầu tấn công quân Ngô. Các thành ấp
của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Bọn quan cai trị kẻ bị giết, kẻ
chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ Sử
Châu Giao hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú
nhận:"Toàn thể Châu Giao chấn động".
Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà,
cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô
kinh hồn, bạt vía đã phải thốt lên:
Hoành qua đương hổ dị
Đối diện Bà Vương nan
Nghĩa là:
Vung giáo chống hổ dễ
Giáp mặt Bà Vua khó
Đối diện Bà Vương nan
Nghĩa là:
Vung giáo chống hổ dễ
Giáp mặt Bà Vua khó
Với tư cách đó, người thôn nữ mới ngoài 20 tuổi đã sớm chứng tỏ là
không phụ công lòng tin của mọi người. Bà đánh đâu thắng đó, chỉ trong
vòng một tháng trời là lực lượng khởi nghĩa tiêu diệt và đánh đuổi hết
quân Tàu trên toàn bộ lãnh thổ quận Cửu Chân.
Phần vì sợ phép dùng binh sấm sét, phần vì cảm phục độ lượng của người nữ tướng trẻ tuổi, bại binh Tàu đều gọi Bà là Lệ Hải Bà Vương.
Rất nhiều câu chuyện về tình dân với khởi nghĩa Bà Triệu.
Đây là một ông
già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để
ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước; kia một bà cụ hàng nước cố
xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng
chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua giải
khát.
Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà
nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô. Vùng Khang Nghệ có truyền thuyết nói
rằng: thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường.
Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng
trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với Bà Triệu và trở
thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông
nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận.
Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời
nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi
cả mấy vạn xác thù...
Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hể ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng....
Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hể ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng....
Hay tin có khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu Giao mất tích, vua Ngô
hốt hoảng phái ngay Lục Dận (anh em họ của danh tướng Đông Ngô là Lục
Tốn) một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ
sử. Lục Dận đem 8.000 quân tinh
nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ
mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ dao động mắc mưu địch.
Cũng theo truyền thuyết dân gian, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục
Dận rằng Bà là nữ tướng "ái khiết úy ô" (yêu cái trong sạch, ghét cái
nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh Bà. Bà hổ thẹn, giao binh
cho 3 tướng họ Lý, lên núi Tùng tự vẫn.
Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
(thơ ca dân gian)
Bấy giờ bà mới 23 tuổi. Dân địa phương lập đền thờ.
Về sau, vua Lý Nam Đế khen ngợi là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là:"Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân".
Tinh thần yêu nước và dũng khí của Bà Triệu vẫn mãi được truyền tụng cho dù đã gần 2000 năm:
- Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,
Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng.
- "Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc;
- Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi." Khuyết Danh
Tinh thần yêu nước và dũng khí của Bà Triệu vẫn mãi được truyền tụng cho dù đã gần 2000 năm:
- Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,
Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng.
- "Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc;
- Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi." Khuyết Danh
- Một đầu voi chống chọi với quân thù, sau Trưng Vương rạng danh bà Lệ Hải;
Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô Hoàng biết mặt gái Giao Châu.
Dương Bá Trạc
Triệu Nữ Vương
Đạp sóng biển đông diệt cá kình
Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô Hoàng biết mặt gái Giao Châu.
Dương Bá Trạc
Triệu Nữ Vương
Đạp sóng biển đông diệt cá kình
Má hồng vì nước quyết hy sinh
Hiên ngang chống bạo tàn phương bắc
Hậu thế gương truyền "Triệu Thị Trinh"
Quên Đi
Hiên ngang chống bạo tàn phương bắc
Hậu thế gương truyền "Triệu Thị Trinh"
Quên Đi
***
Chú Thích:
- Sách Giao Chỉ chí chép:
- Sách Giao Chỉ chí chép:
Trong
núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không
lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu
vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.
- Sách Những trang sử vẻ vang... giải thích:
Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129).
- Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng:
Huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở Phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước...Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà.
- Sách Những trang sử vẻ vang... giải thích:
Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129).
- Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng:
Huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở Phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước...Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét