Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Hùng Ca Sử Việt Phần 3 : Phá Nguyên Lần 3



Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì thanh-thế lừng-lẫy bao nhiêu, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin Nguyên-chủ cho thêm binh-mã sang đánh báo thù.
Nguyên-chủ thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả, nhưng quần-thần can-ngăn mãi mới thôi.
Bấy giờ nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân sang đánh Nhật-bản, bèn lập tức đình việc đi đánh Nhật-bản lại và sai đóng thêm 300 chiếc thuyền, truyền hịch cho ba tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng, Giang-tây tụ tập quân-sĩ, định đến tháng tám thì cất quân noi đường châu Khâm, châu Liêm sang đánh nước Nam để báo thù.
Quan tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha 線 哥 dâng sớ về can rằng: « Quân ta bại trận mới về, kẻ mang dấu-vết chưa khỏi, người đau-yếu chưa dậy, xin hãy cho quân-sĩ nghỉ-ngơi dưỡng sức ít lâu, rồi sẽ định kế xuất chinh ».
Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ nghỉ vài tháng. Còn Trần ích Tắc 陳 益 稷 đã theo Thoát Hoan về Tàu, thì cho ra ở Ngạc-châu 鄂 州.
Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang đánh An-nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: « Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà chống lại được? » Hưng-đạo-vương tâu rằng: « Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phen trước, xin bệ-hạ đừng lo ».
Nhân-tông mừng rỡ, sai Hưng-đạo-vương đốc-suất các vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sửa-sang khí-giới để phòng việc công thủ.
1. THOÁT HOAN SANG ĐÁNH LẦN THỨ HAI. Sang mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi (1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân-nam và 1 vạn 5 nghìn quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan 脫 歡 làm Đại-nguyên-súy, A bát Xích 阿 八 赤 làm Hành-tỉnh-tả-thừa, Áo lỗ Xích 奥 魯 赤 làm Bình-chương-chính-sự, Ô mã Nhi 烏 馬 兒, Phàn Tiếp 樊 楫 làm Tham-tri chính-sự, đem tất cả hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam, giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm An-nam quốc-vương. Lại sai Vạn-hộ Trương văn Hổ 張 文 虎 theo đường bể tải hơn 17 vạn thạch lương sang cấp cho quân-sĩ.
Qua tháng mười một, Thoát Hoan dẫn quân noi đường châu Khâm, châu Liêm đến châu Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc 張 玉 lĩnh 2.000 quân coi việc chở lương-thực, khí-giới lại sai Trình bằng Phi, Áo lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô mã Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy-quân đi đường bể, đều tiến sang An-nam.
Quan Trấn-thủ ở biên-thùy phi báo về Thăng-long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: « Binh cốt giỏi, chứ không cốt nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên 苻 堅 có trăm vạn quân cũng không ích-gì! »
Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương thống-lĩnh các vương-hầu, chia quân phòng-giữ các nơi.
Hưng-đạo-vương sai Trần nhật Duật 陳 日 燏, Nguyễn Khoái 阮 蒯 dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần quốc Toản 陳 國 瓚, Lê phụ Trần 黎 輔 陳 dẫn 3 vạn quân vào giữ mặt Nghệ-an; tự mình thống đại quân ra giữ mặt Quảng-yên. Một mặt sai tiền quân lên gần châu Tư-minh chia ra đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt cửa sông Đại-than (thuộc Hải-dương) còn đại-quân của Hưng-đạo-vương thì đóng lại núi Phù-sơn.
Quan quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn-Kiếp; Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi Phả-lại và núi Chí-linh, lập trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là Trình bằng Phi 程 鵬 霏 đem hai vạn binh đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại sai Ô mã Nhi 烏 馬 兒 và A bát Xích 阿 八 赤 dẫn quân từ sông Lục-đầu đánh xuống sông Hồng-hà.
Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng-long và sai tướng rước xa-giá tạm lánh về Hám-nam 噉 南 (?)
Nhưng sau khi bị bọn Ô mã Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa.
Ô mã Nhi đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long-hưng (phủ Tiên-hưng, Thái-bình) biết ở đấy có Thiên-lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.
Thoát Hoan đem binh-mã tiến lên vây đánh Thăng-long không được, phải rút về giữ Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại, Hưng-đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để chống với giặc.
Nhân-tông thấy quân Nguyên đã lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng ra Bắc.


2. TRẬN VÂN-ĐỒN: Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên. Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn-kiếp lương thực sắp cạn, Thoát Hoan bèn sai Ô mã Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng (huyện Nghi-dương, Hải-dương) đón thuyền lương của Trương văn Hổ. Ô mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân-đồn (Vân-hải, Quảng-yên) gặp quân của Nhân-huệ-vương Trần khánh Dư 仁 惠 王 陳 慶 餘 chặn đường không cho đi. Ô mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.
Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.
Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: « Tôi sai tướng-lệnh đành xin chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc tội chăng? »
Được mấy hôm Ô mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.
Khánh Dư đồ rằng Ô mã Nhi đã phá được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không còn ai ngăn-trở gì nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt-nhạnh thuyền-bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến thì kéo ra đánh.
Quả-nhiên Trương văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục-thủy-dương (phía đông-nam huyện Hoành-bồ tức là vịnh cửa Lục bây giờ). Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí-giới rất nhiều. Còn Trương văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về Quỳnh-châu.
Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng: « Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất dễ ».
Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho lũ quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng muốn về Tàu, mà lương-thực một ngày một cạn.
Ô mã Nhi từ khi ở ải Vân-đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An-hưng (thuộc Quảng-yên) rồi rút về Vạn-kiếp.

3. TRẬN BẠCH-ĐẰNG-GIANG: Ô mã Nhi phải bắt. Quân Nguyên từ khi thua trận Vân-đồn, lương-thảo một ngày một cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ý, sai tướng lên giữ núi Kì-cấp và ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người Tàu đi lại.
Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: « Quân ta đóng ở đây, thành-trì đã không có, kho-tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng-nực, mà lại những chỗ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác ».
Thoát Hoan thấy quân-thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy-quân theo đường sông Bạch-đằng về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa thì rút về.
Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giữa dòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy-triều lên thì đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hể lúc nào nước thủy-triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm ngũ Lão, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội-bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà đánh.
Các tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng-đạo-vương mới hô quân sĩ, trỏ sông Hóa-giang mà thề rằng: « Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa! » Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.
Những chiến-thuyền của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp theo dòng sông Bạch-đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu-chiến. Ô mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo.
Nguyễn Khoái nhử quân Nguyên đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy-triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vỡ mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.
Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến-thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.


4. HƯNG-ĐẠO-VƯƠNG ĐẠI PHÁ NGUYÊN-BINH. Thoát Hoan nghe tin quân thủy vỡ tan rồi, dẫn bọn Trình bằng Phi, A bát Xích, Áo lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải Nội-bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ gìn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3.000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường chạy, bị Phạm ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.
Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải Nữ-nhi đến mãi núi Kì-cấp hơn 100 dặm, chỗ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy quân-sĩ đều xôn-xao sợ-hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm quan quân đuổi theo và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo lỗ Xích đi đoạn hậu.
A bát Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên thuốc độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ chết thây nằm ngổn-ngang từng đống. Còn Trình bằng Phi hết sức giữ-gìn Thoát Hoan chạy ra Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư-minh.
Áo lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả các tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn tướng Nguyên bị bắt là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù ở trước Chiêu-lăng.
Nhân thấy giang-sơn lại được như cũ, Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để làm kỷ-niệm:
Xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch nôm:
Xã-tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng.
Về đến Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân-sự mở hội vui-vẻ ba ngày, gọi là Thái-bình diên-yến.
Đại Việt lại một lần nữa đẩy lui được cuộc xâm lăng của Nguyên Mông. Sau này, giữa nhà Trần và nhà Nguyên không phát sinh thêm cuộc chiến tranh nào và đây được sử sách nhìn nhận là cuộc chiến cuối cùng giữa hai bên

Tương quan Lực Lượng
Theo Nguyên sử, quân số bên Nguyên tham chiến lần này gồm 7 vạn quân Mông Cổ và Hán của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, 1.000 quân nhà Nam Tống cũ đầu hàng theo Nguyên, 6.000 quân của Vân Nam, 15.000 quân người Lê ở Hải Nam, ngoài ra còn quân người dân tộc ở Quảng Tây. Số quân mà Nguyên sử ghi là 92.000, chưa tính số quân người Choang không được ghi rõ. An Nam chí lược ghi tổng số quân là 10 vạn, nhưng khi vào đến Đại Việt hội binh thì lại ghi có 50 vạn. Đại Việt sử ký Toàn thư ghi số quân Nguyên là 50 vạn. Về thủy quân, quân Nguyên có 700 thuyền chiến mới đóng cùng 120 thuyền chiến của Hải Nam đều đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. 100 thuyền vận tải chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy đi cùng Ô Mã Nhi.
Phía Đại Việt đã tiến hành tổng động viên. Lần này chỉ huy tối cao là Trần Nhân Tông. Tướng chỉ huy chung là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tổng số quân Trần khoảng trên 30 vạn.
Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, chỉ trừ những người từng hàng quân Nguyên đều không được đại xá. Nhiều tù nhân được ra tình nguyện tòng quân ra mặt trận để báo ơn.

Định công phạt tội

Quan Binh Trần
Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông xét công lao các tướng sĩ trong trận thắng quân Nguyên. Các tướng Trần Quốc Tuấn được phong đại vương, Trần Quốc Nghiễn phong Khai quốc công, Trần Quốc Tảng phong Tiết Độ Sứ; Đỗ Khắc Chung được ban họ vua; Nguyễn Khoái được phong Liệt hầu và 1 hương (xã) được mang tên ông, gọi là Khoái Lộ; Phạm Ngũ Lão được phong Dực Thánh quân. Các tù trưởng người Mường Tày, Dao, Thái đều được phong chức phục hầu.
Ngoài ra, Trần Nhân Tông còn phong cho tông thất có công, như con cháu Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trấn thủ các vùng thượng du.
Xét tới những người từng theo hàng quân Nguyên khi quân Nguyên đang mạnh, quan viên phạm tội thì xử tử hoặc bắt đi đày, còn quân dân thì đều miễn tội. Trần Ích Tắc theo nhà Nguyên, bị đổi gọi là Ả Trần (ý nói nhát như đàn bà), Trần Kiện và Trần Văn Lộng tuy đã chết nhưng con cháu cũng bị tịch thu gia sản và đổi sang họ Mai.
Khi quân Nguyên thua chạy, bỏ lại một tráp công văn. Quân Trần bắt được, có nhiều giấy tờ của các quan lại tư thông với quân Nguyên. Đình thần muốn mang đối chiếu để trị tội, nhưng thượng hoàng Trần Thánh Tông làm theo gương Hán Quang Vũ Đế, cho rằng trị tội kẻ tiểu nhân cũng vô ích, rồi sai đốt hết đi.
Tướng Mông Cổ
Các viên đầu mục người Mông bị bắt được tha về. Những tướng người Hán bỏ hàng ngũ Mông Cổ theo Đại Việt được nhà Trần chấp thuận, cấp đất cho sinh sống.
Riêng Ô Mã Nhi, sử cũ của Việt Nam cho rằng: vì Ô Mã Nhi khoẻ mạnh, dũng mãnh và tàn ác, giết hại nhiều người Việt và phá lăng vua Trần, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện ý định ám sát để ngừa hậu hoạ. Ông cấp thuyền cho Ô Mã Nhi trở về, nhưng lại sai người (có thuyết cho là Yết Kiêu) sung làm phu chèo thuyền và nhân lúc đêm tối dùi thuyền thủng cho đắm. Ô Mã Nhi bị chết đuối. Trần Nhân Tông gửi thư sang nói với Hốt Tất Liệt rằng thuyền bị rỉ nước nên đắm. Nhà Nguyên không thể tra cứu việc đó nên buộc phải lờ đi, không trách cứ . Nguyên sử chép lại bức thư của vua Nhân Tông gửi vua Nguyên về việc này:
"Tham chính Ô Mã Nhi theo kỳ định đã về sau. Chẳng may đêm đến, thuyền rỉ nước, tham chính tầm vóc cao lớn lực lưỡng, khó bề cứu vớt, mới nỗi phải chết chìm; người chở thuyền của tiểu quốc vì vớt ông ấy, cũng đều phải chết cả. Thê thiếp và tiểu đồng của Tham chính cũng suýt chết đuối, may vì mình mẩy bé nhẹ nên mới cứu được..."
Có ý kiến cho rằng Ô Mã Nhi đã bị giết trong trận Bạch Đằng và vụ ám sát do Nguyên sử đặt ra để cho nhà Trần là hẹp lượng. Một căn cứ là sau này trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
Sông Bạch Đằng giết toi Ô Mã (Mã Nhi hựu ế ư Bạch Đằng hải) .
Vụ giết Ô Mã Nhi bị một số sử gia Ngô Sĩ Liêm, Ngô Thì Sĩ coi là "thất tín", còn Trần Trọng Kim đồng tình với Tự Đức coi là "bất nhân phi nghĩa". Các sử gia hiện đại của Việt Nam thì cho rằng: tuy không phải đáng khen nhưng không có gì đáng chê trách, mạt sát cả. Đó là sự trả giá của Ô Mã Nhi với người Việt. Riêng Lê Văn Siêu phản đối nhận định của Tự Đức gay gắt hơn trong việc này:
"Vua Tự Đức chê [việc này] là bất tín bất nghĩa... Nhưng sao đế vương ngài chẳng đem cái ý niệm đạo đức ấy mà soi vào việc tổ phụ ngài là Nguyễn Ánh đã xử tử tế như thế nào với di hài của Quang Trung? Còn đây là tướng giặc, đã từng giết thác (chết) bao nhiêu người, từng đuổi ngặt vua và thượng hoàng, lại từng phá lăng miếu tổ tiên người ta..."
Phàn Tiếp lo buồn thành bệnh qua đời ở Đại Việt, Trần Nhân Tông sai hoả táng và cấp người ngựa cho vợ con mang xác về nước. Có ý kiến cho rằng Phàn Tiếp cũng bị giết lén cùng Ô Mã Nhi.
Hoàng thân Tích Lệ Cơ cùng các tướng người Mông khác được trở về nước tháng 2 năm 1289.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét