Thứ Năm, 6 tháng 2, 2014

Xuân Đán - Chu Văn An


Cùng Bạn,
 Chuyển đến bạn một bài phỏng dịch  Xuân Đán của Chu văn An , đọc cho vui vài giây phút đầu Xuân .Mời Bạn tham gia cùng dịch để vui thêm .
Cám ơn
Mailoc

             XUÂN ÐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật hàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như tuý
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lảnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
                                    Chu Văn An *
               SỚM MAI  ĐẦU  XUÂN
          Ngày nhàn hạ trên non lều vắng ,
      Cửa trúc phên nghiêng chắn gió hàn .
              Trời trong cỏ biếc ngút ngàn ,
     Hồng dầm sương sớm chưa tan lệ tràn .
         Thân tựa mây núi ngàn lưu luyến ,
        Sóng lòng như giếng cổ lặng căm .
          Hương phai trà nguội khói tan ,
  Chim kêu trong suối mộng tàn giấc Xuân .
                                      Mailoc phỏng dịch
                               Cali mùng 4 Tết Giáp Ngọ

(*)Chu Văn An người làng Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm ( Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông). Ông là một nhà Nho học đạo đức. Vua Trần Minh Tôn dùng vào chức Quốc Tử Tư Nghiệp, dạy Thái Tử. Ðến triều vua Dụ Tôn, ông dâng sớ xin chém đầu 7 tên nịnh thần, vua không nghe, ông từ quan về ở ẩn núi Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn .
-------
 
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :

1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :
        春旦                              XUÂN ĐÁN 
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch sơn gia trấn nhật Nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉, Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
紅濕花梢露未乾。 Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
身與孤雲長戀岫, Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
心同古井不生瀾。 Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
柏薰半冷茶煙歇, Bách huân bán lảnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn
                朱文安                                  Chu Văn An

2. Dịch Nghĩa :
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cú mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.


3. DIỄN NÔM :

Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !

                                        Đỗ Chiêu Đức.
Chú Thích :
Theo tôi nghĩ, chữ YÊN trong câu 7 có nghĩa là thuốc hút chớ không phải KHÓI.
------

 
Đầu năm góp vui ít vần

(Dịch thơ Tàu hoài cũng chán, cám ơn anh Lộc đã tìm được cho một tí xuân dân tộc dù đây là thứ "xuân vào núi trùm mền").

                Xuân Sớm

Vắng tanh sơn ốc, suốt ngày nhàn, 
Rèm trúc treo nghiêng cũng đỡ hàn. 
Thắm biếc cỏ màu, trời tựa xỉn, 
Đượm hồng hoa chỏm, sương chưa tan. 
Thân như mây nổi, cùng ưa núi, 
Tâm giống giếng xưa, chẳng gợn làn. 
Sắp hết củi thông, trà hết khỏi, 
Tiếng chim bên suối, mộng xuân tàn. 
                                      Danh Hữu dịch
 Cùng anh Đức,
Câu bảy theo tôi là để diễn tả cái ý :
Củi thông dùng để đốt đã cháy gần hết, khói trên ấm trà cũng đã hết bay lên.
Yên đây là khói của ấm trà.
-----------
Tôi đồng ý với bạn Đỗ chiêu Đức : Yên ở đây là thuốc hút .
Xin góp bản dịch cùng các bạn :

              SỚM XUÂN

Ở núi buồn hiu người nhẹ bỗng
Cổng tre cọt kẹt gió chênh chông
Trời nghiêng cỏ biếc say xuân sắc
Một đóa hồng nhung sương phủ hồng
Thân dạt góc trời mây tâm sự
Lòng ta đã cạn , sóng nào rung
Củi tàn , hơi lạnh , thuốc trà hết
Chim núi kêu xui lạnh cõi lòng
                               C.D.M.     
-------
 Kính thưa Thầy Cô Anh Chị,
 
Quên Đi có nhận xét thế này 
"Bách huân bán lảnh trà yên yết"  (Mùi hương từ củi thông đã nhạt, và khói trà cũng hết.)
 Nếu nghĩ thoáng một cách nôm na:  bếp lửa bằng củi thông đã cháy già nửa, hơi nóng đã giảm nhiều, vì chủ nhân đã đi nghỉ từ lâu, không pha thêm trà. Do đó trà không còn lên khói.
Như vậy chữ "yên" ở đây không thể là khói thuốc.
 
Quên Đi xin dịch :

Nhà vắng trên non ngày tháng rảnh
Trúc rèm nghiêng cản bớt hơi đông
Trời như say cỏ đang màu biếc
Hoa ẩm sương đêm dưới ánh hồng
Mây lẻ cùng ta lưu luyến núi
Lòng như mặt giếng lặng hư không
Hương tùng gần lụn trà vừa hết
Chim báo xuân sang tỉnh giấc nồng.
                                          Quên Đi

Bổ Sung:

Vài lời nói lại : 
Cùng các bạn đã có ý kiến về chữ Yên ở câu bảy bài thơ. 
Tôi xin lưu ý quí bạn là : Tiếng Việt thì xưa nay, từ Yên không hề có nghĩa là để chỉ thuốc hút kể cả ở tiếng Hoa từ nhà Thanh trở về trước (Tự điển Khang Hy của nhà Thanh không hề có ghi nghĩa này).
 Các loại thuốt hút ở tiếng ta, như thuốc vấn, thuốc lào sở dĩ gọi bằng thuốc là do tổ tiên xưa muốn nhắc nhở người dùng là phải coi chừng, xử dụng nó như là "uống thuốc" vậy, thuốc mà dùng quá liều lượng thì dù uống hay hút cũng đều có hại cả. 
Chữ Yên với nghĩa thuốt hút ở tiếng Hoa chỉ mới có từ giữa thế kỷ 19, khi phát sinh trận giặc Nha phiến giữa Anh và Hoa năm 1840, người Tầu gọi Yên để chỉ loại thuốc ngoại nhập : bao thuốc lá và Thuốc phiện (bao yên và nha phiến yên 包煙與鴉片煙), và gọi hút thuốc đó là Ăn khói (吃煙) coi như đó là ăn một thứ phù phiếm, như ta nói : của nả biến thành mây khói vậy, là một từ chê bai ban đầu nhưng dùng riết thành thói quen.

Bài thơ này là của Chu Văn An , ông là một thi gia Việt sống cách thời chúng ta những hơn 6 thế kỷ và tất nhiên chữ ông dùng không hề bao giờ lại ở nghĩa chỉ "thuốc để hút" cả.

Thân chào 
Danh Hữu 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét