Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Hàm Dương Thành Đông Lâu - Hứa Hồn


  Hàm Dương Thành Đông Lâu của Hứa Hồn, bài thơ nhắc đến kinh đô nước Tần.
      Kinh đô Hàm Dương của nước Tần nằm ở phía Nam của núi Cửu Trọng, phía Bắc của dòng Vị Thủy, cả núi lẫn sông đều vượng dương khí, vì vậy nơi đây mới có tên là Hàm Dương.

 


      Nằm dưới chân ngọn núi Cửu Trọng tráng lệ và hùng vĩ, bình nguyên Tần Xuyên dài 800 dặm mênh mang, lúc ẩn, lúc hiện. Thành cổ Hàm Dương nằm ngay trong lòng của bình nguyên Tần Xuyên rộng lớn ấy. Vùng đất này có sản vật phong phú, đất đai màu mỡ, là nơi phát tích ra 12 vương triều Chu, Tần, Hán, Tùy, Đường,…

      Trên bình nguyên Tần Xuyên rộng lớn, có một dòng sông Vị Hà(Sông Vị Thuỷ) chảy xuôi xuống phía Nam, tạo nên sự phong phú cho long mạch vùng đất Hàm Dương. Sông Vị Hà là nhánh lớn nhất của dòng Hoàng Hà, con sông lớn nhất Trung Hoa. Chính vì vậy, có thể nói sự giàu có của Hàm Dương nhờ một phần rất lớn vào dòng sông này.

      Ngày nay, Hàm Dương là một trong chín Huyện Thị cùng Thành Phố Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây ở miền bắc Trung Hoa.

- 蒹 葭 kiêm hà : là loại lau sậy.

 - Châu 洲 có bộ thuỷ đứng trước có nghĩa cồn bãi sông               
- Châu 州 không có bộ thuỷ có nghĩa là một đơn vị hành chính.
Như thế chữ Châu trong bài có nghĩa là bãi sông hay cồn đất trên sông chớ không phải là đơn vị hành chính.

- 汀 洲 đinh châu : có nghĩa là cái doi, dãy đất nhô ra, ló ra ngoài sông , chớ không phải  "Thinh Châu" thuộc tỉnh Phúc Kiến ở bờ biển đông nam Trung Hoa, vì các địa danh của tỉnh Phúc Kiến không liên quan đến bài thơ này.

蒹     葭  楊      柳 似  汀    洲
Kiêm hà dương liễu tự đinh châu

      Thời gian vẫn trôi, mọi vật không còn giữ mãi dáng vẻ ban đầu. Vườn thượng uyển nhà Tần, cung điện lộng lẫy thời Hán rồi cũng trở nên hoang vu tĩnh mịch. Tất cả rồi cũng đổi thay, đó là nguyên lý bất di bất dịch. cũng như tất cả các dòng sông đều phải chảy về biển cả.

    

     咸陽城東樓                    HÀM DƯƠNG THÀNH ĐÔNG LÂU
                     許渾                                                          Hứa Hồn.


    一上高樓萬里愁,              Nhất thượng cao lâu vạn lý sầu,
    蒹葭楊柳似汀洲,              Kiêm hà dương liễu tự đinh châu,
    溪雲初起日沉閣,              Khê vân sơ khởi nhật trầm các,
    山雨欲來風滿樓。              Sơn vũ dục lai phong mãn lâu.
    鳥下綠蕪秦苑夕,              Điểu hạ lục vu Tần uyển tịch,
    蟬鳴黃葉漢宮秋,              Thiền minh hoàng diệp Hán cung thu,
    行人莫問當年事,              Hành nhân mạc vấn đương niên sự,
    故國東來渭水流。              Cố quốc đông lai Vị Thủy lưu.

Dịch nghĩa: Nơi Lầu Đông Thành Hàm Dương

Một lần lên lầu cao, nhìn quanh những cảnh từ xa, xa ngàn dậm gợi lên nỗi buồn
Đám lau cùng dương liễu mọc đầy trên doi đất ở bờ sông
Hơi nước từ khe suối bắt đầu bốc lên thì mặt trời cũng khuất sau các căn gác
Mưa vùng núi sắp qua thì gió cũng bao kín lầu
Lũ chim đáp xuống cây cỏ xanh hoang dại khi chiều xuống vườn hoa của nhà Tần
Ve kêu trong đám lá vàng lúc vào thu nơi cung điện nhà Hán
Khách đi qua chớ hỏi chuyện ngày xưa đó nữa
Đất nước xưa kia đã theo dòng Vị Thuỷ chảy về đông.

Dịch Thơ:

Lên lầu vạn mối sầu vương mắc
Liễu rũ lau gầy khắp bãi hoang
Mây suối nổi vầng dương khuất gác
Mưa non qua gió phủ lầu vàng
Vườn Tần đến tối chim nương náu
Cung Hán vào thu ve thở than
Chuyện cũ bao năm người chớ hỏi
Quê xưa hoà lẫn nước trường giang

                                        Quên Đi

  
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét