Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Điểu Minh Giản - Vương Duy




   Bài thơ ngắn tuyệt vời của Vương Duy, diễn tả tiếng động trong sự im lặng của núi rừng thanh vắng về đêm. Chỉ  những ai có một tâm nhàn tuyệt đối mới có thể nghe được tiếng hoa quế rụng thật khẽ, đầy cảm xúc.

          鸟鸣涧           Điểu Minh Giản

    人闲桂花落      Nhân nhàn quế hoa rụng
    夜静春山空。   Dạ tĩnh thanh sơn không
    月出惊山鸟     Nguyệt xuất kinh sơn điểu
    时鸣春涧中。   Thời minh tại giản trung .
               王维                    Vương Duy
    

    Dịch Nghĩa:
 

    Chim Kêu Trong Khe

    Người thảnh thơi hoa quế rụng
    Đêm im lặng , non xanh vắng không
    Ánh trăng ló lên làm chim núi giựt mình
    Thỉnh thoảng cât tiếng kêu trong khe suối

    Dịch thơ:
         (1)
    Thư thái , lắng lòng , tiếng quế rơi ,
    Đêm im , núi biếc , trời cao vời .
    Trăng nhô chim núi bỗng kinh hãi ,
    Thỉnh thoảng khe sâu quác vang trời .
                        
         (2)
    Lòng nhàn, hoa quế rơi thật rõ ,
    Đêm lặng yên , núi tỏ trời quang .
    Trăng nhô , chim núi kinh hoàng ,
    Lâu lâu  trong suối quác vang lạnh lùng .
                                       Mailoc phỏng dịch

   * * *     
      Đọc bài thơ Điểu Minh Giản của Vương Duy, Quên Đi có cảm giác tác giả đã sử dụng Tĩnh để nói lên cái Động, dùng cái Động để nói về cái Tĩnh.Có phải đây chính là "Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc".

Đọc câu:"Nguyệt xuất kinh sơn điểu",( Trăng lên chim núi giựt mình hoảng sợ Quên Đi chợt nhớ đến câu thứ nhất trong bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc" của Trương Kế.

Nguyệt lạc ô đề..(Trăng lặn quạ kêu...).

Một đằng thì Trăng mọc, còn một đằng thì Trăng lặn không một tiếng động, chỉ có ánh sáng xuất hiện và biến mất, đều đưa đến một kết quả là lũ chim thức giấc.

Một cánh hoa Quế nhỏ nhoi , khi rụng thì làm sao nghe được?  Phải chăng tác giả không dùng tai mắt để nghe thấy mà dùng tâm để nhận biết.

Tất cả chỉ là Thiền, chỉ là sự Tĩnh Lặng. 

      Khe Chim Kêu

Tâm bình hoa rụng biết 
Đêm tĩnh núi đìu hiu 
Trăng mọc chim kinh sợ 
Giữa khe vẳng tiếng kêu 
                           Quên Đi
 

* * *  
             Chim Kêu Khe Núi
      Hoa Quế rụng , người thiền mới rỏ 
          Đêm im lìm , núi tỏ trời cao 
          Trăng lên, chim sợ lao xao 
Từng hồi tiếng quác rì rào trong khe.
                                        Song Quang
                                                Chú Thích :
             * Giản : Khe suối chảy giữa 2 vach núi.
             * Nhàn : Ngoài nghĩa là Rảnh rổi ra, còn có nghĩa là Yên Tĩnh.
             * Quế Hoa : Có 2 loại, một nở ở mùa Xuân, một ở mùa Thu.
             *.Xuân sơn KHÔNG : Chữ không ở đây chỉ sự vắng lặng, Không một tiếng động tạp nhạp nào, chớ không phải Không Có Gì, Vì núi xuân lúc nào hoa cỏ cũng xanh om tươi tốt.
             * Kinh : Ngoài nghĩa SỢ  như Kinh Hãi, Kinh Tâm... ra , KINH còn có nghĩa là GIẬT MÌNH như Kinh động, NGẠC NHIÊN như Kinh Kỳ 驚奇, có nghĩa : Lấy làm lạ . Trong bài thơ có nghĩa là Kinh Động : Giật mình.
             * Thời : Ở đây có nghĩa là Bất Thời 不時: tức Thỉnh Thoảng.

 

       Diễn Nôm


Chim Kêu Trong Khe Suối

Nhẹ nhàng hoa quế rụng,
Núi xuân lặng như tờ.
Chim giật mình trăng mọc,
Oang oác giữa khe mờ !


           Lục bát :

       Nhẹ nhàng hoa quế rụng rơi,
Núi xuân vắng lặng khắp nơi im lìm.
    Giật mình trăng mọc tiếng chim,
Oang oang suối vắng lặng im như tờ !

                                    Đỗ Chiêu Đức.

* * *

Chim Hót Lòng Khe

Lặng nhìn cánh quế rụng
Đêm vắng xuân về đâu
Trăng mọc ngời đầu núi
Chim kêu lừng giản sâu

Tri Khac Pham
                                   
* * *

Người ở ngưng, quế rụng bông, 
Đêm tĩnh lặng, núi xuân không 
Trăng xuất hiện, chim kinh hãi 
Vang dội kêu giữa non xuân
                  Phạm Thảo Nguyên
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét