Từ xưa đến nay, các nhà thơ có cảm xúc với một bài thơ nước ngoài nào, thường nảy sinh cảm hứng dịch ra bài thơ đó. Có thể do xuất phát từ nguồn cảm hứng, nên việc dịch thơ chưa có một nguyên tắc hay quy định nào rõ ràng. 
 Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta tùy tiện. Theo cá nhân tôi, một bài thơ dịch tương đối toàn vẹn, phải cần có những điều căn bản và có thể xem đó là quy ước phải tuân theo như sau : 
1 - Hiểu đúng : 
 - Người dịch cần phải tìm hiểu thật kỹ lưỡng, cặn kẽ từng chữ, từng câu trong bài thơ. 
 - Phân tích, suy nghiệm hầu cảm nhận cái thần, cái ý của tác giả. Đồng thời nắm được cái hay, cái đẹp của bài thơ nguyên tác.
2 - Chính xác : 
 Sau khi đã hiểu được ý của bài thơ, người dịch phải trung thành với ý thơ nguyên tác, phải dịch đúng ý tưởng, đúng cảm nghĩ và đúng với tư duy của tác giả. 
3 - Tao nhã : 
 Thơ dịch phải có vần điệu, âm thanh du dương, trầm bổng và tao nhã, để có thể lôi cuốn và làm rung động lòng người đọc. 
 Tuy vậy, một bài thơ dịch không hề bắt buộc giữ đúng với thể loại của bài thơ nguyên tác. Bài thơ nguyên tác là Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú chẳng hạn thì người dịch có thể dùng thể Lục Bát hay thể Thơ Mới...Ngoài ra, đôi lúc dịch thơ có thể tự do trong sử dụng từ ngữ, nhưng không làm lệch ý của nguyên tác và tương đối đạt ba điều được nêu ở bên trên.
 Thí dụ 1: Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ 
Thú cổ đoạn nhân hành, 
Thu biên nhất nhạn thanh. 
Lộ tòng kim dạ bạch, 
Nguyệt thị cố hương minh. 
Hữu đệ giai phân tán, 
Vô gia vãn tử sinh. 
Ký thư trường bất đạt, 
Huống nãi vị hưu binh. 
                                             Đỗ-Phủ
        Bản Dịch 1
Hồi trống quân canh người ngại bước 
Kêu thu quan ải nhạn bi thương 
Sương mờ mốc trắng đêm nay phủ 
Trăng vẫn ngời soi sáng cố hương 
Có những em trai giờ tứ tán 
Không nhà sống chết biết sao tường 
Thư thường xuyên gởi đều chưa được 
Chinh chiến bao lâu thật khó lường
        Bản Dịch 2 
Tiếng trống đồn quân cản bước đi 
Chim nhạn kêu thu chốn biên thuỳ 
Đêm nay sương mốc rơi rơi trắng 
Quê cũ giờ này vẫn sáng trăng 
Những đứa em trai đều thất lạc 
Sống chết không nhà biết hỏi ai 
Thư vẫn gởi thường nhưng chẳng tới 
Huống hồ chinh chiến vẫn chưa ngưng 
         Bản Dịch 3 
Trống đồn dồn dập chân chùn lại 
Biên ải thu buồn tiếng nhạn thưa 
Sương mốc đêm nay rơi trắng xoá 
Trăng già vẫn chiếu sáng quê xưa 
Em trai bao đứa đều lưu lạc 
Sống chết tin nhà cũng vẫn chưa 
Thường gởi thư đi nhưng khó đến 
Bao giờ ngưng chiến hỏi chi thừa 
                                                                         Quên Đi 
 Bài thơ " Nguyệt Dạ Xá Ức Đệ " của Đỗ Phủ được viết theo thể Ngũ ngôn Bát Cú Đường Luật, nhưng khi dịch, không cần phải theo thể thơ nguyên tác. Trong ba bài dịch của Quên Đi, bài 1 và 3 dịch theo thể Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú, còn bài dịch 2 theo thể thơ Thất Ngôn Cổ Phong.
Thí Dụ 2 : Ô Y Hạng 
Chu Tước kiều biên dã thảo hoa, 
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà. 
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến, 
Phi nhập tầm thường bách tính gia. 
             Ngõ hẻm Ô Y
          Dịch thơ 1 
Chu Tước bên cầu hoa cỏ hoang 
Ô Y cửa ngõ ánh chiều vàng 
Trước quen gác tía nơi Vương Tạ 
Nay én hoà mình với thế gian 
      Dịch thơ 2 
Chu Tước cầu 
 Hai bên đầy cỏ dại
 Hẻm Ô Y
 Bóng xế cảnh chiều tà
 Trước có hai nhà Vương Tạ
 Thuộc giống dòng quyền quý cao sang
 Trong cảnh lầu son én sống an nhàn
 Qua năm tháng
 Bao vật đổi sao dời
 Đâu rồi cuộc sống thảnh thơi 
Lìa nhung gấm én sống hoà cùng trăm họ 
                                                Quên Đi 
Bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Tích Vũ là bài thơ Tứ Tuyệt Đường Luật, khi dịch chúng ta không cần phải dùng thể Thơ Đường Luật như Nguyên Tác (Bài dịch 2).
Chú thích: Ô Y nghĩa là áo đen. Xưa đời nhà Tấn trung hưng, họ Vương, họ Tạ là hai nhà quyền quý vinh hiển nơi đó, các con em đều mặc áo đen, nhân vậy mới có tên Ô Y. 
Huỳnh Hữu Đức 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét