Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

Hùng Ca Sử Việt 1 : Mai Hắc Đế ( Biên Khảo)




Nơi vùng quê Mai Phụ, Thạch Hà thuộc Hà Tĩnh, có người thiếu nữ không chồng mà lại có con. Tục truyền, người đàn bà nghèo khó nầy đến xem nấu muối, bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình rồi mang thai. sanh ra đứa con có nước da đen đúa đặt tên là Mai Thúc Loan.  Mai Thị và con là Mai Thúc Loan nghèo lắm, bà phải đi làm mướn cho nhà giàu và kiếm củi nuôi con.
         Đã thế, cậu bé lại chịu tiếng xấu là con không cha và nước da đen sạm xấu xí. Nhưng Mai Thúc Loan cũng sớm bộc lộ thiên tư thông minh, sáng ý kỳ lạ và có sức khỏe tuyệt vời. Lớn lên, Mai Thúc Loanphải làm lụng, lo toan giúp mẹ đủ việc. Chú bé hết đi làm mướn cho bọn hào phú lại theo mẹ vào rừng kiếm củi.
         Rồi một tai nạn khủng khiếp xảy ra giữa buổi hai mẹ con đi kiếm củi trong rừng sâu. Khi nghe tiếng kêu thét của mẹ, kịp đến thì mẹ đã chết gục bên vũng máu cạnh một con hổ lớn đang gầm gừ, quần đảo cán xé man rợ. Hờn căm ngút trời, Mai Thúc Loan xông vào đánh nhau với mãnh thú, buộc con vật đang say mồi, hung tợn phải bỏ chạy.
          Từ đó, Mai Thúc Loan sống cuộc đời mồ côi, cày thuê ở mướn cho các hộ trong làng. Nhà nghèo, Mai Thúc Loan không được học hành mà chỉ học lõm để biết chữ, hiểu nghĩa sách. Đến khi khôn lớn trưởng thành, Mai Thúc Loan là một chàng trai có sức khỏe phi thường. Thúc Loan là đô vật lừng danh, từng ăn giải cạn ở nhiều nơi (Không ai dám vào thi đấu) Theo phường săn học hỏi rồi trở thành thợ săn lành nghề, nhiều lần Thúc Loan giết được chúa sơn lâm khiến dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi người suy tôn Mai Thúc Loan làm chức "Đầu phu", thủ lĩnh quân sự địa phương của làng.
         Châu Loan ngày ấy luôn bị giặc Chà Và (Java),  Mã Lai cướp phá, nhất là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ. Đặc biệt, nạn cống " quả lệ chi" (quả vải) là một gánh nặng khôn cùng đối với người dân Hoan Châu.? (*)
         Nguyên do, ở Trường An, vua Đường có một nàng ái phi, thường gọi là Dương Quý Phi nhan sắctuyệt vời mà tính tình cũng thật thất thường. Dương Quý Phi thích ăn quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An Nam mới có.? (**)
         Mùa vải năm Nhâm ngọ (722), Mai Thúc Loancùng đoàn phu phải gánh vải đi nộp cống. Đoàn người gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn lê từng bước chân trên đường. Gần trưa, Mai Thúc Loan cho mọi người nghỉ chân ở bên rừng. Cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu. Một dân phu có tuổi bứt lấy một quả vải ăn cho đỡ khát. Quả vải chưa kịp đưa lên miệng đã bị một tên lính Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào đầu. Không thể dằn được, khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già, thì hắn đã bị Mai Thức Loan đánh chết. Sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bọn giặc cậy có binh khí hò hét vung đao, kiếm xông vào Mai Thúc Loan. Nhưng những người dân phu theo lệnh Mai Thúc Loan, đã rút đòn gánh chống lại. Lũ giặc không địch nỗi đoàn dân phu đều phải đền tội.
         Đánh tan lũ giặc Đường trong một cơn phẫn nộ, Mai Thúc Loan lập tức thổi bùng khí thế vụ bạo động thành một cuộc dấy nghĩa. Vị thủ lĩnh trẻ được tôn thành vị anh hùng, đã hiệu triệu trăm họ hưởng ứng nghĩa lớn và chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn làm căn cứ. Không để cho giặc rảnh tay, Mai Thúc Loan quyết định ra quân trước, đánh thẳng vào Châu trị (nơi đặt bộ máy của một châu) mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa. Mai Thúc Loan đã phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi mọi người Việtđứng lên gìn giữ non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An.
          Là vùng rừng núi rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét. Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào thiên nhiên. Bao quanh khu trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biểu Sơn (hình quả bầu), bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thủy bộ.
         Từ đây, tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường. Trước khi tiến đánh phủ đô hộ, ngoài Giao Châu, Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi Hoàng đế gọi là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai). Và, chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình (Hà Nội) , đuổi tên quan đô hộ Quách Sở Khách tháo chạy về nước, lấy lại giang sơn.
                                   
         Đuổi giặc Đường ra khỏi đất nước, người dân khắp nơi nô nức theo Mai Hắc Đế, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người. Nhưng lúc này nhàĐường còn mạnh. Vua Đường huy động 10 vạn quân ồ ạt theo đường hiểm đánh ập vào thành Vạn An. Không đương nổi đội quân xâm lược hung hãn, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất đến nay không có tài liệu nào ghi ngày mất của Mai Hắc Đế. Nghĩa quân tan vỡ. Quân Đường tàn sát nhân dân ta vô cùng dã man, xác người chết đắp thành gò cao. Tội ác tầy trời này của giặc chỉ làm tăng thêm làng căm thù của nhân dân nước Việt. Hiện nay ở thung lũng Hùng Sơn (Rú Đụn) còn lăng mộ cha con Mai Hắc Đế. Dân chúng nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ, đề thơ ca tụng người anh hùng:
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
         Từ thời điểm đánh chiếm châu Hoan lên ngôi vua, củng cố lực lượng, Mai Thúc Loan đã giành lại toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713-722) , chớ không phải cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo nổ ra và bị dập tắt ngay trong cùng một năm 722 như các tài liệu phổ biến hiện nay?                                   
        Tương truyền, con trai thứ ba của ông là Mai Thúc Huy  lên ngôi Hoàng Đế tức Mai Thiếu Đế và tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723        
        Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa này, nhà Đường không bắt dân An Nam đô hộ phủ nộp cống vải quả hằng năm nữa
                                   
                                                     Lăng mộ vua Mai Hắc Đế

(*) Việc gánh vải cống nạp cho vua Đường là một chi tiết không chính xác?(Dưới đây chỉ là 1 giả thuyết)
          Một là, vùng Hoan Châu từ  xưa đến nay chưa bao giờ có vải ngon. Vải  ở đây hạt to, cùi mỏng rất chua, vậy làm sao có  thể làm vật phẩm tiến vua được. Chưa tìm ra được tài liệu nào nói rằng ngày
xưa vải của Hoan Châu ngon nổi tiếng đến mức cáchậu, phi nhà Đường cũng phải thèm, bắt phải cống nộp.
          Hai là, từ Hoan Châu sang Kinh đô Tràng An nhà Đường, đường đi hàng vạn dặm, gánh vải đi bộ mấy tháng trời mới tới nơi. Mà vải chín lại rất mau hỏng, ngày hôm sau đã thối, làm sao mà đem đến tận Kinh đô Tràng An bằng hình thức gánh đi bộ.
          Tóm lại, Mai Hắc Đế là  một vị anh hùng dân tộc. Vào thế kỷ thứ VIII, do chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của các quan lại nhà Đường, ông đã đứng lên vận  động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập về cho dân tộc. Cuộc khởi nghĩa của ông, cũng như của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế trước ông và của Phùng Hưng, của cha con họ Khúc sau ông, phản ánh ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc  ta, quyết không chịu đem thân làm nô lệ cho ngoại bang.

(**) Các tác giả khi viết về  Mai Hắc Đế thường đưa chi tiết do Dương Quý Phi thèm quả vải (Trung Quốc gọi là lệ chi) nên vua Đường Minh Hoàng bắt An Nam phải sang cống vải.??? Thật ra thì Dương Quý Phi về làm Phi của Đường Minh Hoàng vào năm 745, năm đó bà ta mới 22 tuổi. Như vậy, suy ra bà ta sinh vào năm 723. Mai Hắc Đế đã mất trước khi Dương Quý Phi được sinh ra ở trên đời (722), vậy làm sao có chuyện cống vải để phục vụ ý thích của bà Phi này mà đó lại là lý do nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai ThúcLoan! (theo Lê Mạnh Chiến)
Chú Thích: Theo ý kiến của chúng tôi: Việc cống vải có thể có, nhưng không thể cho phu khuân vác từ Châu Hoan đến tận Trường An kinh đô Nhà Đường, mà chỉ đến một trạm nào đó như ở Long Biên hay vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông) chẳng hạn

                                  
                                                    Khu Di Tích Mai Hắc Đế
Bối Cảnh Lịch Sử (trích Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim)
         Năm giáp-thân (264) là năm Nguyên-hưng nguyên-niên, vua nhà Ngô lại lấy đất Nam-hải, Thương-ngô và Uất-lâm làm Quảng-châu 廣州, đặt châu-trị ở Phiên-ngung 番禺; lấy đất Hợp-phố, Giao-chỉ, Cửu-chân, và Nhật-nam làm Giao-châu 交州, đặt châu-trị ở Long-biên 龍編. Đất Nam-Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao-châu và Quảng-châu từ đấy.
         Đất Giao-châu đời bấy giờ cứ loạn-lạc mãi, những quan-lại nhà Ngô thì thường là người tham-tàn, vơ-vét của dân, bởi vậy người Giao-châu nổi lên giết quan thái-thú đi rồi về hàng nhà Ngụy. Năm ất dậu (256) nhà Tấn 晉cướp ngôi nhà Ngụy, rồi sai quan sang giữ Giao-châu. Nhà Ngô saiĐào Hoàng 陶璜 sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao-châu-mục. Năm canh-tí (280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về hàng nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao-châu từ đó thuộc về nhà Tấn. Những quan lại sang cai-trị cũng như quan-lại đời nhà Hán, nhà Ngô, thỉnh-thoảng mới gặp được một vài người nhân-từ tử-tế, thì dân-gian mới được yên-ổn, còn thì là những người tham-lam, độc-ác, làm cho nhân dân phải lầm-than khổ-sở. Cũng lắm khi bọn quan-lại có người phản-nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn-lạc luôn.
        Trong thời Nam Bắc-triều bên Tàu, đất Giao-châu không được mấy khi yên-ổn, vì quan Tàu sang cai-trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn, cũng muốn tìm cách để độc-lập, bởi vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.
                                   
                                               Hình ảnh minh hoạ Lý Nam Đế
         Đời nhà Lương lại sai Tiêu-Tư 蕭諮sang làm thứ-sử Giao-châu. Tiêu Tư là một người tàn-bạo, làm cho lòng người ai cũng oán-giận. Bởi vậy ông Lý Bôn  李賁mới có cơ-hội mà nổi lên, lập ra nhà Tiền Lý 前李.  Năm Tân-dậu (541) là năm Đại-đồng 大同thứ 7 đời vua Vũ-đế nhà Lương 梁武帝, ở huyện Thái-Bình có một người tên là Lý Bôn 李賁huý là Bí, tài kiêm văn võ, thấy nước mình trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm-Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa-dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư 蕭諮về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long-Biên 龍編.    Lý Bôn tự xưng là Nam-Việt Đế 南越帝, đặt quốc-hiệu là Vạn-Xuân 萬春,niên-hiệu là Thiên-Đức 天德, rồi phong cho Triệu Túc 趙肅làm thái-phó... Năm ất-sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu 楊摽sang làm thứ-sử Giao-châu, và sai Trần Bá Tiên 陳霸先đem quân sang đánh Nam-Việt. Lý Nam-Đế thua phải bỏ thành Long-biên. Sau đó Lý Nam-đế bèn giao binh quyền lại cho tả-tướng quân Triệu quang Phục 趙光復chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất-liêu.
          Triệu quang Phục là con quan thái-phó Triệu Túc 趙肅người ở Châu-diên (Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên) theo cha giúp Lý Nam-đế lập được nhiều công, nay đem quân chống-cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về đầm Dạ-Trạch 夜澤.  
         Dạ-Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu quang Phục vào ở đấy ngày nấp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc-mộc ra đánh quân của Trần bá Tiên, cướp lấy lương-thực về nuôi quân-sĩ. Trần bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu quang Phục là Dạ-trạch vương 夜澤王.
         Năm mậu-thìn (548) Lý Nam-đế ở trong Khuất-liêu phải bệnh mất,  Triệu quang Phục ở Dạ-trạch được tin ấy bèn xưng là Việt-vương. Bấy giờ bên Tàu có loạn Hầu Cảnh 侯景, vua nhà Lương phải triệu Trần bá Tiên về để người tì-tướng là Dương Sàn 楊孱ở lại chống cự với Triệu quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long-biên.Năm ất-hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt-vương, Lý thiên Bảo anh của Lý Nam Đế, sang Lào lánh giặc Lương mất, không có con, binh-quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm đinh-sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt-vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.        
          Lý Phật Tử đóng ở Ô-diên 烏鳶(nay ở vào làng Đại-mỗ, thuộc huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-đông). Triệu Việt-vương đóng ở Long-biên, lấy bãi Quân-thần 君臣洲làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng-cát, huyện Từ-liêm). Triệu Việt-vương lại gả
                                                     
                                     Đền Độc Bộ thờ Triệu Việt Vương xã Yên Nhân                        
con gái cho Lý Phật Tử để tỏ tình hiếu hoà với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn-tính, bởi vậy bề ngoài tuy là hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa-soạn để đánh lấy Long-biên.
         Năm tân-mão (571), Phật Tử bất thình-lình đem quân đánh Triệu Việt-vvơng. Triệu Việt-vương thua chạy đến sông Đại-nha 大鴉(nay ở huyện Đại-an, tỉnh Nam-định), nhảy xuống sông tự tận.
         Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt-vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại-nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại-bộ, gần huyện Đại-an.
         Lý Phật Tử lấy được thành Long-biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong-châu (thuộc huyện Bạch-hạc, tỉnh Vĩnh-yên), sai Lý đại Quyền 李大權giữ Long-biên và Lý-phổ Đỉnh 李普鼎giữ Ô-diên.
         Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam-việt thì vua Văn-đế nhà Tùy 隋文帝đã gồm cả Nam Bắc, nhất-thống nước Tàu. Đến năm nhâm-tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương 劉方đem quân 27 doanh sang đánh Nam-việt.
 Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam-đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.
Từ đấy đất Giao-châu lại bị nước Tàu cai-trị 336 năm nữa.
Trong thời gian này nổi lên các cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng…
Năm nhâm-tuất (722) là năm Khai-nguyên thứ 10 về đời vua Huyền-tông 玄宗nhà Đường, ở Hoan-châu có một người tên là Mai thúc Loan 梅叔鸞nổi lên chống cự với quân nhà Đường. Mai thúc Loan là người huyện Thiên-lộc, tức là huyện Can-lộc, tỉnh Hà-tĩnh bây giờ. Mai Thúc Loan trong sử nhà Đường  gọi là Mai Huyền Thành mặt mũi đen sì, sức-vóc khỏe-mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn-bạo, dân-gian khổ-sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc-giã, ông ấy bèn chiêu-mộ những người nghĩa-dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan-châu (nay thuộc huyện Nam-đường tỉnh Nghệ-an) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng-đế, tục gọi là Hắc-đế 黑帝. Mai Hắc-đế lại kết hiếu với nước Lâm-ấp và nước Chân-lạp để làm ngoại viện.
         Vua nhà Đường sai quan nội-thị là Dương tư Húc 楊思拗đem quân sang cùng với quan Đô-hộ là Quang sở Khách 光楚客đi đánh Mai Hắc-Đế. Hắc-Đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì mất.
         Nay ở núi Vệ-sơn 衞山huyện Nam-đường, tỉnh Nghệ-an, còn có di-tích thành cũ của vua Hắc-đế, và ở xã Hương-lãm, huyện Nam-đường còn có đền-thờ.
                                  
                                                          Đền thờ Mai Hắc Đế


Bố Cái Đại Vương
          Vào thời nước ta bị giặc  Đường đô hộ(603-906) ở châu Đường Lâm có gia đình họ Phùng thuộc loại giàu có. Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm.
         Các đời sau là Phùng Khiêm, Phùng Thông, Phùng Đạt. Cha truyền con nối, qua 5 đời đều là quan lang (Tù Trưởng) Châu Đường Lâm (gần bằng một huyện bây giờ). Cha của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở nước ta, sau đó trở về quê lo việc điền viên và trở nên giàu có, trong nhà có đến hàng nghìn nô tỳ.(bia Quảng Bá).
         Theo truyền thuyết, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ.  Con cả là Phùng Hưng. Năm Phùng Hưng được 3 tuổi lại sinh hai con trai nữa. Em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em qua 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.Ở tuổi trưởng thành ba anh em họ Phùng đều là những chàng trai chí khí, đảm được hơn người
Đặc biệt Phùng Hưng so với hai em Phùng Hải và Phùng Dĩnh, ông có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.
          Một lần vào rừng, Phùng Hưng bị hổ vồ nhưng nhanh nhẹn né tránh được rồi vật nhau với hổ, và cuối cùng đánh chết hổ, mang về. Còn Phùng Hải thì đã có lần thử sức, vác cả một con thuyền nặng nghìn hộc, đi được hơn mười dặm mới dừng. 

          Sau khi người cha qua đời, Phùng Hưng mới nối chức cha cũng làm tù trưởng Châu Đường Lâm, được các châu ấp lân cận mến phục.
          Dưới ách cai trị của quan quân nhà Đường, dân ta thường phải chịu trăm bề điêu đứng. Trước đó đã có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên (năm 687) rồi của Mai Thúc Loan (năm 722) nhưng đều bị đàn áp.
          Đến năm đại lịch thứ hai (767) có giặc cướp đi thuyền lớn từ biển phía nam (đảo Java) tới, Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh dẹp được. Rồi Bình ở lai cái trị, bắt dân đóng góp rất nặng nề.
          Phùng Hưng tự nhủ:
       Đất nước ta từ khi có vua Hùng lập quốc, có núi tả Sông Hồng anh linh đến vạn thuở, cớ sau bây giờ vẫn phải chìm đắm mãi trong cảnh lầm than? Ta phải cùng các anh hùng hào kiệt cứu lấy giang sơn, đánh cho giặc bắt tan tành. Đất nước ta phải do người nước ta làm chủ, chứ lẽ nào phải cống nạp mãi?
          Thế rồi Phùng Hưng nuôi ý định dấy binh. Trước hết ngài bàn việc đó với hai người em. Cả hai người em cũng cùng có chí hướng như Ngài.
          Vào ngày đầu tháng ba, ba anh em lập một đàn tràng thề nguyền đồng tâm chung sức, dấy
binh khởi nghĩa, quyết đánh đuổi giặc Đường, giành lại giang san cứu dân thoát khỏi cảnh nô lệ.
          Bỗng nhiên có một vầng hào quang xuất hiện. Khi hào quang biến mất, trước mặt ba anh em là một
lão nhân râu tóc bạc phơ. Anh em Phùng Hưng cúi lạy chào. Lão Nhân cất tiếng
- Lão đây vốn là Long Thần Nam Hải, đang đi tìm hiểu sự tình nhân gian, thấy đàn tràng hào khí rực một góc trời, nên lấy làm lạ mà tới. Nghe các con có tâm nguyện đuổi giặc xâm lăng cứu lê dân bá tánh. Ta lấy làm cảm động vô cùng. Nay cho các một móng rồng của ta
         Phùng Hưng Cất tiếng hỏi:
- Thưa Long Thần, Ngài cho chúng con vật quý này để làm gì?
- Con về rèn một thanh kiếm lệnh, dùng móng này làm thành cái chuôi. Khi vung kiếm hiểu thị, muôn người như một nhất nhất tuân theo lệnh ban ra.
         Nói xong Long Thần biến mất
         Sau đó, ba anh em rèn ngay một thanh kiếm thật bén, rồi tra vào chuôi được làm từ móng rồng, ở giữa khắc ba chữ "Long Thần kiếm".
         Từ đó, Phùng Dĩnh ở nhà trông coi công việc trong Châu, còn Phùng Hưng và Phùng Hải chia nhau đi khắp các vùng gần xa, chiêu tập hào kiệt. 
         Để đánh lạc hướng chú ý giặc, Phùng Hưng đổi tên Cự Lão, Phùng Hải đổi tên là Cự Lực. Sẵn có sức khỏe hơn người, hai anh em đến các sới vật thường xuyên tổ chức trong các kỳ lễ hội tại các địa phương, vừa để tham gia mà cũng vừa là cách tốt nhất để nhận mặt làm quen với các anh tài.
         Đi đến đâu hai anh em cũng được mọi người mến mộ. Các tay đô vật ở khắp các trang ấp đều rất mực phục tài anh em Phùng Hưng và Phùng Hải, lại vừa nhận thấy ở họ những tấm lòng thật hào hiệp, quảng đại, nên khi nghe nói tới việc dựng cờ khởi nghĩa, họ đều nhiệt liệt hưởng ứng và cùng nhau hẹn ngày khởi sự. 
         Sau mấy tháng đi khắp các vùng, anh em Phùng Hưng, Phùng Hải trở về nhà. Nhân ngày húy kỵ ông bố 11 tháng 3, ba anh em làm cỗ thật to, mời tất cả anh em, họ mạc và dân làng. Lại mời tất cả bạn bè và hàng ngũ chức sắc dưới quyền trong châu Đường Lâm, đó là các trang ấp trưởng. 
         Trong bữa cỗ, mọi người ăn uống vui vẻ, rồi sau đó bàn sang chuyện khởi nghĩa. Anh em Phùng Hưng đưa ra thanh "Long Thần Kiếm". Các trang ấp trưởng và mọi người đều đặt tay lên ngựa mà và hứa: "Chúng tôi nguyện xin đem hết tài năng cùng Tướng Quân đuổi giặc " Anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm cùng mấy ngàn nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu.
          Để Phùng Dĩnh ở lại trông coi các việc, còn Phùng Hưng, Phùng Hải mượn tiếng là đi tuần thú trong châu, đã dẫn quân chếch xuống phía nam, đến Thời Trung trang (nay là làng Chuông, tức xã Phương Trung - Thanh Oai - Hà Tây) thì dừng lại.
          Đây là địa điểm thuận lợi cho việc tập luyện, phiên chế quân ngũ, vừa đủ xa để bọn giặc đóng ở thành Đại La (Hà Nội) không dòm ngó tới, lại vừa đủ gần để từ đây có thể hành quân bất ngờ tấn công quân địch.
            Thời Trung trang cách thành Đại La khoảng ngoài 20 dậm (khoảng 17,6 cây số theo đơn vị đo lường thời xưa của Việt Nam, 1 dậm = 444 mét), chỉ cần di chuyển quân nửa ngày là đã lên tới nơi.
          Theo hẹn ước, các anh tài khắp nơi mang theo những người cùng chí hướng, lục tục tìm về. Trong  một thời gian ngắn, quân số đã lên tới hàng vạn.
          Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
          Đến tháng 4 - 791 (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7), theo kế của Đỗ Anh Luân một danh sĩ cùng người Đường Lâm, là bạn  Phùng Hưng từ nhỏ, nay là quân sư lo việc bày binh bố trận. Anh em Phùng Hưng, Phùng Hải đã mang quân chia làm hai ngả, bao vây thành Đại La trong đêm tối.
          Cao Chính Bình mặc dù là viên tướng đảm lược, nhưng cũng đành chịu bó tay thúc thủ trong thành. Không thể đem quân trốn ra ngoài, vì tất cả các nẻo đường đều đã bị chặn giữ, Cao Chính Bình đành phải cho một vài tên lính lanh lợi, giữa đêm tối tìm cách lẻn ra, đưa thư cấp báo về nhà Đường, xin tiếp viện.
          Ba tháng ròng, thành Đại La bị vây chặt. Các đoàn viện binh của nhà Đường đến đều bị quân của Phùng Hưng đánh tan. Cao Chính Bình hay tin lo lắng quá thành khối u lớn ở sau lưng. Rồi khối u vỡ, Cao Chính Bình chết.
         Khi tin Cao Chính Bình chết bay ra ngoài thành, Phùng Hưng hạ lệnh cho quân lính từ các nơi hiểm yếu, nhất loạt tiến công. Quân nhà đường chống không nổi, phải kéo cờ trắng ra hàng.
          Phùng Hưng dẫn đại binh vào chiếm Đô hộ phủ trong niềm hân hoan của mọi người. Tướng sĩ suy tôn ngài là Vi đô Tướng quân.
Vi đô Tướng quân lập tức bắt tay vào việc chấn hưng đất nước và xây thành đắp lũy, luyện tập binh mã, đẻ đối phó với nhà Đường sau này.
         Ngài chưa xưng Đế, nhưng thực sự đã điều hành
công việc như một vị Hoàng đế. Ngài mang lại cho muôn dân cảnh no ấm, thái bình, không phải đem lễ vật cống nạp cho ngoại bang, và các thuần phong mỹ tục trong nước cũng đang được khôi phục lại.
          Nhưng thật tiếc thay, những công việc mà Ngài thực thi đang tiến triển thì dừng lại, bởi cái chết đến quá đột ngột, vào đúng bảy năm sau tức năm 798, lúc đó Ngài mới đang ở độ tuổi sung mãn.
          Xét về công lao cũng như tài năng, đức độ, nhiều người muốn lập Phùng Hải lên thay, vì thấy ông xứng đáng nhất. Nhưng một người đầu mục phụ tá cho Phùng Hưng, và sau này phụ tá cho Phùng An, con trai trưởng của Phùng Hưng tên là Bồ Phá Cần, không tán thành
          Bồ Phá Cần là người có sức mạnh vô song, nhưng liều lĩnh và thiển cận, một mực lập Phùng An lên thay, rồi đem quân chống lại Phùng Hải. Không muốn nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi, lại cốt nhục tương tàn nên Phùng Hải né tránh, cùng vài người thân tín, bỏ lên ở động Chu Nham, rồi sống cuộc đời dân giã cho đến lúc mã chiều xế bóng.
          Phùng An nối nghiệp cha, nhưng là người không có đảm lược lớn. Một người như thế chỉ có thể trị vì đất nước trong cảnh thái bình, còn khi đất nước có biến động thì sẽ không đảm đương nổi.
          Công việc đầu tiên mà Phùng An tiến hành là tổ chức lễ an táng cho cha thật trọng thể. Sự trọng thể lại
càng tăng gấp bội phần, vì tất cả dân chúng và binh lính đều thực lòng tiếc thương vị anh hùng của mình vừa nằm xuống.
Dân chúng và binh lính đưa tang, khóc Ngài đến đỏ hoe cả hai con mắt.
         Họ thương tiếc, gọi Ngài là Bố Cái, tức Cha Mẹ? (có nhiều người không đồng tình với giải thích này. Thứ nhất chữ Cái có nghĩa là giống cái, là phụ nữ chớ không phải nghĩa là mẹ. Thứ hai chữ Cái có nghĩa là Lớn. Bố Cái là người Cha Lớn ). Rồi họ lại gọi Ngài là Đại vương, như trước đó vẫn gọi Ngài như thế. Phùng An con trai Ngài, do cảm nhận được những tình cảm ấy của dân chúng và binh lính cũng suy tôn Ngài làm "Bố Cái đại vương". Và cái tên ấy còn mãi đến ngày nay.
                                      
                                
Lăng mộ Bố Cái Đại Vương ở Giảng Võ Hà Nội                                    
          Nhưng Phùng An là người tài hèn trí mọn, không nối được cái chí của cha, chú. Hai năm sau Đường Đức Tông sai Triệu Xương sang làm An Nam Đô hộ phủ. Xương đi sau, sai sứ giả đem đồ lễ vật đi trước để dụ dỗ An. An sắp xếp nghi vệ đầy đủ, dẫn quần thần ra hàng.
          Nhiều người họ Phùng có chí khí và nhiều người họ khác nữa, thấy vậy, bèn tản đi các nơi, không muốn ở lại hợp tác với giặc. Sau khi đặt nền cai trị, bọn quan quân nhà Đường liên tục truy sát những người trong gia tộc họ Phùng.
         Theo các dòng sông lớn dòng họ Phùng toả về các vùng núi, trung du, các vùng hạ lưu các con sông lớn nhỏ để lập nghiệp.
         Bố Cái Đại Vương mất nhưng Ngài rất hiển linh
, thường ở trong thôn dân hiện hình thành thiên xa vạn mã phi đằng trên nóc nhà, trên cổ thụ; chúng nhân trông lên thực như đám mây ngũ sắc, lại nghe thấy ti trúc, quản huyền giao hưởng trên không trung, tiếng hô hoán, tiếng cờ trống võng kiệu vọng lên nghe thấy phân minh giữa ban ngày.
         Phàm trong ấp có tai nạn hoặc việc vui mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị nhân báo trước; chúng phục là thần, lập đền phía tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm cướp, việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết thần, vào trong đền mà minh thệ, lập tức thấy họa phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền cầu lợi hậu đều có linh ứng; thôn
dân gặp phải mưa dầm hay đại hạn; cầu đảo liền được như ý.  
          Mỗi năm xã đến ngày tạ lễ, người đến đông như rừng như biển, bánh xe dấu ngựa đầy đường; miếu mạo nguy nga, hương đèn chẳng dứt. Tất cả đều thấy ứng nghiệm, vì vậy "mỗi khi vào ngày tạ lễ, người đến nhiều như núi như biển, bánh xe chật đường". Về sau, dân chúng xây dựng thêm,"miếu mạo nguy nga, lửa hương bất tuyệt"(theo Việt điện u linh).
          Đúng 100 năm, sau ngày Ngài mất, cũng tại quê hương của ngài (Đường Lâm), một người anh hùng nữa đã ra đời. Đó là Ngô Quyền (898 - 944). Sau khi giết Kiều Công Tiễn trả thù cho bố vợ (Dương Đình Nghệ), Ngô Quyền xưng vương, rồi đánh tan quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng. Trước trận đó, thấy quân giặc đông, nhà vua cũng có phần lo lắng, nhưng"đêm nằm mộng, bỗng thấy một ông già tóc bạc, mũ áo nghiêm trang ... xưng là Phùng Hưng đến cổ vũ và hứa sẽ đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu" . 
         Sau trận thắng, nhà vua tạ ơn, xuống chiếu lập đền thờ Phùng Hưng ở làng Cam Lâm to hơn quy mô cũ, và tổ chức lễ hội thật trọng thể. Từ đó thành điển lệ. Các triều đại về sau đều có sắc thượng phong: "Phụ hựu", "Chương tín", "Sùng nghĩa". Đó là những tên hiệu mà các triều Trần trùng hưng đã tặng thêm cho Ngài.
         Lăng mộ Phùng Hưng hiện ở đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền thờ ông được dựng lên ở nhiều nơi như quê hương Đường Lâm, đình Quảng Bá (Tây Hồ, Hà Nội), đình Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội)... Ở xã Gia Thanh, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình có 3 ngôi đền thờ Bố Cái Đại Vương, tương truyền ông mất tại đây.
     
Đền thờ Bố Cái Đại Vương ở Triều Khúc

Bối Cảnh Lịch Sử
         Năm Mậu Thân (768). (Đường, năm Đại Lịch thứ 3).
         Nhà Đường lại đổi Trấn Nam làm An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mùi (767) là năm Đại-lịch thứ 2, đời vua Đại-tông 代 宗 nhà Đường, sử chép rằng có

Quân Côn-lôn 崑 崙(Mã Lai) và quân Đồ-bà 闍 婆 (Chà Và-Java) là quân ở những đảo ngoài bể vào cướp phá đất Giao-châu,
lên vây các châu-thành.
         Quan Kinh-lược-sứ là Trương bá Nghi 張 伯 儀 cùng với quan Đô-úy là Cao chính Bình 高 正 平 đem quân đánh phá được lũ giặc ấy. Trương bá Nghi bèn đắp La-thành 羅 城 để phòng thủ phủ-trị. La-thành khởi đầu từ đấy.
         Năm Tân Tuất (791) quan Đô-hộ là Cao chính Bình bắt dân đóng sưu-thuế nặng quá, lòng dân oán-giận. Khi bấy giờ ở quận Đường-lâm 唐 林 (bây giờ là làng Cam-lâm, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây) có người tên là Phùng Hưng 馮 興 nổi lên đem quân về phá phủ Đô-hộ.        
         Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm hay Cam Lâm.

         Cao chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ-thành, được mấy tháng thì mất. Quân-sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An 馮 安 lên nối nghiệp. Dân ái-mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố Cái Đại vương 布 蓋 大 王, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.
         Giới sử học hiện vẫn chưa rõ ngày sinh của ông, chỉ biết ông mất vào năm 791. Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi.
          Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy, sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. 
         Tháng 7 năm tân-vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương 趙 昌 sang làm Đô-hộ. Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng.
         Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm.
         Mãi đến đầu thế kỷ thứ 10 năm 906 Họ Khúc nổi lên dấy nghiệp.

HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP:
KHÚC THỪA DỤ (906-907). Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy-quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế-lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở Giao-châu, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ 曲 承 裕, quê ở Hồng-Châu (thuộc địa-hạt Bình-giang và Ninh-giang ở Hải-dương). Khúc thừa Dụ vốn là một người hào-phú trong xứ, mà tính lại khoan-hoà, hay thương người, cho nên có nhiều người kính-phục. Năm bính-dần (906) đời vua Chiêu-tuyên nhà Đường 唐 昭 宣, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên làm Tiết-độ-sứ 節 度 使 để cai-trị Giao-châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy-nhược, không thể ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh-hải Tiết-độ-sứ và gia phong Đồng-bình-chương-sự 同 平 章 事.
Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu-Lương 後 梁 phong cho Lưu-Ẩn 隱 làm Nam-bình-vương 南 平 王, kiêm chức Tiết-độ-sứ Quảng-châu và Tĩnh-hải, có ý để lấy lại Giao-châu.
Khúc thừa Dụ làm Tiết-độ-sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo 曲 顥.
KHÚC HẠO (907-917).
Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết-độ-sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan-lại, sửa-sang việc thuế-má, việc sưu-dịch và
lại cho con là Khúc thừa Mỹ sang sứ bên Quảng-châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò-thám mọi việc hư thực.
Lưu Ẩn ở Quảng-châu đóng phủ-trị ở Phiên-ngung được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung 劉 龔
(trướcgọi là Lưu Nham 劉 巖) lên thay. Được ít lâu, nhân có việc bất bình với nhà Hậu-Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại-việt 大 越. Đến năm đinh-sửu (947) cải quốc hiệu là Nam-hán 南 漢.
 KHÚC THỪA MỸ (917-923). Năm đinh-sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc thừa Mỹ. Khúc thừa Mỹ
nhận chức Tiết-độ-sứ của nhà Lương, chứ không thần-phục nhà Nam-Hán. Vua nước Nam-Hán lấy sự ấy làm hiềm, đến năm quí-mùi (923) sai tướng là Lý khắc Chính 李 克 正 đem quân sang đánh bắt được Khúc thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến 李 進 sang làm thứ-sử cùng với Lý khắc Chính giữ Giao-châu.
 DƯƠNG DIÊN NGHỆ VÀ KIỀU CÔNG TIỄN (931-938). Năm tân-mão (931) Dương Diên Nghệ 楊 筵 藝 (Dương Đình Nghệ) là tướng của Khúc Hạo ngày trước, mới nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết-độ-sứ.                                   
Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị người nha-tướng là Kiều Công Tiễn 矯 公 羨 giết đi mà cướp lấy quyền.
         Đây cũng là giai đoạn nước ta bắt đầu giành lại quyền tự chủ, không còn bị nước Tàu đô hộ. Chấm dứt các thời kỳ Bắc Thuộc

                                    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét