Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Cảm xúc về "Thiền" của GS Nguyễn Văn Trường Qua Bài thơ : Lá Thu" của Mailoc


November 23, 2013
 Anh Mai Lộc ơi,
 Tôi có được email của Anh. Nội dung:
 
 Cùng Bạn ,
Cali trời đang giữa thu , hôm nay cây cối mới bắt đầu úa vàng , không như các tiểu bang miền đông , mùa thu lá vàng đến sớm  hơn. Công viên nơi đây hôm nay lá vàng đã rơi đầy . Tôi cố giữ tâm tư mình thật yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi . Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta . Xin gởi bạn một cảm tác mùa thu, 
Thân mến 
Mailoc
 
     L Á THU .
 
Lâng lâng chiều nhẹ mắt say say ,
Tan tác rơi rơi lá thở dài .
Hiu hắt gió đâu từ vạn dặm ,
Nỗi sầu vạn cổ nắng thu phai .
 
Sương xuống mơ hồ ướt mắt mi ,
Bên đường lạnh lẽo đóa tường vi .
Bóng người mờ ảo xa xa khuất ,
Trong bước phong sương nghĩ ngợi gì ?
 
Nắng chiều nhàn nhạt gió lơi lơi ,
Lạnh cả không gian thấm cuộc đời .
Đường vắng bâng khuâng nghe lá khóc ,
Trong mây trong khói mắt xa vời  .
 
Quây quây trong gió lá thu rơi ,
Xao xuyến hồn ta đến cuối trời .
Xanh tươi mới đó, đùa chim chóc ,
Nắng hạ vẫy chào, xác tả tơi .
 
Bên nhau đất khách những năm trường ,
Mỗi độ thu về mỗi vấn vương .
Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,
Mái đầu hai đứa trắng như sương ,
                                     Mailoc
                                   11-16-13
 
Cám ơn Anh đã cho một bài thơ rất dễ thương. Àm vận nghe như tiếng nhạc.
Lâng lâng, say say, rơi rơi, xa xa, lơi lơi, quây qua,  như nhảy múa nhe nhẹ trong gió thu, đùa cợt với lá thu, nắng thu. Lại thêm một thoảng buồn. Buồn vì thu? vì tuổi đời đã sang thu
? ... hay chỉ vì thói quen,  buồn mỗi độ thu vế?
 
 Nhưng dễ thương nhất là bốn câu kết:
 
Bên nhau đất khách những năm trường ,
Mỗi độ thu về mỗi vấn vương .
Hương lửa ba sinh ngày một ngắn ,
Mái đầu hai đứa trắng như sương ,
 
***
 
 
Thiền sinh “cố giữ tâm tư yên lặng trong những bước thiền hành hằng ngày nhưng rồi cũng không ngăn được nỗi cảm xúc mênh mang len lén vào hồn mình khi nhìn những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân tôi. Mùa thu lúc nào cũng đẹp và buồn man mác nhất là cho những người tuổi vào thu như chúng ta.”

Thơ trong văn xuôi, gieo hạt giống thiền.

Thế mà  có người nói: “Thơ-thiền không là thơ. Văn-thiền không là văn. Nàng-thơ, nàng-căn, mặc áo tràng và bỏ đi mái tóc diễm lệ, không thơ thẩn, không văn vẻ với trăng gió tình trường, thì đã mất cả cái chất thơ, chất văn của  của nàng. Thơ-thiền hay văn-thiền cũng không là thiền, vì ngoại hình là ngôn từ và âm vận là của ta bà thế tục, mà tâm tư thì còn vướng bận bởi sắc, thanh, hương, vị của trần gian. Tương tự,  thiền hành không là thiền, cũng không là đi bình thường, như người bình thường, ‘hắng ngày’ với tâm vô quái ngại.’

Thiết nghĩ:
 
‘Lá thu’ là ‘tiếng chuông tỉnh thức’.  Tâm đang muốn tự nhốt mình trong yên lặng, với mộng ước—ngầm sâu trong tiềm thức, ẩn tàng trong vô thức—một tâm-thức tìm cầu yên lặng. Nhưng rồi ‘những chiếc lá vàng buông cành , chao đảo rồi nằm im lìm dưới chân’ đã làm thiền sinh thức ngộ trở về thực tại:  Thu về, thu đẹp, thu buồn. Buồn man mác. Thiền ở đâu? Mà Nàng Thơ ở đâu?  Phải chăng ở thời điểm ấy, mình đã trở vể với chình mình, trọn vẹn với mình.

Nhờ vậy, tôi  hưởng được ‘Lá Thu’ của Anh.
 
***
 
‘Trở về với chính mình’ là câu tôi thường nói hay viết.

Mới đây tôi dại dột, thêm một lần nữa,  viết lên giấy trắng mục đen.  Một ông bạn già của tụi mình, anh Phan Khắc Trí, hỏi lại: Cái mình của anh là ai?
Tôi lúng túng, làm thinh.
Hôm nay, thiền sinh cho tôi một ý:
Trong cuộc sống vô thường, ồn ào, năng động, đầy dẫy ô nhiễm, thiền sinh tìm sự thanh tịnh, tĩnh lặng trong lòng. Có thể đó là thái độ bỏ vọng tìm chân.  Muốn tìm về với cái chân thật nhất của mình, mà mình bị che lấp, mà mình nghĩ rằng vốn là thanh tình.  Hằng ngày, người thiền hành, ung dung tự tại.  Nhưng chiếc lá thu, một chiếc thôi,
ở ngay thời lúc ấy, vô tình đưa người trở vế thực tại, thực cảnh, thực tâm, nghe lòng buồn man mác, cái buồn sang thu, buồn vì tuổi đã sang thu, buồn vì thân phận. Rổi thả hồn mình với thơ văn, với âm vận. Rồi chia xớt chút gió thu, là thu,  tình thu với bè bạn.

Cái quá trình ngắn ngủi nầy là biểu hiện cái ‘mình’ của thiền sinh.
Ở mỗi thời điểm, cái ‘mình’ ấy hiện hữu, rất thật, Với thiền sinh, nó thật có, ‘Nó’ không  là hư giả.  Chỉ vì ‘Nó’  chỉ hiện hữu--ở một thời điểm—mà thời điểm thì không có chiều thời gian (một sát na đã là nhỏ, thời điển thì vô-cùng-nhỏ hơn một sát na),  chỉ vì vậy, vì không nắm bắt được, hay nhốt bất cứ cái gì xảy ra trong thời điểm,  mà có người nghĩ ‘Nó’ không thật;  và xúi quẩy người khác đi tìm chân.  Còn tìm,  ắt chưa gặp. càng tìm thì càng thấy xa vời.  Cho nên, cái chân như mà thiền sinh tìm trong thiền hành,  thật ra là vọng tưởng.

Có thể nghĩ: ‘Nó’ do tâm, do thất tình lục dục—một phần của tâm— mà ta ý thức được.  ‘Nó’ là hiện tượng biểu hiện ‘Tâm’. Tâm—Pháp thân, Phật tính— là chân như, vĩnh hằng, bất biến, bất sinh diệt, như các thầy, sư sải thường giảng.  
Nhìn ‘Nó’ suy ra chân như. Suy ra là logic. Logic thuộc lý luận. Cái mà suy ra từ lý luậc là concepts, quan niệm. Quan niệm là một cấu trúc của tư duy :  không thật có , không hiện hữu.. Trong cái nhìn đó, chân-như-suy-ra-từ-logic là vọng mà hiện tường là thực. hiện tượng hiện hữu ở mỗi thời lúc.  Nhưng hiện tượng như bọt biển, không nắm bắt được, có đó rồi mất đó, nên có thể xem là vọng, phát xuất từ một cái gì hằng tồn bất biến vô tử vô sanh. Cái vòng lẫn quẫn, đúng sai, thị phi, chân vọng.

Vậy, không nên cột mình vào vọng hay chân.  Cũng  đừng xung đột nhau vì phải trái đúng si, hay dỡ.  Đừng cố chấp, đừng chấp. Bất chấp, không có nghĩa là không biết phải trái, đúng sai, mà là ý thức—hay tỉnh thức—rằng đúng sai, hay dỡ, phải trái là theo tiêu chuẩn nào của người đời, ý thức những tham số của sự đánh giá, ý thức rằng sự đánh giá phải được qui vế một khoảng thời gian  và bối cảnh nhất định. Thời gian qua, bối cảnh không còn, thì nên buông bỏ, xả bỏ. Ôm vào lòng làm chi để lòng thêm nặng.

Vậy, cái ‘mình của anh, của tôi’ có thể  là những hiện tượng có thật ở một thời điểm.  Một thời điểm, ngắn lắm, không chuyển được thành lời.  Nên phải làm thinh.

Đó là nói với nhau, trong vòng thân mật, giữa chúng mình là điều dễ cho phép, vì còn có một thời mình được  học các khái niệm về điểm, đường thẳng, …, vận tốc của một điểm di động ở một thời điểm nhất định  

Câu mở đầu email của Anh, đã đưa tôi trở lại những trăn trở tuổi trung niên, khi làm quen với nghề dạy học. Tôi là ai? Rồi dạy học là gì? Là giáo dục. Mà giáo dục phải chăng là vạch sẵn một con đường mòn—con đường thành nhơn chi mỹ.  Rồi lùa tuổi trẻ vào đó.  Xưa, đã có người, và rất nhiều, đã ‘khóc cho một hôn quân vô đạo’, vì trung với vua, thì nay cũng có ‘yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa,’…. Và mỗi lần, câu hỏi trở lại với tôi, tôi lại nhớ bài thơ của Tô Đông Pha:
 
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô Sơn yên toả Triết Giang triều
 
Thiền sinh muốn trờ về lại chính mình.  Mình lá ai?  Nhưng mãi đến tuổi nầy, quá bát thập, đã cận này về với ông bà, thế mà vẫn chưa về đến. Kể là một cái may lớn mà thân phận dành cho mình.

Lần nữa cám ơn Anh. ‘Lá Thu’ đã làm tôi xao động, Câu mở đầu đã dẫn tôi đi lung tung. 
Thân chút Anh Chị một thu đời thật đẹp.
 Thân,
 Trường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét