Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Cổ Học Tinh Hoa Tập 4





67. THẬT GIẢ KHÓ PHÂN

Ở gò Lê Khưu có giống quỉ lạ. Nó bắt chước làm con cháu, anh em nhà người ta thật là giống.

Có một ông trưởng giả gần vùng đấy, một hôm ở chợ về chén say khướt. Lúc đi qua gò Lê Khưu, con quỉ hiện hình lên làm con ông ta, tay ôm đỡ dìu dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc, kêu say sưa là xấu.

Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu gọi con ra mắng: "Tao là cha mầy, tao có điều gì là ác nghiệt mà lúc tao say, mầy lại nỡ mỉa mai tao như vậy!"

Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: "Oan quá! Thật con không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở gò Lê Khưu có giống quỷ khéo bắt chước hiện lên làm người, có lẽ là đây chăng".

Trưởng giả hỏi dò, thì quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật, ông mới định bụng hễ gặp giống quỷ ấy là đâm chết.

Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con sợ cha lại gặp quỷ nó quấy nhiễu gì, bèn săm săm đi đón. Trưởng giả trông rõ con mình, nhưng cho là quỷ, liền rút gươm đâm chết.

Lã Tử

GIẢI NGHĨA

Lê Khưu: tên một cái gò cao,ở về địa phân huyện Ngu Thành, tỉnh Hà Nam bây giờ

Trưởng giả: Người đứng tuổi, thường chỉ những bậc có trí, có tài, có oai, có chức hay có của.

LỜI BÀN

Khó thật! Làm thế nào cho rõ giả thực mà phân biệt được. Cái trò đời, đã gian thì lại ngoan, kẻ gian phi đã rắp tâm lừa ai, thì dùng thiên phương bách kế, làm cho phải mắc lừa mà vẫn có bụng tin. Cho nên khi ta ngờ điều gì, ta phải để cái trí sáng suốt mà dò xét cho đến nơi. Chớ có vội hành động, lấy giả làm thực, cho thực là giả, nhận quỷ làm con, giết con tưởng quỷ như trưởng giả nói trong chuyện này, sau có hối lại cũng không kịp. Đời này biết bao nhiêu chuyện vợ chồng, chuyện phe cánh, ngờ nhau tàn hại nhau, một khi sự thực hiện rõ ra chỉ còn có ôm hận suốt đời, lúc nào cũng băn khoăn thương đến người đã khuất.


68. Truyện đười ươi
 

Ở núi Phong Khê đất Thục có giống Đười Ươi, mặt như mặt người, biết cười, biết nói. Máu nó dùng để nhuộm mùi, không bao giờ phai, nên người ta lừa bắt nó.

Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế, đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quãng đồng không, rồi đi nấp một chỗ. Đười Ươi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu, thấy guốc, biết rằng dử mình bèn chửi rủa người lập đánh bẫy, và nói thậm tệ đến cả ông cha người ấy. Đoạn bảo nhau đi, lẩm nhẩm nói chớ có mắc mưu cái loài khốn nạn chực hại mình... Song đã đi mà vẫn ngoảnh lại, rồi bảo nhau:
"Ta thử nếm xem tưởng không hại gì"

Tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, thành say sưa mờ mịt, quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu giữ gìn, chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói, cười cười, chân đưa vào guốc thất thểu đi...

Người nấp bấy giờ đổ ra thì Đười Ươi lảo đảo chạy, con ngả nghiêng, con ngã ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.

Than ôi! Biết rõ người ta lừa gạt mình mà cứ tham lam mê muội để đến nỗi mắc lừa người ta mà mất mạng. Ngu lắm thay! Thật là ngu lắm thay!

Diêu Dung

Giải nghĩa -Thục : tức là Thục Quân ở về đất Tứ Xuyên bây giở

Lời bàn: Rượu chè, thuốc phiện, cờ bạc, trai gái... ở đời có bao nhiêu sự đam mê, tuy vẫn biết là tai hại mà khốn cái tính ngây, cái máu mê nó như có ma lực vẫn xui giục run rủi ta rủ nhau đua nhau mà tìm đến, mà say đắm, có khi tai hại cũng không chừa.Than ôi! Còn ở trên bờ vực sâu, mà không biết giữ, thì đến lúc lăn xuống, ăn năn sao cho kịp! cổ nhân đã có câu: "Nhất thất túc, thành thiên cổ hận: tái hồi đầu, thị bách niên thân" nghĩa là : Lỡ bước một phen nghìn đời ôm hận; quay đầu nhìn lại chín suối ngậm ngùi. thật đáng ghê thay, cho nên người ta phải cẩn thận giữ mình, khi đã biết sự đam mê có thể tai hại mình được thì cố tự chủ, tự trị, mà hãm mình lại ngay, chớ để cho nhân dục thắng được thiên lý thì phí cả đời người

69.Thuật xem tướng

 
Nước Kinh có người giỏi xem tướng, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng.

Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi:
"Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?"

Người xem tướng thưa rằng:
"Thần không có thuật gì cả. Thần chỉ xem bạn người ta mà biết được người ta hay hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với những người bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép người, thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng. Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một thăng cao, giúp vua mỗi ngày một ích lợi. Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi, nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một tri yên, thiên hạ tất mỗi ngày một quy phục... Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem mà biết được người hay người dở."

Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất thời Chiến quốc.

Lã Thị Xuân Thu

Giải nghĩa:
Chiến quốc thời đại về cuối đời nhà Chu 475-249 TCN, các nước hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy.

70. Theo ai phải cẩn thận
 

Đức Khổng Tử thấy Kẻ đánh lưới chim sẻ chỉ đánh được thuần sẻ non vàng mép. Ngài bèn hỏi rằng:
"Không đánh được sẻ già là tại làm sao!"

Kẻ đánh lưới nói:
"Sẻ già biết sợ, cho nên khó được, sẻ non tham ăn, cho nên dễ bắt. Nếu sẻ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó nhưng nếu sẻ già theo sẻ non thì bắt sẻ già cũng dễ."

Đức Khổng Tử nghe đoạn quay lại bảo học trò rằng:
"Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong, đó đều là tính tự nhiên vậy. Song phúc hay họa lại do ở cái theo khôn hay theo dại. Cho nên người quân tử trước khi theo ai phải cẩn thận. Theo ai mà biết phòng xa như người lão luyện, thì được toàn thân, theo ai mà hay nông nổi như kẻ trẻ dại thì bại hoại."


71.Say, tỉnh, đục, trong

Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dung khô héo, Khuất Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.

Có ông lão đánh cá trông thấy hỏi rằng:
Ông có phải là Tam Lưu đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?

Khuất Nguyên nói
Cả đời đục cả, một mình ta trong, mọi người say cả một mình ta tỉnh. Bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.

Ông lão đánh cá nói:
Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể, loài người say cả, sao ông không ăn cả men húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí?

Khuất Nguyên nói:
Tôi nghe mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra phải thay áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được? Chả thà ta nhảy xuống sông Tương vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp lại chịu để dây phải bụi dơ.

Ông lão đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi rồi hát rằng:
Sông Thương nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta
Sông Thương nước đục phù sa
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.


Hát xong, đi thẳng không nói gì nữa.

Khuất Nguyên.

Giải Nghĩa :
Đại phu: chức quan đời cổ dưới quan Khanh, trên quan Sĩ
Tam Lư đại phu: quan đại phu Tam Lư, Tam Lư họ của Khuất Nguyên.
Câu nệ: bo bo chỉ giữ một bề
Tương: tức sông Tương Giang, một sông lớn chảy qua tỉnh Hồ Nam rồi nhập vào Động Đình hồ/
Lèo: dải mũ, mũ thường có hai dải để buộc cho chặt ( mũ thời cổ).

Lời bàn: Bài này tác giả chính là Khuất Nguyên, mượn lời lão đánh cá mà đặt lối vấn đáp. Mấy câu hát của lão đánh cá thì có ý khuyên Khuất Nguyên hòa quang đồng trần với đời, mấy câu Khuất Nguyên nói thì lại phản đối lại, chết thời thôi chứ không chịu theo thời, không chịu dày dạn, sống đục, không bằng thác trong. Ôi! Không nỡ bỏ nước nhà mà lẩn lút đi ở nơi khác lại cũng không chịu cùng tiểu nhân mà cẩu thả sống cho qua đời, sau này quả nhiên vùi xác vào bụng cá trong sông Mịch La, lấy nước sông Mịch mà tẩy uế sự nhơ bẩn, thật là nghìn thu trung nghĩa, dòng nước trong xanh, khiến cho ai xem truyện Khuất Nguyên cũng ngậm ngùi thương nhớ và sinh lòng phấn khởi.

72. Nhan Súc nói truyện với Tề Vương

Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc, bảo :
"Súc lại đây."

Nhan Súc cũng bảo :
"Vua lại đây."

Các quan thấy vậy, nói:
"Vua là bậc chí tôn, Súc là kể thần hạ. Vua bảo : "Súc lại đây" Súc cũng bảo: "vua lại đây.", như thế nghe có được hay không?"

Nhan Súc nói:
" Vua gọi Súc mà Súc lại, thì Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua mà vua lại, thì vua là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế, thì sao bằng để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài.

Vua nghe nói giận lắm, gắt lên rằng:
" Vua quý hay kẻ sĩ quý?"

Nhan Súc đáp:
Sĩ quý, vua không quý.

Vua hỏi :
Có sách nào nói thế không?

Nhan Súc thưa:
Có, Ngày trước, nước Tần sang đánh nước Tề. Có hạ lệnh: "Ai dám đến gần mộ ông Liễu Hạ Quí mà kiếm củi, thì phải xử tử." lại có lệnh: "Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lạng vàng." Xem thế đủ biết cái đầu ông vua sống thực không bằng cái mả kẻ sĩ chết.

Vua Tuyên Vương nói:
Than ôi! Ngưởi quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi! Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho. Tiên sinh mà về ở với quả nhân, thì được ăn mặc sung sướng, lên xe, xuống ngựa, vợ con được quần áo xênh xang tha hồ đẹp.

Nhan Súc từ chối:
Ngọc vốn ở núi, lấy ra mà giũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quý báu nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dã, bỏ ra làm quan tuy vinh hiển thật, xong hình thần không còn được toàn, Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn, thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt, lúc đi, cứ bước khoan thai thì cũng nhẹ nhàng như lên xe xuống ngựa, suốt đời không tội lỗi cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao lộc trọng. Hình thần lúc nào cũng được trong sạch chính đính thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi.
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.

Lời bàn: Xem lời Nhan Súc đối đáp với vua Tuyên Vương thì đủ biết phẩm giá con người ta thực quý hơn vua chúa. Thế mà ở đời, nhiều kể ham mê phú quý, đến nỗi mất cả nhân cách, chôn cả lương tâm, thì thật là khờ dại, đem một sự quý mà đổi lấy những sự hảo quyền ở bề ngoài rất đáng khinh. Người ta có vô cầu mà giữ được thiên chức, không mất bản tính thì suốt đời mới không nhục và nhân phẩm mới cao.

73.Khấu Chuẩn thương nhớ mẹ


Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ, tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khắc, thấy con thế quở phạt luôn, mà vẫn không chừa.

Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đìa... Ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Tự bấy giớ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về sau, thi đỗ, làm quan đến Tể tướng. Lúc ông quy hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi sờ đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng:
" Chính cái vết thương này làm cho ta nên người đây".

Nhân Phủ

Giải nghĩa:
Khấu Chuẩn: người đời Tống đỗ Tiến sĩ làm quan đời vua Chân Tôn đến chức Tể tướng, có công đánh giặc Khiết Đan.


74. Tình mẹ con con vượn

Ở đất Vũ Bình, có giống vượn lông đỏ như vang, nõn như tơ, trông xa lấp lánh rất ngoạn mục. Có hai mẹ con con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tai quái, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên vượn mẹ. Người đi săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc xác mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Vượn mẹ biết mình không thể sống được, vắt sữa ra dùng cho con uống, xong rồi lăn ra chết. Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy, kêu gào thương xót, chạy ngay lại gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ, thì mới yên; một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã rất thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng chết.

Than ôi! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ, liều chết với mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư!

Tống Liêm

Giải nghĩa:
-Vũ Bình: tên đất ở vào địa phận phủ Định Châu tỉnh Phúc Kiến bây giờ.
-Tông Liêm : người đời nhà Minh học giỏi, nhờ người từ lúc trẻ đến lúc già không có hôm nào rời quyển sách, văn chương dồi dào làm Sử nhà Nguyên 210 quyển.


75. Học trò biết học
 

Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc sách.

Thầy Tăng Tử hỏi:
Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý người không mấy khi học tập sách vở như các anh em, là tại làm sao?

Công Minh Tuyên nói:
Thưa thầy, con vẫn học. Còn thầy: thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiều thuận, hòa nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ. Thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lẽ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều thiếp phục. Thầy ở triều đình, đối với kẻ bề ngoài rất là nghiêm trọng mà trong bụng rất là nhân từ, không có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng mà mãi làm chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy.
Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ Công Minh Tuyên và nói rằng:
Ta nay không bằng nhà ngươi.

Thuyết Uyển

Giải nghĩa
Công Minh Tuyên: người nước Lỗ về đời Xuân Thu, học trò thầy Tăng Tử.

Lời bàn: Học trò như Công Minh Tuyên, thầy dạy như Tăng Tử, mới thực là học trò biết học, ông thầy biết dạy, xứng đáng thầy trò vậy. Làm ông thầy, không những lấy tri thức mà truyền thụ, lại cần lấy đức tính mà làm gương giáo hóa cho kẻ đi học nữa. Sách có câu: "Dĩ ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo", cũng là lấy nghĩa ấy. Làm học trò nhưng không những bo bo ở việc học tập văn bài, lại phải học cả động, tĩnh, ngữ, mặc, thái độ hình dung của thầy để bắt chước cho được được thầy nữa. Học như thế mới là học được cái tinh hoa. Công Minh Tuyên chỉ học trong ba điều kể trong bài này, mà tức là học được đủ bồn phận của người đối với gia tộc và xã hội vậy. Đây là học ở trường học thường mà biết học còn hay như thế, huống chi học trường tự nhiên là trường thế giới mà biết học thì hay còn biết chừng nào.

76.Phúc đấy, họa đấy

Một người nhà quê rải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe thấy tiếng kêu "tích tích" lật lên xem, thì bắt ngay được một con trĩ.
Anh ta thấy thế, lại cứ để cỏ đấy, có ý mong ngày mai lại được con trĩ nữa. Mai ra, lắng tai nghe lại thấy tiếng kêu "tích tích" như hôm trước, trong bụng mừng thầm. Nhưng vừa bới cỏ lên, thì ra một con rắn, nó cắn ngay vào tay, anh ta bị thương rồi chết.

Úc Ly Tử nói rằng:
"Một việc nhỏ ấy đủ làm gương cho ta. Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế, mà may được thế cũng có cái họa không ngờ đến thế, mà xảy ra thế!"

Úc Ly Tử

Lời bàn: Sự may, sự rủi người ta không thể lường trước được. Trong cái may, biết đâu mà chẳng có cái không may, trong cái chẳng may, biết đâu mà chẳng không có cái may? Cũng một việc, bận trước là chẳng may, bận sau lại may, như người trước gặp trĩ có lợi, sau gặp rắn bị chết, nói trong chuyện này! Chúng ta nên nhớ rằng: tham thì thâm, đã đắc ý một lần, không nên lại đến lần nữa. Đến không những không được như lần trước mà lại còn bị khinh bỉ khổ nhục nữa.

77. Họa phúc khôn lường.
Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.

Cách mấy tháng con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ.
Ông lão nói:
Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu.

Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.

Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão, vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau.

Hoài Nam Tử

Giải nghĩa
Hồ : tức là Hung nô ở phía bắc nước Tàu hay vào nhiễu loạn nước Tàu
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức.

Lời bàn: họa phúc xoay vần, khó lòng biết được. Trong cái phúc thường có cái họa nấp sẵn ở đấy, trong cái họa thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở đây. Cho nên, đối với sự họa phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà quyết định cho là hay mãi hay dở mãi được. Ta chỉ nên, khi gặp phúc, thì thao thủ cẩn thận, đừng có kiêu xa phóng túng, may mà giữ được phúc lâu dài, khi gặp họa, thì tu tỉnh lấy thân, đừng có ngã lòng, đừng có oán trách, may mà qua được họa lại gặp phúc chăng.

78.Vẽ gì khó

 
Có người thợ vẽ, vẽ cho vua nước Tề mấy bức tranh.
Vua hỏi:
-Vẽ cái gì khó ?
Thưa :
-Vẽ chó, vẽ ngựa khó.
-Vẽ gì dễ?
-Vẽ ma vẽ quỷ dễ.
-Sao lại thế?
-Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống, thì người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỷ là giống vô hình, không ai trông thấy, tùy ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ.

Người nào bỏ những công việc nhật dụng thường hành, chỉ chăm làm những việc kì dị quái gở để lòe thiên hạ, thì cũng chẳng khác nào như người thợ chỉ vẽ ma, vẽ quỷ, nghĩa là tránh cái khó mà làm cái dễ vậy.

79. Cách đâm hổ

 
Hai con hổ đang ăn thịt một con trâu. Biện Trang muốn ra đâm hổ. Có thằng trẻ con bảo rằng:
Hãy lượm đã ông ạ. Hổ là giống tàn bạo, trâu là mồi ngon ngọt. Bây giờ hai con hổ đang cùng ăn một con trâu, thấy thịt trâu ngon, tất tranh nhau, đánh nhau. Đánh nhau, thì hổ nhỏ chết mất mà hổ lớn cũng bị thương. Ông đợi đến bấy giờ hãy ra, thì không phải chỉ đâm được một con, mà rồi được cả hai con không? Như thế, thì chẳng phải là công dùng ít mà lợi được nhiều ư?

Biện Trang cho lời nói ấy là phải, làm theo y như thế, quả nhiên bắt được cả hai con hổ.

Giải nghĩa:
Biện Trang : Người nước Lỗ, thời Xuân Thu, làm quan Đại phu ở ấp Biện, là người khỏe có tiếng, thường hay đâm được hổ.

Lời bàn: Bài này cốt ý dạy ta làm việc gì biết thừa cơ mà làm, thì ít khó nhọc, mà lại dễ thành công. Như Biện Trang đây, bắt hai con hổ ngay, công phu nhiều mà chưa chắc đã được. Đợi nó đánh nhau, một con chết một con bị thương, thì ra chỉ mất công bắt một con hổ yếu (vì mới bị thương) mà rồi được cả hai con hổ vậy. Ý bài này cũng giống câu nói của Mạnh Tử: "Tuy hữu trí tuệ, bất thừa thời thế; tuy hữu ti cơ, bất như đãi thời". Nghĩa là tuy có khôn ngoan sáng suốt, chẳng bằng thừa được cái thế, lại dễ làm hơn, tuy có điền khí sẵn sàng, chẳng bằng đợi đến thời đáng làm mới làm thì lại được việc.


80. ÂM NHẠC

Âm là tự lòng người ta mà sinh ra. Lòng người có cảm giác, mới phát động ra âm. Âm tuy thành ở ngoài miệng mà thực phát ra tự trong lòng.

Cho nên nghe âm thanh mà biết được phong tục, xét phong tục mà biết được chí hướng. xem chí hướng mà biết được đạo đức, thịnh, suy, khôn, dại, hay dở đều hện ra âm nhạc không giấu được ai. Bởi vậy cứ lấy âm nhạc mà nghiệm được một nước ra thế nào.

Đất xấu thì cây cối khẳng khiu, nước đục thì tôm cá gầy còm. Đời suy thì lễ nghĩa phiền mà âm nhạc dâm. Những âm dâm đãng, tà khúc, những âm trên bộc trong dâu mà dưới dân gian lấy làm thích là nước loạn, mà trên vua chúa lấy làm vui là đức suy.

Âm nhạc đã không có tiết tấu, không được trang nghiêm, thuần một màu dâm đãng đã xuất ra thời chỉ cảm được cái lòng dâm đãng tà khúc mà rồi sinh ra bao nhiêu việc tà khúc gian nguy vậy.

Cho nên người quân tử để tâm vào đạo mà sửa lấy đức, chỉnh lại đức để làm âm nhạc, hòa nhạc để cho thành thuận, mà nhạc có hòa, thì mới chỉnh đốn được mọi việc.

Tuân tử

LỜI BÀN


Nếu xem âm nhạc một nước mà biết được nước ấy là thế nào, thì đủ biết âm nhạc có một cái quan hệ mật thiết với sự tồn vong, thịnh suy của một nước. Ôi! Âm nhạc của nước ta hiện nay thế nào! Có nhiều người nếu không chê rằng là ai oán chi âm, Trịnh Vệ chi thanh, thì cũng không cho được rằng có vẻ hùng dũng, cái khí cao xa ở trong ấy. Tiếc rằng người đánh đàn, kẻ kéo nhị thì nhiều, nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có lưu thủy với nam ai, còn người thực am hiểu âm luật, có thể cải lương được âm nhạc chưa có mấy. Ước gì những bậc có tài nghệ âm nhạc hằng lưu tâm đến, làm cho cái âm nhạc sầu não, ẻo lả kia được chỉnh đốn mà phấn chấn lên, thì thực là bậc "cứu quốc" có công to với cả nước vậy.

81. TRÍ VÀ NHÂN


Thầy Tử Lộ yết kiến đức Khổng Tử.

Đức Khổng Tử hỏi: Thế nào là người trí? Thế nào là người nhân?
Thầy Tử Lộ thưa:Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết mình; người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình.
Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người có học vấn.

Thầy Tử Lộ ra, thầy Tử Cống vào, đức Khổng Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào?
Thầy Tử Cống thưa: Người trí là người biết người; người nhận là người yêu người.
Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người có học vấn

Thầy Tử Cống ra, thần Nhan Hồi vào, đức Khổng Tử lại đem trí, nhân ra hỏi.
Thầy Nhan Hồi thưa: Người trí là người tự biết mình; người nhân là người tự yêu mình.
Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử.

Gia Ngữ

GIẢI NGHĨA

Tử Lộ: học trò giỏi của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa chánh sự
Tử Cống: học trò giỏi của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa ngôn ngữ
Nhan Hồi: học trò giỏi nhất của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa đức hạnh
Sĩ quân tử: bậc người thượng lưu trong xã hội, có đức hạnh, có học vấn, có kiến thức

LỜI BÀN

Cũng một chữ Trí, một chữ Nhân mà ba người đáp mỗi người một khác. Không phải là trí với nhân có lắm nghĩa, thay đổi khác nhau, đó là tùy theo cái trình độ học vấn, kiến thức của mỗi người, mà tư tưởng thuyết minh có phần hơn kém nhau. Thầy Tử Lộ đáp như thế là người vụ ngoại, chỉ cần cho người ta biết mình, yêu mình mà thôi. Thầy Tử Cống đám như thế là người quên mình, chỉ biết người, yêu người mà thôi. So với thầy Tử Lộ thì cao hơn một bậc. Song chưa bằng thầy Nhan Hồi, học như thế mới là học vị kỷ; nghĩa là học để tự biết mình, yêu mình trước, rồi suy rộng ra đến biết người, yêu người. Biết mình, yêu mình không phải là có lòng tự kỷ hẹp hòi. Có biết mình thì mới tu tỉnh được tâm thân, cải quá thiên thiện mà nên người hay, người khá, cũng như câu: "Connais toi toi même" của người Tô Lạp Thị. Có yêu mình, thì mới biết trọng tư cách của mình, quí phẩm giá của mình rồi mới đến thân nhân dân, ái vật, tức cũng như câu tục ngữ Pháp: "Charité bien ordonée commence par soimêe".

83. HẾT LÒNG VÌ NƯỚC


Vua Bình Vương nước Sở nghe lời gièm pha, giết chết đại tướng là Ngũ Xa, Ngũ Thượng là con cả Ngũ Xa cũng bị hại. Người con thứ ba là Ngũ Viên bèn bỏ nước Sở, sang làm tướng nước Ngô. Trước khi đi, có đến từ giã một người bạn đang làm quan đại phu tên là Thân Bao Tư mà bảo rằng:
"Ba năm nữa nước Sở không mất, thời tôi không trông thấy bác nữa."
Thân Bao Tư nói: "Bác làm mất nước Sở, thì tôi tất phải giữ cho nước Sở còn."

Ba năm sau, Ngũ Viên đem quân Ngô về đánh Sở, vua Chiêu Vương nối ngôi cho Bình Vương thua chạy, phải trốn vào trong núi.
Thân Bao Tư đang ở trong núi, nghe nói Ngũ Viên cường bạo bèn sang cầu cứu nước Tần, tâu cùng vua rằng:
"Nước Ngôn vô đạo, quân khỏe người nhiều, sắp đánh cả thiên hạ, bây giờ mới đánh một nước Sở thôi trước. Vua nước tôi phải chạy trốn, hiện đang ở Vân Mộng, sai tôi đến cấp báo với thượng quốc."
Vua nước Tần là Ai Công bảo: Ừ! Để rồi ta liệu. Nhà ngươi hãy ra nghỉ ngoài sứ quán.
Thân Bao Tư nói: "Vua nước tôi bây giờ đang khốn đốn, phận làm bầy tôi đâu giám ăn nằm yên một chỗ".
Nói đoạn cứ đứng giữa sân khóc lóc thảm thiết suốt bảy ngày đêm.
Ai Công thấy vậy, nói rằng: "Một nước có người bầy tôi như thế, ta không cứu cũng không đành". Rồi đem quân sang cứu nước Sở.
Quân Ngô nghe thấy tin, vội phải rút quân về.
Nước Sở nhờ thế mà không mất, vua Chiêu Vương lại lên ngôi, tìm Thân Bao Tư để thưởng công thì không thấy đâu cả. Thân Bao Tư đã lánh lâu rồi.

Trước khi đi lánh, Thân Bao Tư có nói rằng:
"Mượn quân, yêu nước không phải là vị thân, cứu cấp, trừ hại không phải là vị danh. Bây giờ nước đã định rồi, thì ta còn cầu gì nữa?"

Thuyết Uyển

GIẢI NGHĨA

Sở: xem truyện số 9
Đại tướng: một chức quan to nhất
Ngũ Xa: người nước Sở thời Xuân Thu, thờ vua Bình Vương vì can vua mà phải giết
Ngũ Thượng: con cả Ngũ Xa, cha bị nạn, đi theo cha rồi cũng bị hại
Ngũ Viên: tức là Ngũ Tử Tư, có thứ Ngũ Xa, trốn sang Ngô để mưu phục thù cho cha
Thân Bao Tư: người thời Xuân Thu làm quan đại phu thờ vua Bình Vương nước Sở và chơi thân với Ngũ Viên.

LỜI BÀN


Ngũ Viên vì cha bị giết oan mà quyết chỉ muốn haị vua, làm cho vua mất nước là trọng chữ Hiếu hơn chữ Trung, có phần đáng khen cũng có phần nên chê. Thân Bao Tư muốn cứu nước chỉ lấy nước mắt, tiếng khóc mà nên công, thực là người quá nhẫn nhục trong lúc kế cùng lực kiệt, để chuyển được người không có ý giúp cũng phải giúp, thế là có bụng rất trung, yêu vua, cứu nước vậy. Việc nghĩa làm là làm cho cả nước, làm được là hả, là sướng, chớ có cầu cạnh gì riêng cho thân mình?


83. BỌ NGỰA CHỐNG XE

Một hôm Trang Công nước Tề xa giá đi săn. Xe ra khỏi thành, đi trên đường cái, có con bọ ngựa cứ đứng giữ đường, giương càng chực chống lại cái xe. Tả hữu thấy thế, kêu lên rằng: "Chết! Chết!". Trang Công nghe tiếng tưởng sự gì nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi. Tả hữu thưa:
"Có con bọ ngựa thấy xem sắp đến, không tránh lại giơ càng lên muốn chống lại. Giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên chứ không lùi, không chịu lượng sức mình khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì xem thường xem khinh, cứ lập tức xông vào đánh. Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào".
Trang Công nói: "Hãy khoan. Giống bọ ngựa thế mà đáng kính. Giả sử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp không ngại gian nan, không sợ nguy hiểm, nhất quyết chỉ tiến lên chọi với cường địch, chết cũng không thoát tị thì chẳng nên đáng tôn kính lắm ư!"
Nói đoạn, Trang Công bảo tránh xe đi sang một bên.

Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang Công nghe thấy câu chuyện, khi phải đi đánh giặc đâu là liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ ngựa.

Hàn Thi Ngoại Truyện

LỜI BÀN

Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi đá, nồi đất chọi với nồi đồng, thì cũng là khờ dại đáng tiếc. Tuy vậy có kẻ hà hiếp mình thậm tệ. mà mình còn đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục. Nhất là mình lại quả quyết, phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có ý chí đáng khen. Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang Công thật là khéo biết dạy, mà tướng sĩ Trang Công thực là biết nghe vậy.

84. ỨNG ĐỐI LINH LỢI


Thiệu là con vua Nguyên Đế nhà Tần, lúc nhỏ đã cực kỳ thông tuệ.

Một hôm có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên Đế hỏi thử rằng: "Trường An gần hay mặt trời gần hơn?"
Thiệu đáp: Trường An gần hơn.
- Tại làm sao?
- Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại, chứ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ.
Vua nghe câu nói lấy làm lạ.

Cách mấy hôm, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe. Nhân Thiệu đứng hầu bên lại hỏi đùa rằng:
- Trường An gần hay mặt trời gần hơn?
Thiệu đáp: Mặt trời gần hơn.
Vua ngạc nhiên hỏi: Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế?
- Tôi ngửng đầu lên, tôi trông thấy ngay mặt trời, chớ không trông thấy Trường An đâu cả.
Vua nghe lại càng lấy làm lạ.

Tấn Sử

GIẢI NGHĨA

Tấn: tên một nước triều đại bên Tàu (265-419)
Thiệu: sau nối ngôi Nguyên Đế, gọi là vua Minh Đế
Trường An: tên một thành cũ bên Tàu, tức là bắc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây bây giờ

85. THỬA GIÀY


Nước Trịnh có kẻ định thửa giày, đo chân làm no rồi để cái no bên chỗ ngồi. Lúc đi chợ quên không cầm no đi. Đến hàng giày mới sực nhớ ra nói rằng: "Thôi quên! Không cầm no đi rồi!". Rồi, mãi vội chạy về nhà lấy no. Khi trở lại thì chợ đã tan, không thửa được giày nữa. Có người thấy thế bảo rằng:
"Sao không đưa chân ra người ta đo có được không?"
Anh ta cãi: "Tôi chỉ tin cái no thôi, chớ tôi không tin chân tôi được."

Ôi! Thửa giày cốt chỉ đi vừa chân là được mà không tin chân, chỉ tin cái no đo chân, chẳng là câu nệ quá lắm ư! Ở đời kẻ làm công việc cứ bo bo giữ lề lối cổ hủ, không biết thế nào là hợp thời thích nghi thì có khác gì người đi thử giày chỉ tin no đo chân, mà không tin chính chân mình hay chăng?

Hàn Phi Tử

GIẢI NGHĨA


Trịnh: xem truyện số 34
No: các mẫu đo cá, chiều dài, ngắn của đồ vật gì

86. CỨU NGƯỜI LÚC NGUY CẤP

Trang Chu nghèo túng sang hỏi vay thóc Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn Hầu nói:
"Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho ông vay ba trăm lạng, ông có bằng lòng không?"
Trang Chu giận nói: "Khi Chu đến đây, đi giữa đường nghe có tiếng gọi, ngoảnh lại thấy một con cá đang ngắc ngải trong cái vết bánh xe. Chu này hỏi: Cá ở đây làm gì thế? -Cá đáp: Tôi là thủy thần ở bên bể Đông mắc nạn tại đây, ông có thể cho tôi bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không? -Chu này bảo: Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt rồi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi, ngươi có bằng lòng không? Cá giận nói: Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế; đợi đến lúc ông về, thì có khi ông đến chỗ hàng cá khô đã thấy tôi đấy rồi."

Thuyết Uyển

GIẢI NGHĨA

Ngụy Văn Hầu: Văn Hầu nước Ngụy, cứ theo sách Trang Tử tuyết thi là Giám Hà Hầu

87. NGHÈO MÀ KHÔNG OÁN

Tử Dư làm bạn với Tử Tang. Tử Tang rất nghèo. Gặp khi trời mưa luôn mười hôm, Tử Dư nhớ đến bạn nghĩ bụng rằng: "Tử Tang đến khốn mất!". Mới bọc gạo đem lại cho.

Lúc đến trước cửa, thấy Tử Tang đang đánh đàn, nửa như khóc, nửa như hát, tiếng không ra hơi, giọng thì liu nhíu, lắng tai nghe như có câu rằng: "Cha ư! Mẹ ư! Người ư!"

Tử Dư bước vào hỏi: "Bác đàn hát như thế là làm sao vậy?"

Tử Tang nói: "Tôi nghĩ mãi mà không biết tự đâu đến nông nỗi cùng cực như thế này? Nào có phải cha mẹ tôi muốn cho tôi nghèo khổ đâu! Nào có phải trời đất để cho tôi nghèo riêng một mình đâu? Trời không riêng che đất không riêng chở một ai...Thực tôi muốn tìm cho biết tự đâu tôi phải chịu cùng cực như thế này, mà không ra. Vậy thì chẳng phải là cái mệnh nó xui khiến ra như thế ư!"

Trang Tử Tuyết

GIẢI NGHĨA

Tử Dư, Tử Tang: hai người đời Xuân Thu tính khoáng đạt, chơi thân với nhau.

LỜI BÀN

Tử Tang nghèo mà cho là số mệnh thì ý giống câu ngạn ngữ của ta: "Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo". Phàm yên phận nghèo, hay không lo nghèo, hay quên cả cảnh nghèo, đó là nết cao quý của hiền triết, không để cho cảnh làm lụy được tâm, làm tổn được chí. Nhưng chúng ta chớ quên rằng những bậc hiền triết thường cần lao, hoặc cầy ruộng hay câu cá, hoặc kiếm củi hay chăn nuôi cho có đủ sống, rồi các ngài mới sống cho ra sống. Cần lao để mưu sinh, đó là sự thường, chúng ta phải có trước đã, để cho thoát khỏi nhục ký sinh, cái hại cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ. Khi chúng ta tự lập được, đã biết trọng liêm sỉ, thì chúng ta mới có thể trở nên người không lo nghèo được.

88. THÂN TRỌNG HƠN LÀM VUA


Người nước Việt giết ba đời vua. Con vua đời thứ ba tên là Sưu lo sợ, phải trốn vào ở trong hang.

Nước Việt thành ra không có vua. Người Việt đi tìm con vua mãi không thấy. Đến lúc tìm thấy ở trong hang thì con vua không chịu ra. Người Việt một mặt lấy lá ngải hun vào hang, một mặt đem xe đón. Con vua bất đắc dĩ phải ra. Lúc lên xe, ngửa mặt lên trời kêu to rằng:
"Ôi làm vua! Ôi làm vua! Ta không muốn làm vua cũng không được hay sao!"

Con vua lo như thế không phải là ghét làm vua, ghét là ghét cái họa làm vua. Không muốn làm vua, tức là không chịu lấy một nước mà phiền lụy đến thân mình. Thân mình không muốn phiền lụy, thì khi làm vua, tất không nỡ làm phiền lụy khổ hại ai. Mà chỉ bởi cái lẽ ấy, người Việt mới cố tôn lên làm vua cho được.

Trang Tử

LỜI BÀN


Làm vua thường tình ai chả muốn. Thế mà có người đến làm vua cũng không muốn! Không phải ghét gì làm vua, nhưng ghét rằng làm vua thường có khi không giữ được toàn tính mệnh. Bài này cốt ý cảnh tỉnh những kẻ ham danh, ham lợi để hại đến thân. Cứ theo ý tác giả thì chỉ những người nào không có chút gì phiền lụy đến tấm thân, mới là không "thương sinh" nghĩa là hại đến đời mình, mà giữ được "toàn sinh" nghĩa là giữ được đời mình cho trọn vẹn. Còn như đây không muốn làm vua mà cứ bị tôn lên làm vua, là vì rằng ông thông minh nhân hậu, lại có đức độ cùng biết người và thương dân thì dân chúng nào chả muốn tô
n lên làm quân trưởng.


Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét