Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2018

Lịch Sử Vùng Kas Krobei-Prei Nokor:


Lịch Sử Vùng Kas Krobei-Prei Nokor:

Về mặt lịch sử Nam Tiến mà nói, dầu tính đến nay vùng đất Kas Krobei-Prei Nokor (Sài Gòn-Chợ Lớn) đã có hơn 300 năm lịch sử nếu chúng ta lấy mốc từ năm 1698 khi quan Thống Suất Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn vào Nam xác lập hệ thống hành chánh cho vùng đất nầy. Ngay từ năm 1698, xứ Đàng Trong đã xác lập rõ ràng Sài Gòn sẽ nắm giữ vị trí trung tâm cho cả vùng đất phương Nam. Mà thật vậy, kể từ ngày đó đến nay vùng Sài Gòn-Gia Định luôn chứng tỏ được vai trò trung tâm của nó trong công cuộc Nam Tiến, khẩn hoang và khai sanh ra miền Nam nước Việt thân yêu của chúng ta. Tuy nhiên, lịch sử của vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Sài Gòn đã có từ lâu, trước cả lúc người Phù Nam đến đây để thành lập nên vương quốc của họ. Về mặt cư dân, không phải đợi đến khi quan Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam mới có người Nam đi theo. Các di chỉ khảo cổ cho thấy vùng Sài Gòn cũng như các vùng phụ cận tại miền Đông Nam Phần, từ lâu lắm đã có nhiều bộ tộc của các cộng đồng cư dân cổ trú ngụ. Họ là những bộ tộc người Stiêng, Mạ, và Chu Ru, vân vân. Họ chia thành

những bộ lạc, gần giống như các tiểu vương bên Mã Lai Á ngày nay. Họ sinh sống rải rác từ vùng Mô Xoài, Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Bình Dương, xuống tận đến các vùng Meso (Mỹ Tho) và Long Ghor (Long Hồ), kể cả các tiểu vương trên các vùng từ lưu vực sông La Ngà lên đến cao nguyên Di Linh và khu vực Lâm Đồng ngày nay. Những cư dân cổ nầy đã cư ngụ từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch nhưng họ không thành lập vương quốc hẳn hòi, mà chỉ sống quần cư như những cộng đồng cư dân. Rồi ngay sau thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, con người lại quần tụ về vùng nầy để cùng nhau sinh sống, nhưng lần nầy họ lập nên một vương quốc hẳn hòi, dưới ánh sáng pháp trị của văn minh Ấn Độ: vương quốc Phù Nam. Vương quốc Phù Nam sáng rực trong suốt hơn sáu thế kỷ, mà ngày nay với những thư tịch cổ của Trung Hoa, chúng ta có thể lần về để tìm thấy ánh sáng của nền văn minh Óc Eo. Nhưng một điều kỳ lạ, gần như đột biến, từ sau thế kỷ thứ VII, vương quốc ấy đột nhiên biến mất. Ngay từ thế kỷ thứ VII, những thư tịch cổ Trung Hoa không còn nói gì về vương quốc Phù Nam, mà cũng không nói đến vương quốc nào thay thế.
Theo các di tích khảo cổ khai quật được, vào khoảng thế kỷ thứ V, phần lãnh thổ tiếp giáp giữa Phù Nam và Champa có hai vương quốc nhỏ nằm sát cạnh nhau, đó là vương quốc Thù Nại và Bà Lị. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ thứ V thì cả hai vương quốc nầy đều bị Phù Nam thôn tính và sáp nhập vào lãnh thổ Phù Nam. Để rồi sau đó không lâu ngay cả vương quốc Phù Nam cũng biến mất trên bản đồ thế giới, mà lý do của sự biến mất nầy vẫn còn là vấn đề tranh cãi của các nhà sử học thời cận đại. Vào thế kỷ thứ VI, vương quốc Kambuja bắt đầu hùng mạnh, nhưng chưa có chứng cứ nào chính xác về việc Kambuja tiêu diệt Phù Nam. Sau khi vương quốc Phù Nam bị triệt tiêu, thì cả vùng đất mà bây giờ là Nam Kỳ đã bị quên lãng trong hoang vu. Mãi đến thế kỷ thứ tám(4), khi bộ máy cai trị của vương quốc Kambuja đã khá vững vàng và có qui củ, thì vua Chân Lạp mới đặt tên cho vùng đất này là Thủy Chân Lạp và bổ nhiệm một tiểu vương đến đây để cai trị, nhưng vùng đất này vẫn chưa có cư dân người Khmer và tiếp tục là vùng đất hoang vu cho đến khi xuất hiện những làn sóng di dân Việt Hoa từ phương Bắc mà thôi. Lúc đó các vị vua Chân Lạp chỉ đặt tên cho vùng đất mới mà không hề có kế hoạch đưa dân chúng đến định cư, nghĩa là họ chỉ vội vàng nhận bừa là lãnh thổ của họ chứ không có dân chúng, cũng không thiết lập được chánh quyền tại các địa phương. Tuy nhiên, cũng có giả thuyết cho rằng sau thế kỷ thứ VIII, lớp người Khmer bắt đầu tràn xuống định cư tại vùng đất nầy, tạo nên vương quốc Thủy Chân Lạp cho đến khi người Việt bắt đầu đi về phương Nam vào thế kỷ thứ XVII, nhưng theo thiển ý thì mãi về sau này, khi đa phần đất đai vùng Nam Kỳ đã được lưu dân Việt Hoa khai phá và định hình thì các nhóm dân Khmer mới lục tục kéo đến định cư trên các giồng đất cao ráo. Mãi đến thế kỷ thứ XIII, người ta mới thấy thư tịch cổ của Trung Hoa nói về Chân Lạp như trong tác phẩm “Chân Lạp Phong Thổ Ký” của Châu Đạt Quan dưới thời nhà Nguyên. Tuy nhiên, khi Châu Đạt Quan viết cuốn “Chân Lạp Phong Thổ Ký” là lúc ông đang tháp tùng cùng sứ bộ nhà Nguyên đi sứ sang xứ Lục Chân Lạp, và những điều ông mô tả từ Chân Bồ đến cửa biển thứ tư tính từ Chân Bồ, có lẽ là cửa Tiểu hay cửa Đại của vùng Bến Tre, là lúc mà ông đi ngang qua vùng Thủy Chân Lạp, chứ về mặt cảnh quang mà nói, cho tới khoảng đầu thế kỷ thứ XVII, vùng đất nầy hầu hết hãy còn hoang vu, cây rừng rậm rạp, đầm lầy ẩm thấp, lại thêm rừng thiêng nước độc, sơn lam chướng khí, đầy hùm, beo, sấu... Chính vào thời điểm đó, những lưu dân người Việt đã đến vùng đất nầy, chính những lưu dân Việt Nam dũng cảm nầy, dưới sự hướng dẫn tài tình của các chúa nhà Nguyễn, đã xông thẳng vào hoang địa, khai hoang lập ấp bằng chính mồ hôi nước mắt của mình qua hàng mấy đời liên tiếp, đã khiến cho vùng hoang địa nầy trở thành vựa lúa lớn nhất của đất nước.
Sử liệu của Việt Nam có đề cập đến vấn đề khẩn hoang vùng Prei Nokor và Đông Phố, như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn cũng có nói về lưu dân Việt Nam đi khẩn hoang vùng Đông Phố, mà khi nói đến khẩn hoang là nói đến việc đi khai khẩn những vùng đất hoang vu, không có dân cư mà chỉ có rừng hoang thôi. Như vậy lịch sử đã chứng minh rõ ràng vùng đất Nam Kỳ gần như vô chủ trong suốt 10 thế kỷ(5). Phải nói dân tộc Việt Nam là dân tộc thứ nhì xác lập chủ quyền quốc gia hẳn hòi trên mảnh đất này sau Phù Nam, vì bắt đầu từ thế kỷ thứ XVII, trên lãnh thổ này Việt Nam có dân cư và chánh quyền địa phương cũng được xác lập rất minh bạch. Nói rằng thiết lập một cách minh bạch vì lịch sử sự thiết lập nền hành chánh trên vùng đất này không phải bằng chiến tranh vũ lực, mà đa phần đất đai ở đây được các Miên vương dâng hiến, hoặc vì không giữ được, hoặc để đền ơn trả nghĩa cho các chúa tiền triều nhà Nguyễn đã giúp đỡ họ chống lại ngoại xâm từ phía Xiêm La. Tuy nhiên, sau khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, vì quyền lợi thực dân nên họ đã khởi động tuyên truyền trong giới quí tộc Cao Miên rằng Nam Kỳ đã từng là lãnh địa của Chân Lạp bị Việt Nam cưỡng chiếm vào thế kỷ thứ XVII bằng võ lực. Đây là một trong những đòn thâm độc nhất của thực dân Pháp vì tác dụng của nó gây di hại cho mối giao hảo giữa hai dân tộc Việt Miên cho đến ngày hôm nay. Phải nói qua lịch sử dựng nước của vương quốc Xiêm La, đa số đất đai của Chân Lạp đã bị vương quốc này thôn tính hoặc bằng võ lực, hoặc được dâng hiến như các tỉnh Chantaburi, Prachiburi, Xurin, Xixakhet, vân vân, nhưng tại sao người Chân Lạp không tỏ ra thù hận người Xiêm La như họ đã thù hận người Việt Nam? Lý do rất đơn giản, người Pháp đã tỏ ra rất rộng rãi với người Chân Lạp khi họ mới chiếm nước này. Sau khi chiếm xong Đông Dương, chính họ đã tự quyền cắt những phần đất do người Việt hay người Hoa khai phá và làm chủ như vùng phía Bắc Tây Ninh(6), vùng Kampot, vùng Kompong Som và Linh Quỳnh(7) để trả về cho Cao Miên. Nhờ những cử chỉ ấy mà khi người Pháp nói gì người Miên cũng tin là thật. Từ đó những tuyên truyền vô căn cứ của người Pháp về việc Việt Nam đã từng thôn tính vùng Thủy Chân Lạp của người Miên đã in sâu vào tâm khảm của dân tộc Khmer, và cũng chính vì thế mà mối thù hận của người Khmer đối với người Việt Nam ngày càng dâng cao.

Về phía triều đình Đại Việt, kể cả xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong, ngay từ thời cha anh chúng ta mới đặt chân đến vùng đất Sài Gòn, chắc có lẽ các đã choáng ngộp với vẻ hoang dã cũng như những ưu đãi của thiên nhiên trong vùng nầy. Thế mà chỉ 300 năm sau, con người đã biến một vùng đất hoang vu thành “Sài Gòn”, một thị tứ sầm uất, một trung tâm văn hóa, xã hội, chánh trị và kinh tế, chẳng những cho miền Nam mà còn cho cả nước nữa. Tuy nhiên, trên vùng đất hoang vu, đầy những muỗi mòng, rắn rít, hùm beo, cá sấu, và vắt đỉa... không phải dân tộc nào cũng làm nên lịch sử như dân tộc Việt Nam. Bằng chứng cho thấy hết dân tộc Phù Nam rồi đến dân tộc Chân Lạp đều phải chào thua trước những thử thách của thiên nhiên. Trong khi đó, dầu người Việt đến vùng đất nầy sau hết, sau người Phù Nam đến hơn 15 thế kỷ, và sau người Chân Lạp đến hơn mười thế kỷ, thế mà người Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng chịu đựng của mình trước những thử thách của thiên nhiên, tưởng như không ai tài nào vượt qua được. Người Việt Nam đã khắc phục những tình huống khắc nghiệt bằng chính khả năng sáng tạo của mình để sau đó sống đồng điệu với thiên nhiên. Nhưng trước khi đi đến được những vùng đất nầy, những người Việt Nam đã đến đây bằng cách nào, và đến tự bao giờ? Có lẽ những lưu dân Việt Nam đã đến đây từ rất sớm, có thể từ lâu lắm trước thế kỷ thứ XVII, và họ đã đến vùng đất nầy bằng nhiều cách, có nhóm đến đây theo đường bộ, nghĩa là họ phải vượt qua biên giới Chiêm Thành; có nhóm đến đây bằng thuyền buồm hoặc ghe bầu, đi dọc theo bờ biển, vào các cửa Cần Giờ, Soài Rạp, hoặc cửa Tiểu, Đại... Họ đến đây để buôn bán với những người Khmer cũng phiêu lưu mạo hiểm như họ từ các vùng Oudong hay La Bích đi xuống. Năm 1620, nhằm củng cố mối bang giao với Chân Lạp để được rảnh tay đối phó với quân Trịnh ở phương Bắc, chúa Nguyễn Phúc Nguyên bèn gả con gái là công nữ Ngọc Vạn cho vua Miên là Chei Chetta II(8). Sau đó từng đoàn người Việt di cư xuống đất phương Nam khẩn hoang lập ấp. Vào năm 1623, chúa Nguyễn lại phái một sứ bộ vào Prei Nokor và Kas-Krobey để thiết lập các trạm thu thuế(9). Ngay sau khi vua Chân lạp là Chei Chetta II chấp thuận cho phái bộ xây dựng hai trạm thu thuế nầy cũng như sau lời khuyến khích của hoàng hậu Samdat(10), lưu dân cùng dân xiêu tán Việt Nam lại đổ dồn về vùng Prei Nokor lập nghiệp. Ngay từ lúc nầy chúng ta đã thấy người Việt phải có mặt ở đây rất đông, đến độ quốc vương Chân Lạp đành phải chấp nhận cho sứ bộ nhà Nguyễn thiết lập trạm thuế thương chính ngay trong địa phận của vương quốc mình. Rồi sau đó nữa, mới tới đợt những di thần nhà Minh dong buồm đi tới những vùng xa hơn nữa, như vùng Mang Khảm (Hà Tiên). Không biết các dân tộc Phù Nam và Chân Lạp đã sống với lũ như thế nào, chứ người Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng khai phá và sống với lũ lụt của vùng đất miền Tây Nam Phần qua hơn 300 năm, và ngày càng đưa vùng đất nầy đến chỗ ngày càng thịnh vượng hơn. Như vậy, nếu không kể những trường hợp di dân cá biệt, đa số lưu dân người Việt đi vào vùng Mô Xoài-Bà Rịa và Prei Nokor từ những thập niên đầu thế kỷ thứ XVII.

***

Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html

-------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét