Chú
Thích:
(1)
Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, trang
390 quyển I, ông Huỳnh Tịnh Của nói rằng Sài Gòn tên của một xứ thuộc đất Gia
Định. Nhưng cũng theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, trang 280, quyển II, Sài Gòn là
tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.
(2) Theo
Vương Hồng Sển trong “Sài Gòn Năm Xưa”, Sài Gòn: NXB Xuân Thu, 1960, tr. 31-51.
(3)
Tiếng
Khmer, “Đao” có nghĩa là mây.
(4)
Vào thế kỷ thứ VIII, vương quốc
Chân Lạp được chia ra làm hai khu vực rõ rệt, khu vực cao ráo là Lục Chân Lạp
và khu vực trũng thấp là Thủy Chân Lạp. Khu vực khô ráo nằm về phía Bắc, với
những gò đồi cao, nguồn nước trong sạch, và khí hậu hiền hòa. Nhà vua đặt toàn
bộ kinh đô và hệ thống hành chánh trong khu vụ nầy, trong khi khu Thủy Chân Lạp
thì trũng thấp, hoang vu, phần lớn được bao quanh bởi biển cả, và hầu như không
có cư dân. Vào thế kỷ thứ XIV, vương quốc Chân Lạp bị quân Mã Lai và Xiêm La
đánh phá dữ dội; sau những trận đánh phá nầy, thế lực Chân Lạp bị suy yếu rõ
rệt, một số binh lính và dân chúng sợ hãi đã bỏ chạy trốn về vùng hoang vu Thủy
Chân Lạp. Kể từ đó, vùng rừng rậm Thủy Chân Lạp mới bắt đầu có một ít cư dân.
(5)
Từ thế kỷ
thứ VII đến thế kỷ thứ XVII.
(6)
Thuộc
tỉnh Svayrieng của Cao Miên ngày nay.
(7)
Vùng đất
nay thuộc Cao Miên nằm về biên giới phía Bắc của Hà Tiên.
(8)
Sử Việt
ghi là Nặc Ong Thu Đệ Nhị.
(9)
Hai đồn thu thuế ở Prei Nokor tức
Chợ Lớn bây giờ, và ở Kas Krobei tức vùng Bến Nghé, hay trung tâm Sài Gòn ngày
nay. Đây là vùng rừng rậm hoang vu, nhưng lại là địa điểm qua lại thường xuyên
của các thương nhân Việt Nam trên đường đi Cao Miên và Xiêm La. Ít lâu sau đó,
hai trạm thu thuế nầy biến thành hai khu thị tứ trên bến dưới thuyền, buôn bán
tấp nập, công nghiệp và nông nghiệp trong vùng cũng phát triển rất nhanh.
(10) Tức công nữ Ngọc Vạn.
(11) Nay là thành phố HCM.
(12) Ngay trước thế kỷ thứ nhất Tây lịch.
(13) Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI.
(14) Khoảng thế kỷ thứ VI và thứ VII.
(15) Khoảng thế kỷ thứ VIII.
(16) Từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XII.
(17) Sau thế kỷ thứ XII.
(18)
Di vật khai quật được ở Phú Hòa,
thuộc lưu vực Đồng Nai, cho thấy kiểu dáng đồ trang sức tại đây như những
khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai 3 mấu, và hạt chuỗi mã não, vân vân. Đây là
những sản phẩm được sản xuất tại Cần Giờ với những nguyên vật liệu được nhập
cảng từ các nơi khác như đá quí, mã não. Những thứ mà cảng Cần Giờ có thể sản
xuất tại chỗ như những nguyên liệu ốc xa cừ, vỏ ốc, vỏ hàu, và thủy tinh. Tuy
nhiên, qua di vật người ta có thể tìm thấy một số mang những đường nét văn minh
Ấn Độ, và một số khác mang dấp dáng và phong cách Sa Huỳnh. Đặc biệt tại vùng
Phú Hòa, thuộc lưu vực sông Đồng Nai, người ta đã khai quật được 28 khuyên tai
hai đầu thú bằng đá ngọc và thủy tinh, đây là loại trang sức độc đáo mà trước
đây được xem như là đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh, vùng biển giữa Quảng Ngãi
và Bình Định. Tuy nhiên, theo các khám phá mới đây tại Cần Giờ, các nhà khảo cổ
học Việt Nam đã đưa ra một giả thuyết mới về nguồn gốc của loại trang sức nầy,
rất có thể những đồ trang sức đã khai quật được trong nhiều khu mộ táng tại các
hải đảo cũng như trên lục địa vùng Đông Nam Á có nguồn gốc từ vùng cảng Cần
Giờ.
(19)
Vào cuối thế kỷ thứ XIX, qua
những khai quật khảo cổ, người ta đã tìm thấy những di chỉ từ thời đại đồ đá cũ
và rất nhiều di chỉ thời đồ đá mới sang đến thời đại kim khí, vân vân. Như vậy
vùng Sài Gòn Gia Định đã có cư dân từ thời nguyên thủy đến văn minh Óc Eo, hậu
Óc Eo, được nối tiếp với văn minh Việt Nam mang đến từ những lưu dân đi khai
khẩn vùng đất nầy từ thế kỷ thứ XVII. Về phương diện địa chất học, vùng Phiên
Trấn nằm trên hai vùng phù sa cổ và mới. Khu vực phù sa cũ chạy dài từ Tây Ninh
xuống Sài Gòn, có cấu trúc địa chất giống như miền Đông Nam Phần. Trong khi
vùng phía Nam Sài Gòn, từ Sài Gòn chạy dài xuống Nhà Bè là một vùng đất thấp
với cấu trúc phù sa mới. Đây là vùng sình lầy, trũng nước, ngập mặn quanh năm,
chịu ảnh hưởng thủy triều và gió mùa giống như miền tây Nam Phần. Như vậy vùng
Prei Nokor vừa có cấu trúc địa chất cổ đại mà cũng vừa cận đại. Và cư dân cũng
tuần tự lan tràn trong vùng theo sau
sự hình thành và cấu trúc địa chất, nghĩa là ở đâu
đất đai được thành hình là ở đó có cư dân. Ngay từ thời nguyên thủy của vùng
đất nầy đã có cư dân trú ngụ, đến những thế kỷ sau Tây lịch, vùng đất nầy đã có
một nền văn minh rực rỡ, đó là văn minh Óc Eo, rồi hậu Óc Eo sau khi chủ nhân
của nền văn hóa Óc Eo đột nhiên biến mất khỏi vùng đất nầy. Sau đó người Khmer
đã tràn xuống cư ngụ trên vùng đất nầy cho mãi đến thế kỷ thứ XVII. Nhưng trên
thực tế, theo Chân Lạp Phong Thổ Ký của Châu Đạt Quan, Phủ Biên Tạp Lục của Lê
Quý Đôn và Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, từ thế kỷ thứ 14 cho
mãi đến đầu thế kỷ thứ XVII, hầu hết vùng đất nầy hãy còn hoang vu, với cây rừng
rậm rạp, đầm lầy ẩm thấp, lại thêm sơn lam chướng khí và thú dữ hoành hành.
Ngay tại vùng mà bây giờ thuộc huyện Hóc Môn, vào cuối thế kỷ thứ XVII hãy còn
rất nhiều cọp và cá sấu dữ, thường xuyên bắt hay ăn thịt người, nên có câu “dữ
như cọp vườn trầu” hay “ác như sấu Vũng Gấm” vân vân.
(20)
Vì từ thế kỷ thứ XII trở đi sự
tranh chấp và chiến tranh giữa các vương quốc cổ trong vùng có khuynh hướng lan
rộng, nhất là giữa Chân Lạp và Champa, giữa Champa và Đại Việt, đồng thời vương
quốc Xiêm La cũng bắt đầu mở rộng lãnh thổ của mình. Vùng Prei Nokor nằm trên
lằn ranh của các cuộc tranh chấp nầy. Cho đến thế kỷ thứ XVI, thì các chúa
Nguyễn bắt đầu tìm cách gây ảnh hưởng của mình với vương quốc Chân Lạp. Những
cuộc tranh chấp vừa kể đã làm xáo trộn không nhỏ trong sự cư trú của các cộng
đồng cư dân cổ tại đây. Họ không thể nằm yên để chịu trận ở Prei Nokor, mà tìm
cách lẩn trốn vào các vùng rừng núi Tây Nguyên. Chính vì thế mà trong suốt
nhiều thế kỷ, vùng Prei Nokor đã trở thành những khu rừng rậm hoang vu vô chủ.
Theo những di chỉ khảo cổ tìm được cho thấy từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ
XVII, chỉ có rất ít cư dân cổ còn bám trụ tại các vùng Vũng Tàu, Bà Rịa và Prei
Nokor.
(21)
Đồng bằng sông Mê Nam là nơi lập
quốc của vương quốc Xiêm La kể từ thế kỷ thứ VII, sau nầy đổi tên làm Thái Lan
vào năm 1939. Cố đô Ayuthia được xây dựng trên một khúc quanh của sông Mê Nam.
Theo bản đồ mà giáo sĩ Loubère đã vẽ ra từ năm 1687 thì kinh đô Ayuthia nằm
trên một hòn đảo lớn, giữa hai nhánh sông Mê Nam. Đường sá, cầu cống, phố chợ và
lâu đài được ghi lại rất rõ ràng, với những ghi chú minh bạch như thành phố,
cung điện, bến cảng, xưởng hải quân, xưởng ghe thuyền, phố thi, và chủng viện,
vân vân. Chung quanh đảo có những khu dành riêng cho người Xiêm và người ngoại
quốc. Người Xiêm ở phía bắc và tây bắc, người Hoa ở phía đông, người Việt, Mã
Lai, Nhật Bản, Hòa Lan, và Bồ Đào Nha ở phía nam... Nơi người Việt ở cũng là
một cù lao khá rộng, việc đi lại rất thuận tiện, qua sông là tới kinh đô và phố
thị ngay. Như vậy, ngay từ cuối thế kỷ thứ XVII, cư dân Việt Nam đã định cư tại
Ayuthia khá đông lắm rồi, vì trên bản đồ Loubère ghi rất rõ ràng về khu
Cochinchinois của xứ Đàng Trong tại Ayuthia. Ngoài cố đô Ayuthia, cũng có khá
nhiều người Việt tới định cư Chantaburi và Bangkok.
(22) Còn gọi là mọi Mạ, mọi Stiêng, mọi Mnông, Cơ ho,
hay mọi Chu Ru.
(23)
Biên Niên Sử Khmer ghi: “Năm
1618, vua Chey Chetta II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại
Udong, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một công chúa Việt Nam rất xinh đẹp,
con của chúa Nguyễn. Hoàng hậu Samdach cho đem theo nhiều người đồng hương tới
Chân Lạp, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ
công, và có người buôn bán hay vận chuyển hàng hóa.”
(24)
Theo một giáo sĩ người Ý tên
Christoforo Bori, người sống tại vùng Nước Mặn, thuộc Qui Nhơn trong khoảng
thời gian từ năm 1622 đến 1681, đã ghi lại trong nhật ký như sau: “Chúa Nguyễn
phải chăm lo việc tập trận và gởi quân sang giúp vua Chân Lạp, cũng là chàng rể
của chúa
Nguyễn. Chúa viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền
lẫn binh lính để chống lại vua Xiêm.”
Christoforo Bori cũng mô tả khá tỉ mỉ về việc sứ bộ
của chúa Nguyễn đến Udong vào năm 1620 như sau: “Sứ thần là người sinh trưởng
tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng chỉ đứng sau chức tổng trấn. Trước khi
lên đường, sứ thần đã dành nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận lệnh chúa Nguyễn. Sứ
bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những
chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và trang trí lộng lẫy. Khi sứ bộ đến Udong,
thì dân chúng
Khmer, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản và Trung Hoa đã tụ hội đông đảo
đến đón tiếp. Sứ thần là người đã lui tới Udong nhiều lần, và đã là đại diện
thường trú từ lâu, chứ không phải mới tới đây lần đầu. Trong sứ bộ có rất nhiều
kẻ hầu người hạ phục vụ sứ bộ, cũng như nhiều binh sĩ theo giữ an ninh.”
(25)
Đồn Dinh nằm trong thôn Tân Khai,
sau gọi là chợ Điều Khiển, nằm về phía nam thành Phiên An khoảng 2,5 dặm. Theo
bản đồ của Nguyễn văn Học, thời Gia Long, mặc dầu không có ghi chú bằng chữ,
nhưng vẽ một vùng nhà cửa đông đúc. Tưởng cũng nên nhắc lại, vào năm 1623 thì
đồn Dinh là một trong hai trạm thu thuế mà vua Chey Chetta II đã cho phép xứ
Đàng Trong lập lên để đánh thuế và kiểm soát lưu dân người Việt. Về sau nầy đồn
Dinh trở thành căn cứ quân sự và hành chánh đầu tiên của vùng đất phương Nam.
Lúc đó quan Tham Mưu cư trú tại đồn Dinh, còn bên phía Tân Thuận có xây dựng
dinh thự cho các quan Cai Bộ và Ký Lục. Năm 1775, Nguyễn Phúc Thuần chạy vào
Nam cũng tạm trú tại đồn Dinh.
(26) Thời mới mở cõi về phương Nam thì những vùng biên địa được gọi là Trấn
Biên.
(27) Sử Việt Nam gọi là sự kiện Mô Xoài.
(28)
Sau đó chúa Hiền Vương lại đặt
con trai thứ hai của bà Ngọc Vạn làm Nhị Vương và đóng đô ở Prey Nokor, tức là
Sài Gòn bây giờ, tách rời hoàn toàn với Chân Lạp. Ít lâu sau đó Batom Reachea
bị con rể giết chết để thoán ngôi, nhưng người con rể này lại bị con trưởng của
Battom Reachea là Ang Chey giết chết được triều đình thân Xiêm đưa lên ngôi lấy
hiệu là Nặc Ông Đài. Ông Đài lại kéo quân về đánh đuổi chú ruột của mình là Nặc
Ông Nộn đang làm Nhị Vương ở Prey Nokor. Sau khi có sự can thiệp của quân đội
nhà Nguyễn Nặc Ông Đài bị thua và bị chính triều đình Chân Lạp giết chết. Chúa
Hiền Vương đưa em của Ông Đài là Nặc Thu về Nam Vang lên ngôi lấy hiệu là Chey
Chetta IV với chủ trương hòa hoãn và thân thiện với triều đình Thuận Hóa. Nhờ
đó mà công cuộc di dân của các chúa được tiến hành một cách tốt đẹp.
(29) Nghĩa là
hơn nửa thế kỷ sau ngày chúa Nguyễn lập đồn thu thuế ở Prei Nokor.
(30) Đây là lần đầu tiên sử Việt Nam ghi là Sài Gòn chứ
không ghi là Kas Krobei hay Prei Nokor như trước đây nữa.
(31) Đồn binh nầy tọa lạc tại ấp Đậu. Hiện vẫn còn địa
danh ấp Đậu thuộc khu Tân Mỹ, đồng Bà Nghè, và xóm Chợ Đậu gần đó, thuộc vùng
Tân Uyên.
(32) Thành La Bích, tiếng Khmer là Lovek, có lẽ là phần
đất nằm giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay.
(33) Bây giờ bao gồm các vùng Sài Gòn-Gia Định, Tân An,
và Tây Ninh.
(34)
Mặc dầu khi ấy đất đai đã mở rộng
khắp miền Đông Nam Phần, nhưng từ trước lưu dân đến đây do tự phát, chứ triều
đình xứ Đàng Trong chưa có một kế hoạch khẩn hoang lập ấp chính thức nào.
Các chúa Nguyễn đã dùng chánh sách ‘tằm ăn dâu’,
với dân làng đi trước, chánh quyền theo sau. Nhờ đó mà hầu hết các miền biên
cảnh Nam Bộ đã được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam một cách êm thấm.
(35) Lúc đó chỉ riêng vùng Sài Gòn đã có khoảng 20 ngàn
cư dân Việt Nam, khoảng một phần ba tổng số người Việt đang cư trú trong vùng
Đồng Nai.
(36) Thuộc Thái Lan ngày nay.
(37)
Nguyễn Hữu Cảnh sanh năm 1650 tại
xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Theo các nhà sử học, Nguyễn Hữu
Cảnh chính là hậu duệ của Quốc Công Nguyễn Bặt dưới thời nhà Đinh, và cũng là
cháu mấy đời của Nguyễn Trãi. Cha ông là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, người đã
có công lớn với xứ Đàng Trong trong cuộc đối đầu với nhà Trịnh ở phía Bắc. Ông
là một vị tướng văn võ toàn tài, một nhà quản lý hành chánh xuất sắc dưới thời
Nguyễn Sơ. Ngay khi cha ông mất vào năm 1681, ông đã tích cực tham gia vào quân
đội xứ Đàng Trong. Năm 1692, chúa Nguyễn sai ông đem quân đánh dẹp vua Champa
là Bà Tranh ở Diên Ninh (Phú Yên ngày nay), rồi đổi tên vùng đất mới nầy ra làm
Thuận Thành. Ông là vị quan Trấn Thủ đầu tiên của của trấn Thuận Thành. Ngay
sau khi nhậm chức Trấn Thủ Thuận Thành, ông đã tổ chức cho dân chúng
khai hoang lập ấp, khiến trấn Thuận Thành ngày càng
phát triển rất vững vàng. Chính ông là người đầu tiên đã khai sanh ra vùng đất
phía Nam, và là người xây dựng một cách vững chắc hệ thống hành chánh đầu tiên
ở Sài Gòn-Gia Định.
(38) Về việc
nầy chính Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Nông
Nại nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú. Lúc đầu
thiết lập ba dinh, một dân đến ở, có đất ở hạt Phiên Trấn mà kiến trưng làm đất
ở hạt Trấn Biên, hoặc có đất ở hạt Trấn Biên mà kiến trưng làm đất ở hạt Phiên
Trấn, như vậy cũng tùy theo dân nguyện, không ràng buộc gì cả, cốt yếu là khiến
dân mở đất khẩn hoang, chia thành điền, lập thành thôn xã mà thôi.”
(39) Phủ Tây Ninh cũ.
(40)
Một phần của phủ Tân Bình cũ, tức
là vùng Prey Nokor dưới thời Thủy Chân Lạp.
(41) Một phần của phủ Tân Bình cũ.
(42)
Theo Gia Định Thành Thông Chí của
Trịnh Hoài Đức, có thể họ là những lưu dân từ các vùng Thuận Quảng đến đây ngay
từ thời Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ Thuận Hóa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí
triều Nguyễn thì xứ Mô Xoài Bà Rịa là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là vùng
người lưu dân Việt Nam đầu tiên đặt chân vào để khai phá mở mang từ các tiên
hoàng đế triều Nguyễn. Có lẽ họ vào Nam bằng những thuyền buồm hay những ghe
bầu, dọc theo đường biển, vào các cửa Cần Giờ, Soài Rạp, Tiểu, Đại, vân vân,
nhưng chỉ một số tiến lên được đến vùng Mô Xoài Bà Rịa mà thôi vì vào thời đó
các cửa Soài Rạp, Tiểu và Đại hãy còn là những bãi đất cạn chứ không thông
thương như bây giờ. Đại Nam Lược Truyện, quyển 1, đã ghi rõ: “Nguyễn Hữu
Cảnh chiêu mộ dân sơ tán từ châu Bố Chánh, nay là
Quảng Bình, trở vào Nam vào hai vùng Trấn Biên và Phiên Trấn để khai khẩn đất
hoang. Sau đó, ông cho đặt thôn, xã, phường, ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên
vào sổ đinh.”
(43) Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và
Long Hồ.
(44) Nay là chợ Điều Khiển.
(45)
Nơi nầy sau được gọi là Đồn Dinh
ở Sài Gòn. Theo tài liệu của bàn dịch Pháp văn của Gaspardone, dịch ra từ bản
chữ Hán của Trịnh Hoài Đức. Bản chép tay có số A. 708 q. 9-4, fo 12 của trường
Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Theo nhà khảo cổ Louis Malleret thì vị trí của Đồn Dinh
ở khoảng đường Lê văn Duyệt. Tuy nhiên, theo Đại Nam Nhất Thống Chí nói, Đồn
Dinh từ xóm Tân Mỹ được dời về xóm Tân Thuận. Theo đó, ông Louis Malleret kết
luận rằng Đồn Dinh nằm trong địa phận huyện Tân Bình.
(46) Tức Chợ Lớn cũ.
(47) Tức Chợ Thiếc hay Chợ Phó Cơ Điều.
(48) Chợ Bến
Thành bây giờ chỉ mới được xây lại vào khoảng những năm 1903 hay 1904 mà thôi.
(49) Theo Gia
Định Thành Thông Chí, Tập hạ, trang 114: “Sau khi Thành Qui được xây đắp thì
dân cư
đông đúc; phố chợ san sát; nhà tường, nhà ngói liên
tiếp nhau. Tàu ghe từ ngoài biển đến buôn bán qua lại, cột buồm liền lạc, xưng
là xứ đô hội, cả nước không đâu sánh bằng.” Còn theo Nam Phong Tạp Chí, số 77
tháng 11 năm 1923, trong một “Bài Phú Cổ Gia Định”, không rõ tác giả, nói về
đất đai và phong cảnh Gia Định trước thời Pháp chiếm Nam Kỳ, từ chợ Bến Thành,
Chợ Sỏi, Chợ Lớn, Chợ Gạo, Lò Gốm, Cây Gõ, Phú Lâm, Cầu Bông, Thị Nghè, Gò Vấp,
vv... từ đường sá, xóm làng, nhà cửa, phố phường, đình chùa, miếu mạo, ngay cả
sinh hoạt trên bến dưới thuyền rất đầy đủ. Tàu bè các nước lui tới buôn bán tấp
nập. Đây quả là một tài liệu vô cùng quí giá cho những ai muốn biết đến sinh
hoạt của người dân đất phương Nam hơn hai thế kỷ về trước.
(50) Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà
Tiên.
(51) Phó Tổng Trấn.
(52) Tương ứng với ba bộ Hộ-Binh-Hình.
(53) Tương ứng với ba bộ Công-Lại-Lễ.
(54) Ngày nay là các quận 1, 3, 10, Tân Bình, Phú Nhuận,
Bình Thạnh, 4, 12, huyện Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ, và Nhà Bè.
(55) Ngày nay là các quận 5, 11, 6, 8, huyện Bình Chánh,
một phần của huyện Nhà Bè, Bình An, quận 9, 2, và huyện Thủ Đức.
(56) Thành Gia Định.
(57)
Đây là khu chợ Bến Thành Cũ, chứ
không phải là chợ Bến Thành ngày nay. Chợ Bến Thành bây giờ chỉ mới được xây
lại vào khoảng những năm 1903 hay 1904 mà thôi.
(58) Bây giờ có tên là rạch Bến Nghé.
(59) Phần sông Đồng Nai chảy vào địa phận quận Nhà Bè, dài khoảng 9 cây số.
(60) Còn có tên là Langbiang, một cao nguyên cao trên
1.500 mét.
(61) Vùng Bảo Lộc.
(62)
Có sách viết là Lòng Tàu, đây là
một thủy lộ quan trọng cho tàu bè đi vào thương cảng Sài Gòn.
(63) Người Gò Công quen gọi là cửa Vàm Láng.
(64) Dân Sài Gòn gọi là kinh Ruột Ngựa.
(65) Theo
Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông Chí”, Lý Việt Dũng dịch và chú giải,
NXB
Tổng Hợp Đồng Nai, TPHCM, 2005, tr. 114.
(66) Tức là Gia Định Thành.
(67) Nay là sông Sài Gòn.
(68) Sau nầy là Kinh Bảo Định, được Nguyễn Cửu Vân nạo
vét và đào rộng ra.
(69) Thành Gia Định.
(70) Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức,
thì lần nầy người Hoa chết cả hơn 10 ngàn người.
-------------
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
Đất Phương Nam Quyển 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét