一剪梅 Nhất Tiễn Mai
紅藕香殘玉簟秋 Hồng ngẫu hương tàn ngọc điệm thu
輕解羅裳 Khinh giải la thường
獨上蘭舟 Độc thướng lan chu
雲中誰寄錦書來 Vân trung thùy ký cẩm thư lai
雁字回時 Nhạn tự hồi thì
月滿西樓 Nguyệt mãn tây lâu (*)
花自飄零水自流 Hoa tự phiêu linh thuỷ tự lưu
一種相思 Nhất chủng tương tư
兩處閑愁 Lưỡng xứ nhàn sầu
此情無計可消除 Thử tình vô kế khả tiêu trừ
才下眉頭 Tài há my đầu
卻上心頭 Khước thướng tâm đầu.
李清照 Lý Thanh Chiếu
(*) Câu này Tác giả mượn chuyện nàng Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới mái lầu tây trong vở Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ.
Dịch nghĩa
Mùi thơm của sen hồng đã tan rồi và thu cũng về trên chiếc chiếu ngọc
Nhẹ nhàng cởi chiếc áo lụa
Một mình lên chiếc thuyền lan
Biết có ai gởi thư gấm trong mây đến chăng
Đàn nhạn bao giờ quay về
Ánh trăng ngập cả lầu tây
Hoa tự trôi dạt nước vẫn tự chảy
Một thứ nhớ nhung
Nên hai nơi phải buồn trong lặng lẽ
Tình này không còn cách nào để xóa bỏ
Xuống tận đầu mi
Vào tận đáy lòng.
Thơ Dịch
Thu về chiếu lạnh sen tàn
Trên thân áo lụa nhẹ nhàng cởi ra
Thuyền lan bước xuống mình ta
Thư mây chưa đến quê nhà mòn trông
Nhạn đàn biết có về không
Khiến nàng Thôi đợi trăng lồng lầu tây
Nước vẫn chảy hoa rụng bay
Tương tư là chữ đắng cay bao đời
Nỗi buồn lặng cả hai nơi
Biết làm sao để cắt rời tình si
Sầu dâng đến tận đầu mi
Tim luôn đau thắt cũng vì nhớ thương.
Quên Đi
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét