Ca dao tục ngữ Sài Gòn
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những
nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải
là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn
không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh
nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa
nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô,
nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật
gần những xưa thật xa, vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay,
chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi
bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho.
Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu
nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham
hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.
Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên
nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng
lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu,
vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như
người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa.
Sự ước vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Saigon ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước
đây là bến tàu và hàng ngày thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành lao xao.
Sao lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng đây là bến của đô thành Saigon
hay của Gia Định thành? Còn khách bộ hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om!
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.
Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người
mình thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi! Kể
cũng đáng buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức bình trà (om)
ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm hận, trút mối giận vào
om, cái bình trà vô tội.
Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam vời vợi.
Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người
dân miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người Tây? Số dân
phu ắt nhiều lắm, Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu
vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ,
phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng
bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
Nhà tan nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời cu ly!
Người dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân
để nịnh bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng
rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và trong khi
sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng
công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn
công ở sức người.
Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn
muốn nói không ra, đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em.
Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long
ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy.
Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp đóng, cọ dựng cột cờ. Con người ái quốc
trông hai nơi này căm gan sôi ruột! Ai đã khéo đạt ra cau ca dao trên để
kích thích lòng căm hờn của người dân Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở
vườn Tao Đàn, gọi một cách nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là
Ba, ai là dân Việt ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có ba
dòng đầu có thể gợi sự nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai
hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân che dấu ý kín
của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng cũng là
lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng
nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú người Pháp để cầu
công danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái
Việt Nam kém ý thức, vì hoàn cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me
Tây. Lính Pháp lấy me trong thời gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về
Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt lại lấy chồng, đậng một anh lính khác,
chẳng khác chi các nàng Giao chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm
1975 sánh duyên cùng các chú lính Mẽo:
Saigon mũi đỏ,
Gia Định súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây.
Thuyền, tàu Saigon hồi đó sơn mũi đỏ để phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm soát.
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây
đã ra cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết
duyên cùng người mới.
Về các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới
một câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
Còi súp lê một anh còn than thở,
Còi súp lê hai anh nức nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên.
Cuộc tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đã
thút thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay
chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu
thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên hình thức, còn
thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với những lứa đôi dị
chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.
Saigon nơi có đô hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Saigon cây to bóng mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi.
Đường Saigon có đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây
với đất phù sa của đồng bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới thời
Pháp thuộc, đường Saigon cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này
tráng nhựa... Ngày nay, với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay
tráng nhựa, mà chính quyền có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người
than:
Đường Saigon ổ gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà.
Ca dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.
Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.
Sáng mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem về.
Cho con hai nó cắt, con ba nó may,
Con tư nó đột, con năm nó viền.
Con sáu đơm nút, con bảy vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo anh?
Ca dao Saigon hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết.
(Trích tác phẩm "Hương Nước Hồn Quê" – Toan Ánh)
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè
quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng
tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây "chàm rai" là cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa
bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng
tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe
cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là
một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu,
nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm
1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa
danh, một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ
nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ
nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi
trên đường lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã
ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch
Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử
bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi
trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà
đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay:
Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng
Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà
Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài
Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai
xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới
với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14,
quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân
Tạo. Bà Tàng,vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu
bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng,
Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng
là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa
ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu
khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa. Nhiều tên đường
cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9
quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre
Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay. Bà Ký là
đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm
Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở
Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường
Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là
Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn nhiều "bà" nữa
mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một
vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí
dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè,
câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống
trải trong lòng vậy.
Ở Sài Gòn địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông
Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi
trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có
chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa
bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm! Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh
binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 - 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm
và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh
Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua,
chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người
bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng
chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông
Thượng thì biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi
bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên
dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30
của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu
diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay
đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố , hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông
Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất
cao (gọi là giồng) có lẽ là của ông chăng?
Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ
(còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4,
5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ
là gợi ngay đến các hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con thui vàng
rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa
Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng
Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc
dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường
gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được
xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này
về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988, Bộ Văn hóa - Thông tin
công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ
chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ
trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch,
cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân
Hóa tới rạch Lò Gốm); rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân
Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch
Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An
Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông
Tiều... Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Về vài địa danh mang tên thảo mộc
Ở Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên thảo mộc. Trong khuôn khổ bài
viết nầy chúng tôi chỉ đề cập đến Gò Vấp, Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng
Trôm, Thốt Nốt và Bạc Liêu mà thôi.
Trước năm 1975 Gò Vấp là một quận của tỉnh Gia Định gồm có 8 xã. Quận lỵ
Gò Vấp cách Sài Gòn 10km. Đó là nơi có nhiều thành quách (An Nhơn, Hạnh
Thông Tây), vườn rau cải (Hạnh Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới),
vườn dừa (An Phú Đông, Bình Triệu), vườn sầu riêng, măng cụt (Nhị Bình),
vườn bưởi (Thạnh Lộc) với hai xã đông dân cư và phồn thịnh về kinh tế
và thương mại gần Sài Gòn: Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Sau năm 1975 Gò Vấp là một quận trong thành phố. Diện tích Gò Vấp bấy
giờ thu hẹp chỉ còn 20 km2. Các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây trở thành quận
Bình Thạnh, Nhị Bình, Thạnh Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận Hóc
Môn.
Gò Vấp là quận đông dân cư. Đó là nơi có nhiều giáo đường và chùa chiền.
Viện Mồ Côi và bịnh viện Cộng Hòa nằm trong quận nầy. Sau năm 1954 Gò
Vấp nổi tiếng về việc sản xuất pháo (Xóm Mới).
Địa danh Gò Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa học của cây vấp là
Mesua coromandelina, Mesua ferrea, Mesua nagassanium... thuộc gia đình
Clusiaceae hay Guttiferae. Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka
và các quốc gia Đông Nam Á. Người Ấn Độ gọi là nagkesa; tiếng Phạn
(Sanskrit): nagakesara; Khmer: bos neak. Người Anh gọi là cobra saffron
vì theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con rắn và chữ saffron gợi lên màu
vàng của cây vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là iron wood tree hay
Ceylon ironwood (thiết mộc Tích Lan).
Cây vấp cao từ 15 - 20m. Gỗ màu vàng rất cứng, ngâm duới nước không bị
rã mục. Lá cây vấp nhọn, thon, dài trông rất đẹp. Lá non màu đỏ bầm. Hoa
to, màu trắng bốn cánh với nhụy vàng. Hoa có hương thơm. Trái có hột
dùng để lấy dầu.
Gỗ cây vấp dùng để làm nhà, ngạch đường rầy xe lửa rất tốt. Dầu lấy từ
hột cây vấp dùng để thắp đèn. Cây vấp là quốc mộc ở Sri Lanka (đảo
Ceylon: Tích Lan), nơi cây vấp được gọi là nahar.
Người ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm thuốc trị bịnh. Hoa được
dùng để trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt, bất lực sinh lý. Dầu
dùng để trị các chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp. Dầu cây vấp có
nhiều ác xít béo: ác xít stearic. oleic, linoleic và arachidic. Hoa khô
dùng để trị bịnh trĩ, kiết lỵ. Hoa tươi trị ngứa, kinh nguyệt, khát nước
quá độ (tiêu khát; tiểu đường), ra mồ hôi. Rễ dùng để trị rắn cắn. Lõi
cây vấp có nhiều xanthones: euxanthones, mesuaxanthones A, mesuaferrone
B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids: mesuaferrone A và mesuaferrone B và ác
xít mesuanic. Vỏ có ferruol B và triterpenoid gutiferol.
Trước năm 1954 Củ Chi là một quận trong tỉnh Gia Định. Sau năm 1954 quận
nầy nằm trong tỉnh Bình Dương một thời gian ngắn. Khi tỉnh Hậu Nghĩa
được thành lập, Củ Chi nằm trong tỉnh tân lập nầy. Trước năm 1975 Củ Chi
có 14 xã.
Sau năm 1975 Củ Chi là một quận ngoại thành của thành phố. Quận Củ Chi
nằm cách Sài Gòn 40 km. Diện tích quận Củ Chi lối 435 km2. Đa số dân đều
sống bằng nghề nông và đan thúng rổ, làm vật dụng bằng mây. Củ Chi được
biết đến nhiều trong chiến tranh vừa qua. Vùng nầy nằm trong vùng Tam
Giác Sắt. Bộ tư lệnh Sư Đoàn 25 đóng tại đây. Sau năm 1975 tân chế độ
gọi Củ Chi là Đất Thép Thành Đồng và biến Địa Đạo Củ Chi thành vùng du
lịch.
Củ Chi là sinh quán của Trần Minh Tiết, Chánh Án Tối Cao Pháp Viện VNCH; Phan Văn Khải, cựu thủ tướng CHXHCNVN.
Địa danh Củ Chi phát xuất từ tên gọi của cây củ chi tức mã tiền. Cây củ
chi hay mã tiền được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Tên khoa học
của nó là Strychnos nux-vomica thuộc gia đình Loganiaceae. Người Anh gọi
là poison nut (vì độc chất của mã tiền), quaker buttons, snake-wood,
nux-vomica, strychnine tree. Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm về việc
dùng mã tiền (củ chi) làm thuốc. Họ gọi mã tiền (củ chi) là kuchala.
Người Trung Hoa gọi là ma qian zi.
Cây củ chi cao đến 25 m. Lá bầu như trầu. Trên lá có nhiều gân lá song
song với rìa lá. Hoa nhỏ màu trắng ngà kết thành chùm. Trái tròn màu
vàng cam khi chín. Gỗ trắng và cứng.
Củ chi nổi tiếng vì độc chất của nó. Nhưng độc chất đó cũng được nghiên
cứu kỹ lưởng để dùng vào việc chữa trị bệnh. Nó có alkaloid strychnine
rất độc. Vỏ có brucine và nhiều hợp chất độc khác. Nói chung cây củ chi
có nhiều độc chất. Nhưng dùng ở liều lượng đúng, nó trở thành thuốc trị
đau bụng, gây nôn, táo bón, mất ngủ, bịnh tim, thần kinh, tinh thần hồi
hộp bất an, kinh nguyệt không điều hòa, bịnh hô hấp của người già, viêm
vành tai ngoài gây ngứa ngáy khó chịu.
Trong y học dân gian người ta xem mã tiền như thuốc bổ tạo sự thèm ăn.
Hiện nay ở Trung Hoa người ta nghiên cứu xem củ chi có thể dùng vào việc
chữa trị ung thư gan hữu hiệu hay không.
Tràng Bàng là một quận trong tỉnh Tây Ninh gồm có 7 xã. Quận nầy nằm
cách Sài Gòn 50 km về phía tây bắc. Quận Trảng Bàng rộng lối 340 km2.
Trảng Bàng nổi tiếng với bánh canh giò heo ăn với bánh tráng phơi sương
(không cần nhúng nước), rau rừng và nước mắm pha chế đặc biệt của người
miền đông Nam Bộ. Năm 1972 một bức ảnh chụp một em bé trần truồng chạy
ngoài quốc lộ ở Trảng Bàng sau một cuộc dội bom napalm trong một làng
trong quận Trảng Bàng được giải thưởng Putlitzer.
Trảng Bàng là sinh quán của giáo sư Nguyễn Ngọc An, người sáng lập hai
trường Minh Đức (Trảng Bàng) và Tân Dân (Hóc Môn). có một thời ông là
tổng trưởng bộ Thông Tin và Chiêu Hồi.
Theo từ nguyên thì Trảng (savanna) là một vùng đất trống có nhiều cỏ và
cây cùng một loại mọc lưa thưa. Bàng là cây bàng, một loại thảo mộc được
tìm thấy nhiều ở Nam Á, Đông Nam Á, Nam Hoa, các hải đảo Thái Bình
Dương và biển Caribbean.
Tên khoa học của cây bàng là Terminalia molucca (còn nhiều tên khác)
thuộc gia đình Combretaceae. Chữ molucca trong tên khoa học cho thấy
nguồn gốc Molucca, Indonesia, của loại thảo mộc nầy hay ít ra nó cũng có
nhiều trên đảo nầy. Người Anh gọi cây bàng là umbrella tree (vì bóng
mát rộng lớn của nó), tropical almond (hạnh nhiệt đới) như người Tây Ban
Nha gọi almondro de la India (hạnh Ấn Độ) Người Miến Điện gọi là badan
và Khmer là pareang prang.
Cây bàng cao đến 25 m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rộng lớn. Lá bàng
to, dày và láng. Vào mùa thu lá chuyển sang màu vàng rồi đỏ rất đẹp
trước khi rụng. Trái bàng khá to, cơm dày ăn được. Hột có nhiều dầu và
có mùi dễ chịu. Hột được ăn sống hay rang chín. Lá hay hoa cây bàng đều
đẹp. Lá tươi hay khô đều được dùng làm thuốc nhuộm. Màu xanh chuyển sang
màu vàng khi cho phèn chua và sulfate sắt vào. Gỗ cây bàng rất cứng và
đẹp. Nó được dùng để cất nhà hay làm đồ mộc. Trồng cây bàng để có bóng
mát, có nhiều gỗ, thanh lọc không khí, chống xâm thực ngoài bờ biển và
tạo phong cảnh đẹp.
Lá, gỗ, vỏ, hột cây bàng đều được dùng làm thuốc. Sự dồi dào tannins của
lá, vỏ làm cho cây bàng hữu dụng trong việc trị chứng tiêu chảy, kiết
lỵ và đau nhức. Hột được dùng làm thuốc trị huyết tiện (hematuria). Ở Ấn
Độ người ta dùng lá bàng trị tê thấp. Kết hợp với thuốc xức để trị ghẻ,
phong hủi và các chứng bịnh về da.
Trái bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có punicalag.
Hồ Đình Vũ
Hoàng Trần sưu tầm
( Theo longhovinhlong.blogspot.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét