Cây Trái Miệt Vườn Của Vùng Đất
Bình Dương:
Ngoài những đồn điền trồng cây tiêu(17), vùng đất xám là vùng đồng bằng bồi đắp bởi phù sa
từ các con sông Sài Gòn, Đồng Nai và Sông Bé chạy dài trên 100 cây số, từ Dĩ
An, Lái Thiêu, lên Thủ Dầu Một, qua Tân Uyên, tạo nên các vườn cây ăn trái và
những cánh đồng màu mỡ tại vùng Lái Thiêu, nổi tiếng miệt vườn của miền Đông
với các loại trái cây như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, mít, xoài, mãng cầu,
mít tố nữ, vân vân. Phải thật tình mà nói, Lái Thiêu là một vựa trái cây nổi
tiếng nhất nhì Nam Kỳ, nhưng nổi tiếng nhất là hai loại sầu riêng và măng cụt.
Ngày nay ở Sài Gòn, hễ nói đến trái cây là người ta nghĩ ngay đến các vườn cây
ăn trái ở Lái Thiêu, đặc biệt là những vườn măng cụt Lái Thiêu. Thật vậy, ở Lái
Thiêu có những vườn măng cụt rộng đến hàng chục mẫu đất, với hàng ngàn cây, và
mỗi cây hàng năm cho ra vài trăm trái. Măng cụt là một loại trái cây đứng vào
hàng đệ nhất đặc sản của Lái Thiêu, có vị thơm ngon khác hẳn với bất cứ nơi nào
ở Nam Bộ. Măng Cụt có tên khoa học là ‘mangou stana’, tên tiếng Anh là
mangosteen, lớn cỡ trái quít, có vỏ dầy với màu nâu đỏ, bên trong trái có từ 5
đến 6 múi màu trắng, có vị thoáng chua mà ngọt và mùi thơm. Khi trái còn xanh,
người ta có thể lấy ruột măng cụt cắt mỏng ra để trộn gỏi, ăn có vị chua chua
ngọt ngọt, rất ngon. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, được nhà Nguyễn soạn
trong khoảng từ 1864 đến 1875, bản dịch của Nguyễn văn Tạo, năm 1973, trong mục
‘Thổ Sản’ của tỉnh Biên Hòa, có nhắc đến trái măng cụt tại huyện Bình An, tức
địa phận tỉnh Bình Dương ngày nay. Và trước đó, vào thời Minh Mạng, khoảng từ năm
1820 đến năm 1840, nhà vua cũng đã từng biết đến trái ‘giáng châu tử’, tức trái măng cụt. Trong quyển
‘Địa Chí Sông Bé’, xuất bản năm 1991, trong bài ‘Vườn Lái Thiêu’, nhà văn Sơn
Nam đã viết: “Theo nhà khảo cổ học Louis Malleret, cây măng cụt có nguồn gốc từ Mã Lai
và được đem qua Việt Nam trồng đầu tiên ở nhà thờ họ đạo Lái Thiêu.” Vì thấy
hương vị đặc biệt của măng cụt, nên sau đó người dân Lái Thiêu đã lập vườn
chuyên trồng măng cụt. Theo Ngọc Am trong quyển ‘Địa Chí Sông Bé’, xuất bản năm
1991, trong bài ‘Vườn Cây Trái Lái Thiêu’, hiện nay Lái Thiêu được coi là vùng
có diện tích trồng măng cụt lớn nhất vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, theo thiển ý,
có lẽ tác giả Ngọc Am muốn nói đến thời kỳ sau năm 1897, tức là lúc Thủ Dầu Một
được thực dân Pháp chọn làm thí điểm canh nông đầu tiên tại Nam Kỳ, vì thời đó
đất đai Lái Thiêu hãy còn bao la bạt ngàn với những vườn cây măng cụt, chứ ngày
nay sau khi vùng Bình Dương được công nghiệp hóa, diện tích trồng cây ăn trái
đã bị thu hẹp, nên không thể nào hiện nay diện tích vườn măng cụt ở Lái Thiêu
vẫn còn nguyên vẹn như xưa được.
Miệt vườn
Lái Thiêu còn có một loại trái cây thuộc hàng đặc sản, và sự nổi tiếng của nó cũng không thua gì măng cụt, đó là trái sầu riêng, tên tiếng Anh
là durian, tên khoa học là ‘duris zibethius’, cũng có nguồn gốc từ Mã Lai(20). Phải nói sầu riêng là một trong những loại cây sinh sống giữa vùng xích
đới và nhiệt đới và rất khó trồng. Tuy nhiên, đất Lái Thiêu là vùng đất tốt,
nên trồng loại cây ăn trái nào cũng ra bông kết trái thật nhiều mà không thay đổi hương vị
nguyên gốc của nó. Trái sầu riêng có lớp vỏ rất cứng và có nhiều gai nhọn, bên
trong chia làm nhiều múi, mỗi múi chứa khoảng từ 2 đến 3 hạt, mỗi hạt đều được
bao bọc bởi một lớp cơm dầy, có màu ngà, với mùi thơm nồng và gắt; tuy nhiên,
rất nhiều người không chịu nổi mùi sầu riêng. Ngày nay, trên đất Bình Dương
người ta lập vườn khắp nơi để trồng sầu riêng, nhưng có lẽ không đâu sánh bằng
Lái Thiêu. Nhờ mùi thơm nồng nên sầu riêng còn được các nhà ẩm thực pha chế vào
một số thực phẩm thông dụng như kem, mứt, bánh, kẹo, xôi chè, vân vân. Ngoài
hai loại đặc sản của vùng đất Bình Dương là măng cụt và sầu riêng, mít tố nữ
Bình Dương cũng nổi tiếng không kém. Đây là loại mít trái nhỏ, múi không dính
với sơ, chỉ cần xẻ dọc một đường ngoài vỏ, rồi chẻ ra thì sơ sẽ dính hết vào
vỏ, còn lại là những múi bám chặt vào lõi. Mít tố nữ có mùi thơm ngon và ngọt
không có loại mít nào có thể sánh bằng.
Khi đến vùng Lái Thiêu-Thuận An, người ta sẽ thấy
hiện ra trước mắt một cảnh quang ‘miệt vườn’ hết sức đặc sắc của miền Đông Nam
Phần, với một màu xanh của những vườn cây ăn trái bạt ngàn rộng hàng ngàn mẫu
đất. Đây là một vùng sông, nước, kinh, rạch san sát nhau bên tả ngạn của sông
Sài Gòn. Nếu chúng ta đến đây vào những ngày mùa trái chín, chúng ta sẽ thấy
trên nền xanh của miệt vườn rộn ràng vui mắt với đủ màu đủ sắc của những loại
trái cây chín như vàng, tím, đỏ.. với tràn đầy hương vị nồng nàn của mít tố nữ,
sầu riêng, măng cụt, dâu, xoài, ổi, mận, vù sữa, chôm chôm. Vào năm 1972, có
lần tôi theo anh bạn về quê của anh ta ở Lái Thiêu, nhân tiện tôi đã đi một
vòng quanh những làng vườn trái cây Lái Thiêu. Có đến tận nơi, có thấy tận mắt
những sinh hoạt của người dân miệt vườn Lái Thiêu mới thấy được khung cảnh sinh
hoạt cũng như những tình cảm gắn bó mà họ đã dành cho làng quê của họ, thật
chân chất mà thật khắng khít. Tôi nghĩ người dân Lái Thiêu yêu làng quê của họ
đến độ không một thứ gì có thể tách rời họ ra khỏi nơi mà họ đã sanh ra và lớn
lên.
Ngoài những đồn điền trồng cây tiêu và những trái
cây nổi tiếng như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, mít, xoài, mãng cầu, mít tố
nữ, vân vân, Bình Dương còn nổi tiếng với những đặc sản như bánh bèo bì chợ
Búng và bún tôm Châu Trúc. Bánh bèo bì chợ Búng được làm từ loại bột gạo đỏ rất
thơm. Sau khi đổ bột vào khuôn, người ta bỏ vào bên trên cái bánh một ít đậu
xanh không vỏ đã được quết ra cũng thành bột. Thường thì trong một dĩa bánh bèo
người ta để thêm vào thịt heo khìa trộn thính rồi cắt thành sợi như cọng bún
(giống như bì của miền Tây, nhưng không có da heo). Khi ăn chỉ cần thêm vào một
ít dưa chua, rau thơm, giá sống và rắc đậu phộng đâm rồi chan nước mắm tỏi ớt
lên chúng ta sẽ có một dĩa bánh bèo bì chợ Búng thật đặc sắc. Còn bún tôm Châu
Trúc cũng ngon không kém gì bánh bèo bì chợ Búng.
Nghề Mộc Và Nghệ Thuật Điêu Khắc
Trên Gỗ Của Tỉnh Bình Dương:
Ngày trước, hầu như toàn bộ các miền đất Bình
Dương, từ Phú Giáo qua Dầu Tiếng, xuống Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, và Dĩ
An... đi đâu đến đâu người ta cũng thấy rừng là rừng. Đối với dân Bình Dương,
rừng là huyết mạch, rừng là tài sản quí báu mà vùng đất nầy đã ban tặng cho họ.
Mà thật vậy, rừng Bình Dương đã không phụ lòng người tại đây, vì trong những
khu rừng nầy người ta sẽ tìm thấy toàn là những loại gỗ tốt như sao xanh, sao
vàng, sao đá, sao chân tôm... Đây là những danh mộc quí hiếm cho kỹ nghệ đóng
ghe xuồng. Ngày trước, nghe nói đến ghe ‘Thủ’ ai cũng phát thèm vì chất lượng tốt của gỗ, cũng như độ bền và sức
chịu đựng dưới nước của chúng. Có lẽ ngày nay không còn những khu rừng sao bao
la bạt ngàn như vào thập niên 1950 nữa, nhưng ngày trước, về phía bắc Thủ Dầu
Một, những cây sao mọc thành rừng. Chính vì vậy mà ngày nay vẫn còn những địa
danh như ‘Sở Sao’, ‘Dầu Tiếng’, vân vân. Ngoài cây dầu và cây sao ra, rừng Bình
Dương còn có rất nhiều loại gỗ quí khác như gõ, huỳnh đàn, giáng hương, trai,
vân vân. Cây gõ là một loại cây có thớ thịt tím thâm, cứng và rất nặng, người
ta thường dùng gõ làm cột nhà, vì nó có thể chịu đựng hàng mấy trăm năm. Cây
huỳnh đàn có sớ thịt trắng, có thể chịu đựng lâu năm dưới đất, nên người ta
thường dùng huỳnh đàn để đóng hòm. Cây giáng hương có mùi thơm, màu gỗ cũng tốt
như cẩm lai nên người ta thường dùng nó để đóng bàn ghế. Cây trai là một trong
những loại cây rất bền, có thể chịu đựng hàng trăm năm không mục. Dầu trai rất
tốt, thường được dùng để trét ghe xuồng. Muốn lấy dầu trai, người ta đụt vài
cái lỗ gần gốc cây, rồi đốt lửa vào cho nhựa chảy ra, mà dân địa phương gọi là
dầu rái. Đây là một trong những nguồn tài nguyên quí hiếm và đặc biệt của vùng đất
Bình Dương.
Chính nhờ tài nguyên lâm sản phong phú như vậy mà
Bình Dương ngày nay rất nổi tiếng về ngành mộc và nghệ thuật điêu khắc cũng như
chạm trổ trên gỗ. Cũng như các vùng khác của miền Nam, cư dân Bình Dương ngày
nay đều là con cháu của các lưu dân vùng Thuận Quảng từ miền Trung Việt Nam đi
vào thời khẩn hoang lập ấp. Ngoài những nông dân và những người không có nghề
nghiệp chuyên môn, còn có rất nhiều người thợ thủ công đủ các loại ngành nghề.
Khi vào vùng đất miền Nam đầy hứa hẹn nầy, từ nông dân đến những người thợ
chuyên môn, vừa hành nghề và cũng vừa truyền nghề lại cho những thế hệ sau nầy.
Nhờ vậy nên chỉ sau thời khẩn hoang lập ấp chừng nửa thế kỷ, nghĩa là đến giữa
thế kỷ thứ XVIII, ngành mộc và điêu khắc trên gỗ tại vùng Bình Dương ngày nay,
tức vùng tổng Bình An ngày trước, đã lên đến tột đỉnh nghệ thuật. Đến cuối thế
kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, sản phẩm ngành mộc tại các vùng Lái Thiêu và Thủ
Dầu Một đã được ưa chuộng trong nhiều tổ hội chợ tại Hà Nội cũng như tại Pháp.
Hiện tại, tại thị xã Thủ Dầu Một vẫn còn những ngôi nhà bằng gỗ quí, chỉ nối
kết bằng các khớp mộng, chứ không dùng đinh sắt. Trong những ngôi nhà nầy, các
bao lam đều được trang trí bằng các công trình mỹ thuật chạm trổ hết sức tinh
vi, từ các bức tranh bông sen, chim cò, chim phượng, đến bát tiên và lưỡng long
tranh châu, vân vân. Sau khi đã đi qua và quan sát các loại hình chạm trổ trên
gỗ nhiều nơi tại miền Nam, mình mới thấy quả là chưa có nơi nào có thể qua mặt
được Thủ Dầu Một về mặt nầy. Năm 1901, thực dân
Pháp đã thành lập trường Mỹ Nghệ Thực Hành tại Thủ
Dầu Một, còn gọi là trường Bá Nghệ, chuyên dạy đủ thứ các ngành nghề liên hệ
đến ngành mộc.
Bên cạnh những người thợ thủ công lành nghề người
Việt Nam, phải nói người Hoa cũng góp phần không nhỏ trong việc đưa ngành mộc
và chạm trổ trên gỗ của Bình Dương lên hàng đầu. Họ là hậu duệ của những người
Minh Hương đã cùng tướng Trần Thượng Xuyên đến khai phá vùng Cù Lao Phố hồi hậu
bán thế kỷ thứ XVII, rồi sau đó tản mác đi khắp các tỉnh miền Đông. Do nhu cầu
tạo tác tượng thờ trong các đình chùa, như các tượng Phước Lộc Thọ, Quan Công,
Bồ Tát, Phật, hay Thập Bát La Hán, Thập Điện Minh Vương, Văn Thù, Phổ Hiền, Hộ
Pháp, vân vân, mà những người thợ lành nghề tại vùng Bình Dương đã tạo nên
những pho tượng trứ danh, vẫn còn lưu lại đến ngày nay. Chính nhờ vậy mà nét
đặc sắc của ngành chạm trổ và điêu khắc tại đây là các tượng gỗ với nét mặt vừa
trang nghiêm mà hiền hòa, nói lên được bản sắc đặc thù của người dân Nam Kỳ. Ngoài nghệ thuật tạo
tác những pho tượng gỗ, người Bình Dương còn có khả năng chạm lộng(21) trên gỗ những tác phẩm nghệ thuật hết sức đặc sắc như Phước Lộc Thọ, Bát Tiên, Bát Bửu,
Mai-Lan-Cúc-Trúc, Thập Bát La Hán, và Mai-Điểu, vân vân. Hiện tại, những tác
phẩm trứ danh nầy vẫn còn tồn tại trong các đình chùa ở Bình Dương. Bên cạnh
nghệ thuật chạm lộng, người Bình Dương còn có khả năng chạm nổi những bức phù
điêu nhằm trang trí các bờ rìa của những tấm hoành phi, liễn đối hay bàn hương
án, và các cột tròn trong nhà cũng như tại các đình chùa. Ngoài ra, ngay từ
thời xa xưa, người Bình Dương đã biết tận dụng những gốc cây lớn để tạo thành
những tác phẩm nghệ thuật hết sức độc đáo và có giá trị thẩm mỹ rất cao.
Ngành Thủ Công Nghệ Sơn Mài Và
Gốm Sứ Tại Bình Dương:
Về nghệ thuật sơn mài và điêu khắc trên gỗ chắc
không có địa phương nào ở miền Nam có thể qua mặt được Bình Dương. Đối với
người Bình Dương, nghệ thuật tạo tác sơn mài và điêu khắc trên gỗ không chỉ đơn
thuần là cái nghề kiếm cơm, mà hai ngành nầy đóng vai trò rất quan trọng trong
việc giữ gìn truyền thống cổ truyền từ cha anh ngay từ thời còn đi khai hoang
trong vùng. Mà thật vậy, ngày nay nếu chúng ta chịu khó ngồi lại để ngắm nhìn
một tác phẩm sơn mài hay điêu khắc trên gỗ của Việt Nam, chúng ta sẽ thấy phảng
phất đâu đó một trời Việt Nam trong tác phẩm nầy. Đây là những ngành thủ công
nghệ có lẽ xuất phát từ những nhu cầu cần thiết của lưu dân buổi đầu đi khẩn
hoang. Khi vào các vùng hoang địa của rừng núi miền Đông, lưu dân không mang
theo thứ gì, ngoại trừ những hiểu biết về những nghề thủ công nghệ truyền thống
đã được lưu truyền từ nhiều đời ở miền ngoài(22), như các ngành mộc, sơn mài, điêu khắc trên gỗ, vân vân. Thêm vào đó,
rừng đồi miền Đông Nam Phần thời đó lại có rất nhiều gỗ quí có thể dùng làm
nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm, xây dựng nhà cửa, cũng như đóng ghe thuyền
cho việc vận chuyển như các loại sao, dầu, cẩm lai, trắc, gõ, mun, trai, huỳnh
đàn, giáng hương, vân vân.
Sau khi xâm chiếm miền Nam, thực dân Pháp đã sớm
nhận ra ngành nghề thủ công mỹ nghệ của người Việt rất tinh xảo, nên ngay từ
năm 1901, trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một đã được thành lập, vì từ thời nhà Nguyễn,
Thủ Dầu Một đã nổi tiếng với những ngành mộc, chạm trổ, cẩn ốc xa cừ, và sơn
mài. Về sau nầy, hầu hết những học sinh tốt nghiệp trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một
đều trở thành những tay thợ giỏi, những nhà giáo hay những nghệ sĩ, họa sĩ tài
ba của miền Nam. Đến năm 1964, chánh quyền Đệ Nhị Cộng Hòa đã quyết định biến
trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một thành trường Kỹ Thuật Bình Dương. Từ đó về sau nầy,
đã có rất nhiều người đã thành danh từ ngôi trường nầy. Riêng về ngành sơn mài
đã phát triển mạnh tại Bình Dương từ thế kỷ thứ XVII. Đây là một trong những
ngành thủ công nghiệp cổ nhất của miền Nam, nó đã góp phần không nhỏ trong việc
phát triển kinh tế cũng như
trong cuộc
an cư lạc nghiệp của dân chúng trong vùng đất Bình Dương.
Lái Thiêu(23) còn là cái nôi của tranh sơn mài nổi tiếng tại miền Nam, với những làng
thủ công nổi tiếng như làng sơn mài Tương Bình Hiệp(24). Từ thị xã Thủ Dầu Một đi trên quốc lộ 13 về phía Bắc khoảng 8 cây số là làng Sơn Mài Tân
Bình Hiệp, từ lâu đã nổi tiếng về sản phẩm sơn mài cha truyền con nối. Làng nầy
qui tụ những người thợ sơn mài chuyên môn từ các tỉnh miền Bắc và Trung vào Nam
lập nghiệp từ giữa thế kỷ thứ 18, và tại đây ngày nay hầu như nhà nào cũng sinh
sống bằng nghề sơn mài. Ban đầu thì họ chỉ truyền nghề trong gia đình (cha
truyền con nối), mỗi nhà đều làm riêng lẻ, hoặc vài nhà hợp tác với nhau làm
thành một công ty, nhưng về sau nầy, do nhu cầu sơn mài lên cao, người Pháp cũng
đặt mua tranh sơn mài rất nhiều, nên những người thợ lão luyện từ miền ngoài đã
truyền nghề lại cho dân địa phương. Những năm gần đây, để cung ứng kịp với nhu
cầu sơn mài sản xuất ra ngoại quốc, hàng chục hay hàng trăm gia đình kết hợp
lại thành một công ty tương đối khá lớn, cộng với việc cơ giới hóa các bộ phận
làm tranh nên việc sản xuất cũng khá nhanh và sắc xảo hơn. Phải nói Bình Dương
là một vùng đất có truyền thống rất lâu đời về mỹ nghệ. Đến đầu thế kỷ thứ XX,
thì hầu như trai tráng cả làng Tương Bình Hiệp đã trở thành những người thợ tài
hoa chuyên điêu khắc trên gỗ, chạm lộng, hay vẽ trên đồ gốm sứ. Sau nầy, những
thợ chuyên môn nầy qui tụ lại tại vùng Tương Bình Hiệp, chỉ chuyên làm sơn mài.
Vào những năm đầu thế kỷ thứ XX, sản phẩm của họ nổi tiếng từ trong quốc nội ra
đến hải ngoại. Chính vì vậy mà vào khoảng năm 1901, khi thực dân Pháp mở trường
Bách Nghệ Thủ Dầu Một, họ đã cho mời những tay thợ lão luyện của làng Tương Bình Hiệp về trường giảng dạy.
Đến hậu bán thế kỷ thứ XX(25), khi nói đến làng Tương Bình Hiệp người ta mặc
nhiên xem nó là làng sơn mài. Vào những năm nầy, làng Tương Bình Hiệp có
nhiều xưởng sơn mài nổi tiếng như Thành Lễ và Trần Hà, chuyên môn sản xuất
tranh sơn mài để xuất khẩu sang các nước Âu Mỹ. Sở dĩ tranh sơn mài ‘Tương Bình
Hiệp’ luôn giữ được tiếng tăm từ xưa đến nay là nhờ những tay thợ giỏi ở đây
lúc nào cũng tuân thủ những phương pháp cổ truyền trong kỹ thuật làm tranh như
sơn lộng, sơn mài vẽ chìm, sơn mài vẽ mỏng, sơn mài khoét trũng, sơn mài cẩn ốc
sa cừ, vân vân. Những người thợ lành nghề sơn mài tại vùng Tương Bình Hiệp có khả năng sáng tạo rất cao trong
các loại hình vẽ kiểu như hoa lá, long-lân-qui-phụng, phong cảnh địa phương,
nông dân làm ruộng, phụ nữ Việt Nam, hay ngư-tiều-canh-mục, vân vân. Sản phẩm
làm ra, ngoài những tuyệt tác qua tranh sơn mài, người Bình Dương còn dùng hình
thức sơn mài qua những đồ lưu niệm, hộp đựng đồ trang sức, tủ thờ, ghế ngồi,
hay bàn ăn, vân vân. Sau năm 1975, có lúc làng sơn mài Tương Bình Hiệp sa sút,
trai tráng phải bỏ nghề đi lập nghiệp ở xứ khác. Tuy nhiên, ngày nay ngành sơn mài
bắt đầu sống lại, và Tương Bình Hiệp vẫn luôn là trung tâm sơn mài nổi tiếng
trong cả nước(26).
Ngay từ khi mới di cư vào khẩn hoang lập ấp ở miền
Nam, cha anh chúng ta đã tìm thấy ở Bình Dương với một trữ lượng rất lớn về
Kaolin(27) và đủ
loại đất sét, là những nguyên liệu cần thiết cho việc phát triển
ngành gốm sứ. Và nhắc tới Bình Dương là người ta liên tưởng ngay đến những làng
gốm sứ nổi tiếng của miền Nam.
Thủ Dầu Một là một trong hai trung tâm sản xuất đồ gốm sứ lớn nhất của
miền Nam Việt Nam(28). Hiện nay, trong tỉnh Bình Dương có ba làng gốm truyền thống đã thành hình và phát triển cho đến ngày nay, như Phước
Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An), và Chánh Nghĩa (Thủ Dầu Một). Người
sành điệu chỉ cần nhìn vào lớp men tráng bên ngoài là họ có thể biết ngay xuất
xứ của loại gốm sứ đó. Lớp men tráng bên ngoài vừa đóng vai trò bảo vệ sản phẩm
mà cũng vừa mang phong thái của trường phái đã chế tác ra nó. Hiện tại, ngoài phong thái cổ truyền của
Việt Nam, các sản phẩm gốm sứ Bình Dương còn mang sắc thái của các trường phái
Trung Hoa(29) như Phúc
Kiến, Triều Châu và Quảng Đông, vân vân.
Về phía Bắc và Đông Bắc thị xã Thủ Dầu Một có nhiều
đất sét và đất đá ong, nên vùng đất Bình Dương còn nổi tiếng về ngành đồ gồm sứ
với hàng ngàn lò gốm. Theo các nhà nghiên cứu về gốm sứ Việt Nam, thì nguồn gốc
của gốm sứ Bình Dương xuất hiện từ vùng Tân Phước Khánh, trong
huyện Tân Uyên, là nơi có nhiều nguyên liệu thạch cao(30). Khoảng năm 1867, người Hoa ở Bình Dương đã xây
một ngôi miếu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, trong miếu có trang trí nhiều lư
hương và bình hoa bằng gốm sứ có xuất xứ từ làng Tân Khánh. Như vậy, người Hoa
đã đến vùng nầy từ trước khi ngôi miếu Bà Thiên Hậu được xây dựng. Ngày nay,
hãy còn nhiều lò gốm sứ của người Hoa trong vùng Tân Phước Khánh như lò Thái
Xương Hòa. Tuy nhiên, về sau nầy, đồ gốm sứ phát triển mạnh sang các vùng Lái
Thiêu và Thủ Dầu Một. Hiện nay, tại Lái Thiêu có rất nhiều lò gốm và lò gạch
sản xuất với số lượng cao và phẩm chất nổi tiếng cả nước. Các sản phẩm đồ gốm ở
đây rất nổi tiếng nhờ hình thức đã phong phú, kiểu cách rất đẹp lại
thêm nước men bóng và bền nên được nhiều người ưa chuộng. Nghề gốm sứ Bình
Dương(31) có lẽ đã
được du nhập vào Lái Thiêu vào cuối thế kỷ thứ XVII, do những người Hoa theo chân các
đoàn thuyền buôn đi vào, có lẽ từ Móng Cái đã đi vào Gia Định lập nghiệp. Họ đã
phát triển những lò gốm sứ trong vùng Lái Thiêu. Ngày nay, vùng Lái Thiêu vẫn
còn những lò gốm sứ lớn của người Hoa, như lò Anh Ký, Quảng Thái Xương, Kiến
Xuân, Liên Hiệp Thành, vân vân. Ngoài ra, tại Thủ Dầu Một còn có gần 500 lò gốm
sứ, và một số làng lân cận như Hưng Thịnh, Tân Phước Khánh,
vân vân. Tưởng cũng nên nhắc lại là Lái Thiêu đã sản xuất rất nhiều đồ gia
dụng, đồ trang trí mỹ nghệ và sản phẩm sơn mài đã từng tham dự tại các hội chợ
nổi tiếng thế giới. Những năm gần đây, tại Bình Dương có nhiều người chuyển hẳn
sang nghề làm đồ gốm, nhất là những làng Định Hưng, Thuận Giao, Bình Hòa và Chánh Nghĩa có hơn 500 lò gốm sứ.
Làng gốm Chánh Nghĩa(32) thời xa xưa còn có tên là làng gốm Bà Lụa, thuộc thôn Phú Cường, huyện Tân Bình. Đước thời Pháp thuộc, làng gốm Bà
Lụa thuộc làng Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một. Gôm Chánh Nghĩa có nguồn gốc từ gốm
Cây Mai bên Gia Định và từ Lái Thiêu chuyển lên vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19.
Có người cho rằng vào khoảng những năm từ 1840 đến 1850, đã có ba lò gốm xuất
hiện đầu tiên trong vùng đất nầy (Chánh Nghĩa); tuy nhiên, đa số các lò gốm tại
đây đều do người Hoa làm chủ.
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
---------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét