Trại thuỷ phi cơ trước chợ Biên Hoà
Địa Thế, Núi Non, Và Khí Hậu Trong Vùng Đất Biên
Hòa:
Tuy có nhiều sông ngòi và kinh
rạch, nhưng địa thế đất lại cao nên Biên Hòa không thuận tiện cho việc trồng
lúa nước. Ngược lại, tính từ năm 1924, Biên Hòa đứng đầu toàn quốc về ngành
trồng cao su. Ngoài ra, Biên Hòa rất thích hợp cho việc trồng dừa, cà phê, thuốc
lá, đậu phộng, thơm và các loại rau quả. Rừng Biên Hòa có rất nhiều gỗ quí như
gỗ lim, gỗ trắc, gõ, cẩm lai, thao lao, sao, dầu, vân vân. Thời Nam Kỳ Lục
Tỉnh, Biên Hòa là một vùng bao la rộng lớn chạy dài từ Bình Long, Phước Long,
Long Khánh, Thủ Dầu Một, xuống Biên Hòa bây giờ, đến tận Bà Rịa.
Bắc giáp tỉnh Bình Tuy và Bình Thuận (Phan Thiết), nam giáp tỉnh Gia
Định, đông ra tận biển Đông, tây giáp vùng Sài Gòn và tỉnh Hậu Nghĩa thời VNCH(28). Về núi
non thì có núi Chứa Chan, núi Chiêu Thái (Châu Thới),
núi Long Ẩn... Về phía nam huyện Phước Chính là các núi Bảo Phong, Bạch Thạch,
Long Ẩn, Châu Thới, núi đá chen lẫn cây cỏ tốt tươi. Về phía tây bắc huyện
Phước Bình có núi Tấn Biên. Về phía nam huyện Phước Bình là các núi Chánh Hưng,
Yến Cẩm, núi Văn, núi Thần Qui, núi Nưa, núi Xoài, núi Thỏ, núi Mô Khoa, núi Tà
Mô Liên, núi Trà Cụ, núi Châu San. Về phía nam huyện Phước An có các núi Tiên
Cước, Bà Rịa, Thùy Vân, núi Nứa. Về phía đông và đông nam huyện Phước An là núi
Đất, núi Ghềnh Rái, và núi Thần Mẫu. Phía bắc huyện Phước An là núi Kho, núi
Đỏ. Phía nam huyện Long Thành là núi Ký Sơn, núi Nữ Tăng. Phía tây và tây bắc
Long Thành là gò Khổng Tước và núi Thiết Khâu. Phía tây của Phước Long là núi
Uất Kim. Đông bắc của Long Khánh là núi Hương Sơn và núi Nha Duẫn, núi Làng
Giao. Phía tây của Long Khánh là núi Câu Khánh. Phía Bắc của huyện Phước Khánh
là núi Chứa Chan. Như vậy Biên Hòa xưa bao gồm một vùng rộng lớn mà bây giờ gồm
các tỉnh Biên Hòa, Phước Long, Vũng Tàu, Và Rịa và một phần của Gò Công.
Trong vùng đồi thấp giữa Vĩnh Cửu và Tân Uyên,
trước khi sông Bé gặp sông Đồng Nai là thác Trị An, khúc nầy thế đất cao với
toàn những đá lỡm chởm. Thác Trị An tọa lạc trong vùng xóm Cát, cách quận lỵ
Hiếu Liêm, tức xóm Sông Bé ngày xưa, khoảng 3 cây số, và cách thành phố Biên
Hòa khoảng 36 cây số nếu đi theo tỉnh lộ 762. Hồ Trị An chảy trở vào sông Đồng
Nai, khi qua khỏi khu Vĩnh An, có một cụm đá nằm chắn ngang giữa lòng sông, gần
như lấp mất dòng chảy của con sông. Về mùa khô, bảy tảng đá lớn nầy nhô lên
khỏi mặt nước, vì vậy mà dân trong vùng còn gọi là ‘Thất Thạch Than’. Có những
tảng đá bóng nhẵn, cũng có những tảng bị rạn nứt, hoặc có hình dạng sù sì. Về
mùa mưa, nước trên nguồn đổ xuống rất mạnh, đến chỗ đá cản, tạo thành hàng trăm
cây nước vọt lên cao, rồi rơi xuống như những chùm
hoa bạc đang rơi lả tả trong gió
vậy. Những chùm nước nầy vọt qua khỏi rào cản, rơi xuống trở lại dòng nước theo
hình vòng cung, đó là thác nước Trị An(29).
Sau năm 1975, chánh quyền mới bãi bỏ tỉnh Long Khánh và sáp nhập các vùng
Long Khánh và Xuân Lộc vào Biên Hòa để thành lập
tỉnh Đồng Nai. Về phía Bắc của huyện Phước Khánh là núi Chứa Chan(30). Núi tọa
lạc trên phần đất xã Gia Ray, cách lỵ
sở xã Gia Ray chừng 2 cây số dọc theo quốc lộ 1A. Núi chiếm một diện tích
khoảng 600 mẫu đất, gồm ba ngọn, và ngọn cao nhất khoảng 803 mét. Theo
Đại Nam Nhất Thống Chí, núi Chứa Chan tọa lạc khoảng 56 dặm về phía bắc huyện
Phước Khánh, hình núi cao sừng sững, gần chân núi có khe Dạ Lao, giáp giới với
huyện Long Khánh, tức tỉnh Long Khánh thời Việt Nam Cộng Hòa. Trên núi có nhiều
loại dây mây, như mây thiết, mây tàu, cũng như nhiều loại cây gỗ khác. Ỏ giữa
núi có thạch động và thạch tỉnh. Theo truyền thuyết của dân bản địa tại đây thì
vùng đất Long Khánh ngày nay đã từng là bãi chiến trường giữa Chân Lạp và
Champa.
Về khí hậu, toàn vùng Biên Hòa là
vùng đất cao ráo, lại nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa gần xích đạo, nên khí
hậu gần như nóng và ẩm quanh năm, nhưng tương đối ôn hòa và ít bị thiên tai bão
lụt. Cũng như các vùng khác ở miền Nam, toàn vùng Đồng Nai-Biên Hòa có 2 mùa rõ
rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Nhiệt độ
trung bình khoảng 26o C. Số giờ có nắng trung bình là 6 giờ trong một
ngày. Đây là vùng đất có lượng nước mưa khá cao: 2.080 mm mỗi năm. Dầu có lượng
nước mưa khá cao, không như vùng đồng bằng sông Cửu Long, cảnh quang trong núi
rừng phía bắc Biên Hòa về mùa khô có vẻ xơ xác, với những con suối cạn nước,
nhưng về mùa mưa thì cây cối trở lại xanh um. Bằng chứng điển hình là những con
thác Giang Điền và Thác Mai, vào mùa mưa thì nước đổ ầm ầm, nhưng vào mùa khô
thì lượng nước chỉ còn lại khoảng phân nửa thác mà thôi. Tuy nhiên, vùng Biên
Hòa chỉ có mưa rào chứ không bị mưa dầm. Đến gần tiết Đông Chí, thỉnh thoảng về
đêm mới có sương nên tiết trời có phần khá lạnh. Mùa hè và mùa thu có gió Nồm,
mùa đông và mùa xuân có gió Bấc. Trong những năm gần đây, cũng như nhiều nơi
khác ở miền Nam, tiết trời có vẻ nóng hơn, có lẽ vì rừng rậm ngày càng bị thu
hẹp.
Cù Lao
Phố Một Thời Vang Bóng:
Từ hồ Trị An ra đến Biển Đông,
sông Đồng Nai để lại nhiều cù lao lớn nhỏ trên dòng chảy. Đặc biệt, khi chảy
đến gần khu tỉnh lỵ Biên Hòa thì chia làm hai nhánh, chính giữa là một cù lao
thuộc làng Hiệp Hòa, có tổng diện tích khoảng 6,93 cây số vuông. Không biết
trước khi Tướng Trần Thượng Xuyên đến đây thì cù lao nầy có tên gì, nhưng sau
khi ông lập ra phố phường trên cù lao nầy thì từ đó dân gian gọi nó là ‘Cù Lao
Phố’. Vì người Trung Hoa thì gọi những phần đất thuộc lãnh thổ Chân Lạp là
‘Giản Phố Trại’, nên có lẽ khi đến định cư tại đây, tướng Trần Thượng Xuyên đã
dùng tên nầy mà đặt cho vùng đất mà mình mới khai phá là ‘Nông Nại Đại Phố’.
Người dân địa phương tại còn gọi là ‘Đông Phố’ hay phố ‘Bàng Lân’. Đây là một
trong những thương cảng sầm uất nhất của xứ Đàng Trong vào cuối thế kỷ thứ
XVII. Các thương thuyền từ các nơi khác như Trung Hoa, Nhật Bản, Mã Lai, Ấn Độ,
và ngay cả từ các xứ Âu Châu... ra vào buôn bán tấp nập. Ngay từ giữa thế kỷ
thứ 18, nhờ thương mại phát triển nên lưu dân từ các miền Thuận Quảng đổ xô về
đây lập nghiệp. Và cũng nhờ đó mà các ngành nghề khác cũng phát triển theo,
nhất là các ngành thủ công nghiệp và nông nghiệp. Chỉ không đầy
10 năm sau khi tướng Trần Thượng Xuyên vào đây khai hoang lập phố thì vùng Cù
Lao Phố đã nhanh chóng trở thành vùng đất trù phú nhất miền Nam. Nông nghiệp
tăng năng suất rất nhanh; trong khi các ngành nghề thủ công truyền thống như
dệt chiếu, trồng dâu, nuôi tằm và dệt vải, gốm sứ, trồng mía để làm đường,
ngành mộc và chạm trổ mỹ thuật, rèn dao mác và cung tên, vân vân, phát triển
rất mạnh. Hiện nay tại vùng xung quanh chùa Tân Giám Bình hãy còn lưu lại nhiều
dấu tích và di vật của những ngành nghề cổ truyền của vùng đất nầy hơn 300 năm
về trước.
Triều đình xứ Đàng Trong cũng gọi khu nầy là Đại
Phố Châu, tức Bãi Đại Phố.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển Thượng: “Cù Lao
Phố chỗ sông sâu thuận tiện cho tàu biển đậu. Năm 1679, Tổng Binh Trần Thượng
Xuyên dẫn theo một đoàn người xin cư trú tại Việt Nam và được chúa Nguyễn chấp
thuận cho vào khai khẩn đất Nông Nại. Sau khi khẩn hoang lập ấp, Trần Thượng
Xuyên đã chiêu tập thương
buôn nước Tàu, xây dựng đường sá, nhà lầu đôi tầng, mái ngói đỏ, tường
quét vôi trắng rực rỡ bên sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ,
nhai(31) lớn ở
giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, và
nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng, bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu
biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn
hết, lập thành một đại đô hội”. Trần
Thượng Xuyên lại khéo chỉ huy và tổ chức, quy tụ
các thương nhân người Hoa ở các nước khác đã có mối quan hệ từ trước, các nhà
buôn bán chuyên nghiệp có vốn lớn, giàu kinh nghiệm đến xây dựng Cù Lao Phố
thành một thương cảng quốc tế phồn thịnh vào bậc nhất thời đó, được mang tên là
“Châu Đại Phố Cảng.” Khi Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lược đất Nông Nại, ông đã đặt
Tổng hành dinh của mình tại Cù Lao Phố để từ đó tiến hành xây dựng bộ máy hành
chánh cho toàn vùng đất Nam Kỳ. Nhờ đó mà Cù Lao Phố nhanh chóng đi vào nề nếp
kỷ cương và ổn định tại miền Nam. Hiện tại, trong địa phận Cù Lao Phố còn có
một di tích lịch sử khá lâu đời, đó là ngôi mộ và miếu thờ quan Chưởng Cơ Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Quan Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh là con của quan Chiêu
Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, một danh tướng thời Nguyễn Sơ (Nguyễn Hữu Cảnh sanh năm
1650 và mất vào năm 1700). Ông chính là người đầu tiên thiết lập bộ máy hành
chánh cho vùng Biên Hòa nói riêng, và cho cả miền Nam nói chung. Năm 1698, sau
, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào Kinh Lược vùng đất Nông Nại. Ông
đã vâng lệnh chúa chia đất Đồng Nai ra làm hai huyện Phước Long có dinh Trấn
Biên, và huyện Tân Bình có dinh Phiên Trấn. Về sau, miền Nam có loạn Hoàng
Tiến, chúa Nguyễn sai Mai vạn Long đem quân đánh dẹp, nhưng không xong; chúa lại
sai Hào Lương Hầu Nguyễn Hữu Hào (anh ruột Nguyễn Hữu cảnh) vào thay, nhưng
cũng không xong. Chúa Nguyễn bèn sai quan Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh đem quân sang chinh phạt Chân Lạp. Sau khi thắng trận, trên đường trở về,
khi đóng quân tại cù lao Ông Chưởng bây giờ, ông lâm bệnh, rồi qua đời trên
đường trở về Gia Định. Di hài của ông được mang về chôn cất tại quê hương Quảng
Bình. Trên đường đưa linh cữu về quê quán, quan quân đã ghé lại cù lao Phố, nơi mà ngày trước
ông đã đặt đại bản doanh khi còn làm quan Kinh Lược. Dân chúng trong vùng nhớ
ơn ông nên lập miếu thờ. Hiện đền thờ của ông tại đình Bình Kính vẫn ngày ngày
khói hương nghi ngút. Đến năm 1776, sau cuộc kịch chiến giữa nghĩa binh Tây Sơn
và quân đội của Nguyễn Ánh, toàn bộ vùng Cù Lao Phố đã bị tàn phá, đến nay
không còn lưu lại dấu vết nào cả.
Vùng Cù Lao Phố còn được dân
chúng một truyền tụng rất nhiều về ông ‘Thủ Huồng’. Thủ Huồng tên thật là Võ
Thủ Hoằng, một thương gia giàu có khét tiếng dưới thời chúa Nghĩa Nguyễn Phúc
Trăn. Tuy nhiên, ông không có con cái, mà vợ lại chết sớm, nên ông tỏ ra buồn
rầu trong cuộc sống hiu quạnh của mình trong lúc tuổi về già. Khi sống trong cô
quạnh, ông tỏ ra hối hận về những hành động bất chánh của mình lúc sinh thời.
Từ đó, để chuộc lại lỗi lầm của mình, ông đã cho trả hết ruộng vườn cho những
ai đã cầm cố cho ông. Bên cạnh đó, ông bỏ ra hết số tiền của của mình để làm
phước đức như làm đường, bắc cầu, xây chùa, cất chợ, dựng nhà tế bần. Đáng kể
nhất là việc ông lập nên một chiếc nhà bè thật lớn trên sông Đồng Nai, trên nhà
bè có đầy đủ gạo, mắm, than, củi, vân vân, nhằm giúp đỡ những khách lỡ đường
trên dòng sông nầy. Về sau nầy, nhiều người đã tới đây lập nghiệp bằng cách xây
dựng một khu nhà bè trên khúc sông nầy, và danh từ ‘Nhà Bè’ cũng từ đó mà có.
Sau khi
ông Thủ Huồng mất rồi, người dân trong vùng đem bài vị của ông vào thờ
trong chùa và gọi đó là chùa ‘Thủ Huồng’. Khoảng
năm 1845, vua Đạo Quang (1821-1850) có gửi qua cúng cho chùa Thủ Huồng 3 pho
tượng Phật bằng vàng(32).
Vùng Cù Lao Phố còn là quê hương của Trịnh Hoài
Đức, một trong ba nhân vật kiệt xuất(33) của vùng đất Gia Định vào cuối thế kỷ thứ XVIII.
Trịnh Hoài Đức(34) là
hậu duệ của Trịnh Khánh, một trong những người Minh Hương đã theo tướng
Trần Thượng Xuyên đến khai phá vùng Cù Lao Phố. Vì thân phụ mất lúc ông vừa
tròn 10 tuổi, nên thân mẫu của ông phó thác ông cho cụ Võ Trường Toản dạy dỗ.
Ông đậu cử nhân vào năm 1778 tại Gia Định. Sau khi thi đỗ, ông được tiến cử
chức Hàn Lâm Chế Cáo, rồi được Nguyễn Ánh cho sung chức Đông Cung Thi Giảng.
Năm 1794 được thăng chức Ký Lục dinh Trấn Định, tức vùng Định Tường ngày nay.
Năm 1801, nhậm chức Hộ Bộ Tham Tri. Năm 1802, Thượng thư Bộ Hộ. Cùng năm đó,
ông đã cùng Ngô Nhơn Tịnh đi sứ sang Trung Hoa để dâng quốc thư cầu phong lên
vua nhà Thanh. Dưới thời vua Minh Mạng, ông được cử làm Lại Bộ thượng thư, rồi
Phó Tổng Quốc Tử Giám, Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Thượng Thư Bộ Binh. Trong các kỳ
thi tại Huế, ông đều được nhà vua cử làm chánh chủ khảo. Ngoài ra, ông còn là
một nhà biên khảo nổi tiếng với những tác phẩm ‘Lịch Đại Kỷ Nguyên’, ‘Khương Tế
Lục’ và ‘Gia Định Thành Thông Chí’. Riêng bộ ‘Gia Định Thành Thông Chí’ là một
bộ biên khảo quí giá về cả địa lý lẫn lịch sử của miền Nam vào khoảng thế kỷ
thứ XVIII và XIX. Đây là một trong những kho tàng tài liệu vô giá cho tất cả
những nhà biên khảo về sau nầy. Trịnh Hoài Đức mất tại Huế vào năm 60 tuổi. Thi
hài của ông được đưa về an táng tại vùng Bình Trước, thuộc tỉnh Biên Hòa ngày
nay. Ông là một vị quan tài ba xuất chúng, tài đức vẹn toàn; một vị quan thanh liêm giản dị,
luôn luôn hết lòng vì vua vì nước và luôn chăm lo làm những việc ích nước lợi
dân. Trải qua hai triều Gia Long và Minh Mạng, lúc nào ông cũng hoàn thành
trọng trách được nhà vua giao phó.
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét