Lịch Sử Vương Quốc Phù Nam
Ngày nay ai trong chúng cũng đều biết lịch sử của vùng đất mà bây giờ 
chúng ta gọi là Nam Bộ bắt đầu từ khoảng những năm đầu thế kỷ thứ nhất 
sau Tây lịch với sự thành lập của một vương quốc cổ nhất mang tên Phù 
Nam. Theo thự tịch cổ đời nhà Lương thì Hỗn Điền (Kaundinya) truyền ngôi
 cho con trai là Hỗn Bàn Huống (Hun P’ang Huang), vị vua nầy từ trần lúc
 90 tuổi; Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn (P’an P’an); Bàn 
Bàn truyền ngôi lại cho một vị bộ tướng là Phạm Nam (Fan Man). Theo thư 
tịch cổ đời nhà Tề (Nam Triều), Phạm Nam tức là Phạm Sử Nam (Fan Shi 
Man). Trong khi theo thư tịch cổ đời nhà Hán, thì ngày xưa có một vị 
giáo sĩ người Ấn Độ tên là Kaundinya (Hỗn Điền), thuộc dòng dõi Bà La 
Môn (Brahman), được thần linh chỉ đường nên dong buồm về phía đông nam 
vùng biển Ấn Độ Dương. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, qua  hàng
 tháng trời dong ruổi trên biển cả mênh mông, thuyền của Hỗn Điền đổ bộ 
lên đất liền, vùng đất mà bây giờ là đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên,
 đoàn quân của Hỗn Điền bị nữ vương tên Soma (Liễu Diệp) của thổ dân tại
 đây chặn đánh không cho họ đổ bộ lên bờ. Sau một trận thư hùng, quân 
của Liễu Diệp bị quân Hỗn Điền đánh bại. 
Nữ vương Liễu Diệp cầu hòa, rồi Liễu Diệp và Hỗn Điền kết hôn để cùng 
nhau cai trị vùng đất nầy. Dòng dõi Hỗn Điền và Liễu Diệp truyền ngôi 
cho nhau được trên 200 năm. Hỗn Điền truyền ngôi cho con trai là Hỗn Bàn
 Huống, Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn... Lúc đó khi vị 
hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan Thứ Sử Trung Hoa ở Giao 
Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng quốc vương Lâm Ấp, với sự trợ lực của
 vương quốc Phù Nam đã khởi quân tấn công Nhật Nam.       Dầu thế nào đi
 nữa thì những thư tịch cổ của Trung Hoa cũng cho chúng ta một khái niệm
 sơ lược về vương quốc Phù Nam. Từ ngày thành lập đến khi tàn lụn vương 
quốc nầy đã truyền được 13 đời vua. Qua đến những thế kỷ thứ II và thứ 
III thì vương quốc Phù Nam đã phát triển mạnh mẽ và hoàn chỉnh một triều
 đại lớn, đó là triều đại Sri Mara (Sư Man), trị vì vương quốc nầy trong
 khoảng từ năm 225 đến 230 sau Tây lịch(17). Đây cũng là thời kỳ hưng 
thịnh nhất của dân tộc Phù Nam, vị vua nầy đã chinh phục các lân quốc và
 mở rộng lãnh thổ của Phù Nam. 
Chỉ trong vòng 5 năm (225-230) mà vua Sri Mara đã cho đóng nhiều chiến 
thuyền để vượt biển đánh chiếm các nước nhỏ ngoài hải đảo. 
Đến năm 230 sau Tây lịch thì biên cương của vương quốc Phù Nam đã trải 
rộng từ đồng bằng sông Cửu Long đến tận Ménam về phía Tây(18), và về 
phía Nam và Đông Nam xuống tận đến các hải đảo thuộc Nam Dương và Mã Lai
 ngày nay, về phía tây bắc lên đến Trung Lào, về phía đông bắc kiểm soát
 các trục lộ giao thông đến tận vùng Khánh Hòa(19). Nghĩa là 300 năm sau
 ngày lập quốc vương quốc nầy đã hoàn chỉnh hệ thống hành chánh và 
thương mãi, đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh. 
Thời nầy vương quốc nầy đã chinh phục được hầu hết các nước quanh vùng, 
từ Mã Lai, Thái Lan, Cao Miên, Nam Lào và Nam Miến Điện. Từ thế kỷ thứ 
nhất đến thế kỷ thứ VI, coi như vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hoàn 
toàn đường hàng hải của các thương thuyền đi từ Trung Hoa qua Ấn Độ và 
Âu châu. Kinh đô Vyadhapura (Mục Đặc) của vương quốc Phù Nam hồi nầy rất
 phồn thịnh, với sự hiện diện của sứ thần cũng như thương nhân của nhiều
 quốc gia khác từ Âu châu qua Ấn Độ, và Trung Hoa... 
Căn cứ theo các sử liệu của Trung Hoa, từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ 
VI, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế lớn mạnh nhất tại vùng Đông 
Nam châu Á. Thư tịch cổ đời nhà Lương ghi rất rõ: “Sau khi vị vua cuối 
cùng của dòng họ Hỗn Điền băng hà, một bộ tướng tên là Phạm Sử Nam 
(Fan-Che-Nan), được dân chúng tôn lên làm vua, trị vì khoảng từ năm 205 
đến năm 225 sau Tây lịch. Phạm Sử Nam là một vị quốc vương tài giỏi và 
tiếng tăm lừng lẫy. Chính vị hoàng đế nầy đã liên tục thôn tính hơn 10 
thuộc quốc lân cận nằm trên bán đảo Mã Lai và vùng thung lũng sông Mê 
Nam như các xứ Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát
 Miệt (Chân Lạp), vân vân.” Tuy nhiên, trên bản đồ thế giới ngày nay, 
chúng ta không còn thấy tên của bất cứ vương quốc nào vừa kể trên nữa, 
nhưng chắc chắn những vương quốc nầy phải nằm trong vùng thung lũng sông
 Cửu Long, chạy dài từ vùng Tonlé Sap xuống miền Nam Việt Nam ngày nay 
kể cả vùng từ Đồng Nai đến Cam Ranh, Phan Rang và Nha Trang, nơi mà sau 
nầy người ta tìm thấy tấm bia đá tại vùng Võ Cạnh; hoặc vùng đất chạy 
dài từ thung lũng Mé Nam đến tận vùng bán đảo Malacca của Mã Lai Á ngày 
nay. 
Như vậy, vào giữa thế kỷ thứ III vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hầu hết
 các yếu điểm trên bán đảo Đông Dương lên đến vùng Khánh Hòa ngày nay, 
và bán đảo Mã Lai xuống tới Malacca. Vào thời đó vương quốc nầy đã khống
 chế tất cả các hải trình từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương và ngược 
lại. Thư tịch cổ đời nhà Lương đã quả quyết rằng Phạm Sử Nam (Fan Shih 
Man) tử trận giữa những năm 205-210, trong lúc ông đang chỉ huy tướng sĩ
 đi chinh phục vùng Chin Lin(20). Trong khi thư tịch cổ nhà Nam Tề lại 
ghi: “Vua Phạm Sử Nam là một vì vua quả cảm và có tài. 
Ông đã từng chinh phục các nước láng giềng và bắt các nước nầy phải thần
 phục Phù Nam và tôn xưng ông là Phù Nam đại vương. Năm 225, Phạm Sử Nam
 tử trận trong một cuộc viễn chinh tại miền Bắc bán đảo Mã Lai.” Theo 
Finct, một nhà khảo cổ học người Pháp, thì Sri Mara là một chư hầu thuộc
 vương quốc Phù Nam. Riêng giáo sư G.E. Hall đã ghi lại trong quyển 
‘Đông Nam Á Sử Lược’ như sau: “Dù sao chúng ta cũng rất khó xác định 
được niên đại liên hệ của các quốc vương hay các biến chuyển trong thời 
sơ khai của lịch sử Phù Nam.” Trong khi đó, theo nhà khảo cổ học người 
Pháp khác tên Coedès, thì Phạm Sử Nam (Fan Shih Man) chính là vua Sri 
Mara, được ghi trên bia đá bằng Phạn ngữ, được tìm thấy tại vùng Võ 
Cạnh, thuộc vùng Nha Trang, nguyên là đất của vương quốc Champa. Bia đá 
ghi rằng Sri Mara là chúa tể đạo Phật và dùng Phạn ngữ trong triều. 
Coedès còn cho rằng truyền thuyết về Hỗn Điền (Kaundinya) xảy ra sau thế
 kỷ thứ nhất sau Tây lịch, vì trong thời kỳ Phạm Chiêu (Fan-Tchao), 
người nối ngôi vua Phạm Sử Nam (Fan Shih Man), nhờ sự liên lạc giữa Phù 
Nam, Ấn Độ và Trung Hoa, nên những niên đại được ghi lại rất đáng tin 
cậy. Theo Coedès thì Phạm Chiêu bị một người cháu tên Phạm Chấn(21) giết
 chết để đoạt ngôi, rồi trị vì ở ngôi được 20 năm, cho đến khi bị em 
trai vua Phạm Chiêu (Fan Tchao) giết chết để trả thù cho anh mình. Theo 
Coedès thì chính Phạm Chấn, chứ không phải Phạm Chiêu, người đã tiếp đãi
 một du khách Ấn Độ và được vị du khách nầy tường thuật về đất Ấn, khiến
 nhà vua mê say về những huyền bí sông Hằng đến đỗi khoảng những năm từ 
 240 đến 245 sau Tây lịch, ông đã cử một sứ đoàn đi từ hải cảng Takola ở
 bán đảo Mã Lai, theo đường biển đi ngược dòng sông Hằng, đến triều đình
 Ấn Độ, mà theo nhà khảo cổ Sylvain Lévi, đó là triều đình vua Marunda. 
        Sau khi Phạm Sử Nam băng hà, con trai là Phạm Chiêu (Fan-Tchao) 
lên ngôi và trị vì đến năm 245. 
Theo học giả người Pháp tên P. Pelliot, dưới thời vua Phạm Chiêu nhà vua
 đã phái sứ thần sang Ấn Độ và được vua Murunda tiếp đón rất nồng hậu. 
Trong khi theo Ngô Thư của Trung Hoa thời Tam Quốc, thì vào năm 243, 
Phạm Chiêu sai sứ sang cống nhạc công và phẩm vật quý cho vua nhà Ngô. 
Sau khi Phạm Chiêu băng hà, một tùy tướng tên Phạm Tần (Fan-Tsan) lên 
nối ngôi và trị vì từ năm 245 đến năm 287. Dưới thời vua Phạm Tần, hoàng
 đế nhà Ngô của Trung Hoa cũng đã sai sứ sang Phù Nam và đã được quốc 
vương của xứ nầy tiếp đón hết sức long trọng. 
Ông Khương Thái trong sứ đoàn Trung Hoa đã kể lại chuyện gặp gỡ với sứ 
giả của vua Marunda của Ấn Độ đang lưu lại kinh đô của Phù Nam.       
Trong khoảng thời gian từ năm 268 đến năm 287, có nhiều sứ đoàn của Phù 
Nam được phái sang Trung Hoa. Nhờ có các sứ đoàn lui tới Phù Nam nên mối
 giao hảo giữa vương quốc Phù Nam với các nước lớn trong vùng rất tốt 
đẹp, nhất là với các nước Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, kể từ năm 270 
sau Tây lịch trở về sau nầy thì mối bang giao giữa Phù Nam với Trung Hoa
 không còn tốt đẹp như trước nữa, vì vào năm 270 sau Tây lịch, vua Phạm 
Tần (Fan-Tsan) của Phù Nam liên kết và yểm trợ vị  vua của nước Lâm Ấp 
để gây chiến tranh với đất Giao Châu trong suốt mười năm, từ năm 270 đến
 năm 280 sau Tây lịch. 
Vào đời nhà Tấn bên Trung Hoa, về phía Nam quận Nhật Nam, có một vị 
thượng quan địa phương tên Khu Liên, lợi dụng trong lúc suy yếu của nhà 
Hán trong khoảng những năm từ 206 đến 221 sau Tây lịch, đã ly khai với 
quận Nhật Nam và lập nên xứ Tượng Lâm(22). Về sau người ta gọi vương 
quốc nầy là vương quốc Champa, kinh đô được đặt tại vùng Mỹ Sơn, Trà 
Kiệu, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay. Theo thư tịch cổ đời nhà Tấn, vị 
hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan thứ sử Trung Hoa ở đất Giao
 Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng  với sự trợ giúp của vương quốc Phù 
Nam, quốc vương xứ Lâm Ấp đã khởi binh tấn công quận Nhật Nam. 
Nhưng sử ký nhà Tiền Tống chép về những tài liệu lịch sử khác vào những 
năm 434, 435 và 438 thì lại ghi rằng vua Phù Nam không thuận giúp vua 
Lâm Ấp cất quân đi đánh đất Giao Châu. Như vậy, dầu ngày nay chúng ta 
không còn nhiều tài liệu lịch sử của riêng vương quốc Phù Nam, nhưng hầu
 như tất cả những thư tịch cổ của Trung Hoa kể từ thế kỷ thứ II đến thế 
kỷ thứ VI đều có nói về vương quốc nầy. 
 Sau đó từ khoảng năm 287 đến 375(23), không thấy nói gì đến vương quốc 
Phù Nam nữa. Như vậy, nếu căn cứ theo các sử liệu Trung Hoa, thì khoảng 
hơn một thế kỷ nầy vương quốc Phù Nam phải trải qua nhiều lủng củng nội 
bộ, mặc dầu vương quốc nầy vẫn tiếp tục phát triển và lớn mạnh. Mãi đến 
đời nhà Lương mới đề cập đến phái bộ Phù Nam do quốc vương Chan Tan hay 
Chiên Đàn (Chandana) hướng dẫn đến triều cống Lương triều. 
Các sử gia nhà Lương ghi chép Chan Tan như một người Ấn Độ, và chữ Chan 
Tan theo Phạn ngữ là Chandana, tước vương của triều đại Kanishka. Vị vua
 nầy trị vị ở ngôi từ năm 375 đến 470. Điều đặc biệt là nền văn minh Ấn 
Độ đã từng lan tràn qua vùng Đông Nam châu Á nầy từ hơn 20 thế kỷ nay, 
nhưng trải qua hơn 2 ngàn năm chưa có một triều vua nào của Ấn Độ hoặc 
sử sách của Ấn Độ ghi chép lại về sự việc nầy. Mãi đến giữa thế kỷ thứ 
20, sau khi lấy lại nền độc lập từ tay của người Anh, chánh phủ và nhân 
dân Ấn Độ mới bắt đầu quan tâm đến vùng đất mà nền văn minh Ấn Độ đã có 
mặt từ lâu. Ngược lại với người Ấn, người Trung Hoa luôn cho rằng các 
quốc gia xung quanh Trung Hoa đều thuộc vùng ảnh hưởng của Thiên Triều 
Trung Quốc, bằng chứng là khi viết bộ “Thủy Kinh Chú” vào những năm đầu 
kỷ nguyên Tây lịch, người Hoa đã mặc nhiên xem các vùng phía Nam Trung 
Hoa là của họ. Họ cử sứ giả đi kinh lý và điều tra những con sông, những
 điều mắt thấy tai nghe, những phong tục tập quán, và những nền văn hóa 
phương Nam. 
Nghĩa là từ hơn 2.000 năm nay, người Trung Hoa luôn xem vùng biển và 
lãnh địa phương Nam thuộc ảnh hưởng của họ. Ngay từ nhiều thế kỷ trước 
Tây lịch, các vương quốc trong vùng Đông Nam Á đều phải có liên hệ ngoại
 giao với Trung Hoa qua những hình thức triều cống và cầu phong. Đối với
 Trung Hoa, họ cho rằng họ là thiên triều và mặc nhiên có quyền can 
thiệp vào nội bộ của các vương quốc trong vùng nếu cần. Tuy nhiên, nhờ 
vậy mà ngày nay chúng ta còn có những sử liệu quí giá về các vương quốc 
cổ trong vùng.       Giữa thế kỷ thứ III đến đầu thế kỷ thứ VI, Phù Nam 
đã có mối quan hệ ngoại giao với các nước lớn thời bấy giờ như Trung 
Hoa, Ấn Độ và La Mã. 
Dù cho tới bây giờ người ta vẫn chưa phác họa được diện mạo của người 
Phù Nam, nhưng qua sử liệu của các xứ Ấn Độ và Trung Hoa, phải nói Phù 
Nam là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong lịch sử vùng Đông Nam Á. 
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, các triều vua thời nhà Hán bên Trung Hoa
 đã nhiều lần sai sứ đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Dưới thời Chan Tan, 
từ năm 375 đến 470 từ năm 375 đến 470 mối giao hảo với nhà Lương bên 
Trung Hoa rất tốt, điều nầy phù hợp với những điều được ghi trong Lương 
Thư: “Những năm 431 và 432, nước Lâm Ấp muốn cất quân sang đánh Giao 
Châu nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng đã bị vua Phù Nam là 
Chan Tan từ chối.” Thời vua Chan Tan, chẳng những Phù Nam có mối giao 
hảo rất tốt với Trung Hoa mà với cả Ấn Độ nữa. Thời vua Chan Tan là gia 
đoạn đánh dấu sự phục hồi của ảnh hưởng Ấn Độ tại xứ sở nầy, vì vào thế 
kỷ thứ ba sau Tây lịch, Phù Nam có liên hệ mật thiết với triều đại Ca Nị
 Sắc Ca ở Ấn Độ, nghĩa là vào lúc cực thịnh, khoảng thế kỷ thứ 3, lúc 
bấy giờ lãnh thổ vương quốc Phù Nam bao gồm vùng phía Nam nước Cao Miên,
 toàn bộ vùng Nam Kỳ lục tỉnh, và có lẽ chạy dài đến tận bán đảo 
Malacca, thuộc Mã Lai. Họ là giống dân Úc Á, đến định cư tại bán đảo 
Đông Dương vài mươi thế kỷ trước Tây lịch. Người Phù Nam chịu ảnh hưởng 
bởi nền văn hóa Ấn Độ thời cổ, dùng chữ Bắc Phạn (Sanskrit), theo luật 
pháp Ấn Độ. Đa số cư dân theo đạo Bà La Môn và đạo Phật, có lẽ hai tôn 
giáo nầy được du nhập vào vương quốcPhù Nam cùng lúc vào khoảng thế kỷ 
thứ nhất sau Tây lịch. 
Các nhà khảo cổ học đã khai quật và tìm thấy rất nhiều những biểu tượng 
của Bà La Môn như những ‘linga’ bằng đá, tượng thần Vishnu có kích cỡ 
như người thật. Bên cạnh đó, họ cũng tìm thấy rất nhiều tượng Phật bằng 
gỗ, đá và đồng tại các vùng Rạch Giá, Đồng Tháp Mười, Cần Thơ, Vũng Tàu.
 Vào khoảng thế kỷ thứ II, vương quốc Phù Nam phát triển rất cao trên 
địa bàn miền Tây Hậu Giang và được mở rộng qua khỏi bờ Tiền Giang. Theo 
những khám phá mới về những đường kinh từ núi Sập qua Đồng Tháp Mười, 
chứng tỏ thời đó nền canh nông của người Phù Nam đã phát triển khá cao. 
Ngoài canh nông, họ còn làm thương mại và buôn bán với các dân tộc ở 
vùng Đông và Nam Á, cũng như các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Mã Lai, và có 
lẽ ngay cả với những quốc gia ở Âu châu nữa. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ 
thứ VI, bờ biển của vùng Nam Kỳ bây giờ là vùng Óc Eo. 
Theo các sứ thần của Trung Quốc thì vào thế kỷ thứ III, Óc Eo đã là một 
hải cảng lớn trong vùng. Vào khoảng thế kỷ thứ III đã có những nhà ngoại
 giao Trung Hoa thời nhà Ngô đến đây và được vua xứ Phù Nam tiếp kiến. 
Đây là một trong những sự kiện lịch sử xác đáng và được ghi nhận trong 
thư tịch cổ Trung Hoa như một sự kiện lịch sử về ngoại giao giữa hai 
nước Trung Hoa và Phù Nam. Cũng theo các nhà ngoại giao Trung Hoa thời 
nhà Ngô thì thời kỳ huy hoàng nhất của vương quốc Phù Nam là vào khoảng 
thế kỷ thứ III này, lúc ấy toàn bộ các lãnh thổ vùng phía Đông của nước 
Xiêm, bán đảo Malacca(24),  một phần đất của Miến Điện, Chân Lạp, Nam 
Lào và Nam Kỳ đều nằm trong lãnh địa Phù Nam. Chính vào thời kỳ này, 
vương quốc Phù Nam hùng mạnh và kiểm soát toàn bộ hải trình buôn bán 
Đông Tây từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương.       Cũng theo các thư 
tịch cổ của Trung Hoa thì một trong những vị vua đã đưa vương quốc Phù 
Nam đến chỗ mạnh nhất vào thế kỷ thứ V là vua Xà Da Bạt Na(25). 
Năm 484 vua Phù Nam cất quân đánh Chiêm Thành, đồng thời cho sứ giả sang
 giao thương với Trung Hoa (nhà Tống) và yêu cầu nước này yểm trợ. Ngài 
được xem là vị vua mạnh nhất trong những năm cuối thế kỷ thứ V. Ngài 
theo đạo Phật, mặc dù đạo Bà La Môn đang có ảnh hưởng rất lớn trong 
vương quốc Phù Nam. Đặc biệt, ngài rất tôn sùng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát 
vì ngài tin rằng nhờ sự che chở của vị Bồ Tát này mà toàn cõi thần dân 
trong vương quốc của ngài luôn được an cư thịnh vượng. Về ngoại giao, 
vương quốc Phù Nam dưới thời vua Jayavarman giao hảo rất thân thiện với 
các nước Âu châu, Ấn Độ và Trung Hoa. 
Khoảng năm 480, vua Jayavarman phái nhiều thương gia sang buôn bán ở 
Quảng Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trên đường về, đoàn tàu 
chở theo một vị thiền sư người Ấn Độ tên Cakya Nagasena(26). Năm 484, 
vua Jayavarman phái vị thiền sư ấy trở lại Trung Hoa dâng sớ, nói rõ về 
hiện tình của vương quốc Phù Nam và sư mong muốn giữ được mối giao hảo 
bền vững với Trung Hoa, lúc đó nhà Tề đang cai trị. Vị thiền sư ấy cũng 
đạo đạt lời thỉnh cầu của vua Xà Da Bạt Na(25) xin Trung Hoa gửi quân 
tiếp viện Phù Nam đánh Lâm Ấp, nhưng vua Trung Hoa từ chối. Theo lá sớ 
của vua Xà Da Bạt Na trình lên triều đình Bắc Kinh thì tôn giáo thịnh 
hành ở Phù Nam thời bấy giờ là Phật giáo Tiểu Thừa. Khoảng cuối thế kỷ 
thứ V, nhà Tề gửi quốc thư yêu cầu vương quốc Phù Nam phái 2 nhà sư gốc 
người Phù Nam tên Mandrasena(27) và Sanghapala(28) sang Trung Quốc phiên
 dịch kinh điển từ Phạn ngữ và văn tự Phù Nam ra Hoa ngữ. Tuy nhiên, khi
 2 nhà sư này đến Trung Quốc thì nhà Tề đã bị nhà Lương tiêu diệt. Dầu 
triều đình Bắc Kinh từ chối không gửi viện quân sang giúp Phù Nam, nhưng
 vào năm 503, theo Lương Thư, vua Lương Võ Đế đã ban chiếu khen vua Phù 
Nam: “Vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và các đời vua trước trị vì ở phương Nam 
xa xăm, tuy ở xa nhưng họ vẫn tỏ rõ lòng trung thực và tính hòa hiếu, 
nhiều lần họ đã sai sứ mang lễ vật sang tặng. Bởi vậy, cần phải tưởng lệ
 bằng cách phong cho danh hiệu: Bình Nam Tướng Quân, Phù Nam Đại 
Vương.” 
Đến năm 506, vua Lương Võ Đế chính thức yêu cầu 2 sư phiên dịch kinh 
điển. Trong thời kỳ nầy, Xà Da Bạt Na đệ nhất cho dựng lên đền thờ Thần 
Vishnu tại khu vực Đồng Tháp Mười ngày nay, gọi là Đền 
Chakratirthasvamin. Tuy nhiên, mãi đến ngày nay người ta không tìm được 
bia đá nào nói về vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và triều đại của ông ta, chỉ 
có hai tấm bia khắc chữ Phạn, ghi lại việc hoàng hậu hạ sanh thái tử 
Gunavarman và việc khai khẩn vùng đất sình lầy nầy mà thôi. 
Năm 514, vua Xà Da Bạt Na đệ nhất băng hà để lại cho dân tộc Phù Nam một
 vương quốc hùng mạnh với nhiều công trình thủy lợi trong khu vực ven 
vùng biển cạn  Tháp Mười và Óc Eo ngày nay, biến những vùng trũng ngập 
mặn thành những cánh đồng phì nhiêu trù phú. Theo thư tịch cổ của nhà 
Lương, thì vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) là con của một bà thứ phi của
 vua Xà Da Bạt Na đệ nhất. Lưu Bà Bạt Ma đã giết chết người con trưởng 
thuộc dòng chánh là thái tử Gunavarman để cướp ngôi và trị vì Phù Nam từ
 năm 514 đến năm 550. 
Cũng theo cổ thư Trung Hoa thì đây là vị vua cuối cùng của vương quốc 
Phù Nam còn quan hệ với Trung Hoa. Vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) cũng 
muốn nối chí vua cha củng cố mối giao hảo với Trung Hoa, bằng chứng là 
vào năm 517, vua Rudravarman phái một đoàn sứ giả dưới sự hướng dẫn của 
một vị tu sĩ Bà La Môn sang Nam Kinh dâng sớ và cống lễ lên hoàng đế nhà
 Lương. 
Rồi đến năm 518, vua Rudravarman (514-539) lại phái một đoàn sứ giả khác
 sang dâng một tượng Phật bằng gỗ bạch đàn ở Ấn Độ và nhiều lá bồ đề 
được mang về từ nơi cây Bồ Đề nơi Đức Phật thành đạo. Phái bộ Phù Nam 
còn cho triều đình nhà Lương biết là hiện còn lưu giữ một lọn tóc xá lợi
 của Đức Phật tại vương quốc Phù Nam. Cũng chính trong khoảng thời gian 
nầy các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã phiên dịch bộ Vimutti 
Magga(29) sang Hán văn. 
Hiện bộ kinh nầy chỉ còn lại bản chữ Hán, trong khi bản chữ Phạn đã bị 
thất lạc. Năm 535, sử nhà Lương còn ghi lại về việc một phái đoàn sứ giả
 Trung Hoa được gửi sang Phù Nam để thỉnh kinh Phật, đồng thời yêu cầu 
vua Rudravarman của vương quốc Phù Nam cho dời các sư sãi sang Trung 
Hoa. Vua Rudravarman liền cử thiền sư người Ấn tên Gunaratna, đang hành 
đạo tại đây, mang 240 bộ kinh sang Trung Hoa. Sư Gunaratna đến Nam Kinh 
vào năm 546, nhưng sử Trung Hoa không nói rõ sư lưu lại đây bao lâu và 
dịch được những bộ kinh nào nữa. 
Tuy nhiên, lúc đó uy tín và thế lực của Phù Nam đã hết nên sau đó vương 
quốc Phù Nam bị tiêu diệt. Có lẽ chính việc soán ngôi của vua Lưu Bà Bạt
 Ma (Rudravarman) mà các quan lại và thần dân không phục, nên vào khoảng
 năm 550, một số người còn tưởng nhớ đến người con trưởng vua Xà Da Bạt 
Na nổi lên đánh chiếm kinh thành Đặc Mục. Cũng theo thư tịch cổ thời nhà
 Lương, khi vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) băng hà, vào năm 550, tại 
vương quốc Phù Nam đã xảy ra một cuộc nội loạn, có lẽ do một người cháu 
vua Rudravarman tên là Bhavavarman  lãnh đạo(30) đánh chiếm kinh đô Đặc 
Mục, đã lật đổ được vương triều Phù Nam thời bấy giờ, và cuối cùng đã 
hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp làm một. Quốc vương đương thời 
của Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại vùng Na Phất Na 
Khái(31). Như vậy sau một thời vàng son rực rỡ, vương quốc Phù Nam trở 
nên suy sụp vào giữa thế kỷ thứ VI. Thấy thế mới biết vào thời mà Việt 
Nam chúng ta chỉ là một quận huyện của Trung Hoa thì vương quốc Phù Nam 
đã là một vương quốc rất lớn và rất mạnh ở phương Nam. 
Kinh Đô Đặc Mục (Vyadhapura) Của Vương Quốc Phù Nam: 
Các nhà cổ sử đều đồng ý rằng kinh đô Phù Nam đặt tại thành Đặc Mục, 
tiếng Phạn là Vyadhapura, có nghĩa là thành phố của những thợ săn(32). 
Theo các nhà nghiên cứu cổ sử kinh đô nầy nằm gần gần thị trấn Banam, 
gần ngọn núi Ba Phnom ngày nay, thuộc tỉnh Prey Veng của Cao Miên ngày 
nay. Theo các nhà cổ sử thì đây là một trong những đô thị trù phú vào 
bật nhất trên thế giới, vì nó tọa lạc trên một vùng núi không xa đồng 
bằng mà cũng không xa biển, rất thuận tiện cho việc giao thương và nông 
nghiệp. Theo Hán sử của người Trung Hoa thì đô thị nầy cách bờ biển 
khoảng 120 lý(33), nằm trên tuyến hải hành giữa Trung Hoa và Ấn Độ. 
Kinh đô Vyadhapura được xây dựng bằng gạch và đá rất kiên cố, chung 
quanh có hệ thống kinh đào vừa được dùng để dẫn thủy nhập điền, vừa được
 dùng để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ của của vương quốc. Hải 
quân của Phù Nam rất hùng mạnh, vào khoảng giữa thế kỷ thứ ba sau Tây 
lịch, vương quốc nầy đã có một đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh 
nhất trong vùng. Họ đã kiểm soát cả trên bộ lẫn dưới biển trên một tuyến
 đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Chính vì 
vậy mà khoảng 300 năm sau ngày thành lập họ đã chinh phục hầu hết các bộ
 tộc trên một phạm vi rất lớn từ Mã Lai, Malacca, Thái Lan, Miến Điện, 
Kambuja, và Lão Qua. Lãnh địa của vương quốc nầy trải rộng từ phía Nam 
Trung Việt hiện nay và toàn vùng Nam Phần, ở phía tây sang tận đến thung
 lũng sông Menam thuộc Thái Lan, phía Bắc đến tận vùng Trung Lào, và 
phía Nam đến tận bán đảo Malacca (Mã Lai). Ngày đó hầu như các tiểu quốc
 nằm trên bán đảo Malacca và quần đảo Nam Dương ngày nay như Sri Vijaya ở
 Palembang, Sailendra ở Java... đều nằm dưới quyền kiểm soát của Phù 
Nam.      Để có thể khắc phục những vùng nê địa chạy từ vùng cảng Óc Eo 
đến kinh đô Đặc Mục (Vyadhapura). Đây có thể nói là một trong những vùng
 nê địa khắc nghiệt nhất, vì hàng năm cứ đến mùa mưa là bị lũ lụt, còn 
vào mùa nắng là đồng khô cỏ cháy, không còn lấy một giọt nước. Vì thế, 
người Phù Nam đã đào rất nhiều kinh chạy từ Angkor Borei ra Vịnh Thái 
Lan, vừa làm đường giao thông thủy, mà cũng vừa làm hệ thống thoát nước 
và dẫn thủy nhập điền(34). Đến khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, người Chân
 Lạp cũng tiếp tục đào kinh thoát nước, như kinh Cái Bác từ ngọn Cái Bác
 đến sông Vàm Cỏ Tây. Bên cạnh đó, để khắc phục việc thiếu nước về mùa 
khô, người Chân Lạp đã cho đào nhiều  hồ nước lớn ở rải rác khắp nơi, 
như ao Bà Om ở Trà Vinh, hồ Tịnh Tâm ở Sóc Trăng, và những hồ nước lớn ở
 vùng Tịnh Biên (Châu Đốc). Theo các nhà khảo cổ và nhân chủng học 
nghiên cứu về Phù Nam, thì Óc Eo là hải cảng quan trọng nhất của Phù Nam
 từ khi mới lập quốc(35) cho mãi đến thế kỷ thứ VI sau Tây lịch. Nền 
kinh tế nghiêng về thương mãi của Phù Nam đã phát triển mạnh nhờ vị trí 
thuận tiện của Phù Nam. Trong lúc kỹ thuật hàng hải chưa tiến bộ, các 
nước đi từ Ấn Độ Dương qua Biển Đông, đến Nhật Bản và Trung Hoa đều phải
 ghé lại hải cảng Óc Eo của Phù Nam. Chính nhờ vậy mà ngành thương mãi 
của Phù Nam phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, từ sau khi thế giới có 
những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, thuyền buôn có thể đi xa bờ và không
 cần phải ghé lại những hải cảng không cần thiết nữa, nên nhu cầu ghé 
lại cảng Óc Eo của các tàu buôn đi từ các xứ Ấn-Âu đến Trung Hoa không 
còn nữa, vì vậy mà nền thương mãi của Phù Nam suy sụp một cách nhanh 
chóng. 
Hải Cảng Óc Eo Của Vương Quốc Phù Nam:        Từ tháng 2 đến tháng 4 năm
 1942, nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret đã tiến hành khai 
quật nhiều địa điểm khác nhau quanh khu vực Núi Sập(36). Đồng thời, 
người Pháp cũng cho chụp nhiều không ảnh từ phía Campuchia xuống tận các
 vùng duyên hải của miền Nam Việt Nam. Sau khi hoàn tất một số khai quật
 trên cánh đồng Óc Eo, nhà khảo cổ học Louis Malleret đã cho công bố kết
 quả những bằng chứng về vương quốc cổ Phù Nam(37). Kết quả của những 
cuộc khai quật nầy đã làm chấn động và thay đổi những hiểu biết về vương
 quốc Chenla(38), vì từ trước người ta luôn cho rằng Phù Nam là tiền 
thân của Chân Lạp. Theo Louis Malleret thì khu hải cảng Óc Eo nằm cách 
bờ biển khoảng 25 cây số, nhưng ông Malleret quả quyết rằng cách đây 20 
thế kỷ, hải cảng nầy phải nằm sát bờ biển. Qua tài liệu và những không 
ảnh thu thập được, cũng như sự quan sát tại chỗ của ông, ông Malleret đã
 kết luận diện tích của thành phố nầy khoảng 450 mẫu. Toàn vùng chia 
thành nhiều ô nhỏ, chứng tỏ ngày xưa đô thị nầy tọa lạc gần biển với số 
lượng dân cư rất đông. Vùng di tích quanh núi Ba Thê có phạm vi rộng 
lớn, tập trung nhiều di tích thờ phụng và lăng mộ. Bên cạnh đó, di tích 
nầy còn cho thấy đây là vùng trung tâm, nơi qui tụ nhiều tinh hoa kỹ 
thuật và nghệ thuật của nền văn hóa mang tên Óc Eo. Cũng theo ông Louis 
Malleret, qua những gì mà đoàn khảo cổ của ông đã khai quật được cũng đủ
 cho thấy Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương mại, mà nó 
còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam. Ngoài ra, 
những pháthiện nầy còn cho phép các nhà khảo cổ thời đó thấy được vai 
trò của thành phố cảng Óc Eo trong nền văn hóa cổ của Phù Nam. Óc Eo là 
hình ảnh tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ đã thành hình 
sớm nhất trong vùng Đông Nam Châu Á. Theo không ảnh chụp được vào năm 
1942, phải nói Óc Eo(39) là một trong những hải cảng lớn trên thế giới 
thời bấy giờ. Óc Eo có hình chữ nhật, dài khoảng 3 cây số và rộng khoảng
 1.5 cây số. Chung quanh cảng có 5 con đê cao và 4 hào rộng ở bốn cạnh, 
với diện tích bên trong cảng Óc Eo ít nhất phải trên 450 mẫu. Điều nầy 
chứng tỏ cách nay gần 2 ngàn năm, người Phù Nam đã có khả năng đắp những
 con đê chận biển giống như kiểu ‘Amsterdam’ của Hòa Lan ngày nay. Từ 
năm 1942 đến năm 1944, Louis Malleret tiếp tục tiến hành khai quật khu 
Núi Sập (Ba Thê), hy vọng tìm thêm dấu vết của vương quốc Phù Nam. Tuy 
nhiên, sau năm 1945, chiến tranh bùng nổ tại Đông Dương nên những cuộc 
khai quật của ông Louis Malleret phải bị gián đoạn.         Sau năm 
1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khai quật nhiều địa điểm, 
không chỉ quanh quẩn vùng Óc Eo, mà những cuộc khai quật sau nầy có qui 
mô rải khắp miền Nam Việt Nam. Ngoài những di cốt của con người được tìm
 thấy trong các khu lăng mộ và chum mộ, người ta còn tìm thấy dưới những
 hố khai quật rất nhiều di cốt của những con vật được nuôi trong nhà như
 chó, heo, mèo, gà, vân vân. Đặc biệt, người ta cũng tìm thấy rất nhiều 
hình voi được khắc trên các vật dụng, điều nầy chứng tỏ cư dân Phù Nam 
đã thuần dưỡng được loài voi để làm phương tiện giao thông trong sinh 
hoạt hằng ngày cũng như trong chiến tranh của họ. Điều nầy cũng cho thấy
 về mặt tâm lý học, người Phù Nam đã phát triển đến một trình độ rất 
cao(40). Sau nhiều cuộc khai quật, người ta thấy hình ảnh của vương quốc
 Phù Nam ngày càng hiện lên rõ nét, không chỉ tại Óc Eo, mà hầu quanh 
vùng Óc Eo và khắp cả miền Nam đâu đâu cũng có di tích hay phế tích của 
vương quốc cổ Phù Nam, như Cạnh Đền(41), Gò Tháp(42), Vĩnh Long, Tiền 
Giang, Gò Năm Tước và Gò Rộc Chanh(43), Sài Gòn, Cát Tiên (thuộc vùng 
Đồng Nai ngày nay), và Vũng Tàu. Đó là dấu tích của những gì mà các nhà 
khảo cổ đã khai quật được, nhưng chắc chắn các nhà khảo cổ sẽ không dừng
 lại ở đó. Trong tương lại, nếu được sự hợp tác của các nước Campuchia 
và Thái Lan, chắc chắn hình ảnh của vương quốc Phù Nam sẽ hiện lên ngày 
càng rõ nét hơn. Riêng những phát hiện phong phú hiện có về khu di chỉ 
Óc Eo cũng đủ chứng tỏ vai trò quan trọng của nó đối với vương quốc Phù 
Nam. Đây là một đô thị rộng lớn, một hải cảng có tầm cỡ thời bấy giờ với
 những sinh hoạt nhộn nhịp, một trung tâm kinh tế và thương mại phồn 
thịnh và sống động với những chứng cứ về mối quan hệ giao thương giữa 
Phù Nam và nhiều xứ Âu Á khác. Óc Eo là một di tích hết sức đặc biệt về 
vương quốc Phù Nam, vì nó chẳng những tiêu biểu cho nền văn minh của của
 vương quốc cổ nầy, mà nó còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh của một nền 
văn minh thành hình sớm nhất trong vùng Đông Nam châu Á. Ngoài ra, theo 
kết quả của những cuộc khai quật sau năm 1975, người ta còn tìm thấy 
những mẫu lúa ở các di tích Nền Chùa, Óc Eo có dạng hạt tròn và người ta
 cũng tìm thấy dấu tích của  những hạt lúa ma(44). Theo quyển ‘Con Đường
 Lúa Gạo’ của Watabe, trong những di tích gạch Óc Eo có chứa những vỏ 
trấu hạt dài. Đây là loại lúa có tên là lúa Tiên, thuộc hệ Bengal, được 
du nhập từ Ấn Độ vào khoảng những thế kỷ đầu Tây lịch. Qua những phát 
hiện về lúa, cộng với những phát hiện về hệ thống những kinh đào, nhà 
khảo cổ học Việt Nam Nguyễn Xuân Hiển đã đưa ra quan điểm về việc trồng 
lúa nước của vương quốc Phù Nam như sau: “Nghề trồng lúa ở Óc Eo thuộc 
dạng đầm lầy, đã sử dụng dạng kênh rạch để hỗ trợ cho cây lúa, và không 
xa nơi trồng lúa, còn bạt ngàn cả từng vạt lúa hoang dại.” Ngoài những 
phát hiện về nông nghiệp người ta cũng tìm thấy dấu tích thủ công 
nghiệp, nổi bậc nhất là những tượng Phật, tượng Thần và tượng những linh
 vật, cũng như những đồ thờ cúng, đồ trang sức và đồ gia dụng đủ kích 
cỡ, mà vật liệu xây dựng được dùng từ vãng, bạc, đồng, sắc, đá quí, gỗ 
quí, đất nung, và thủy tinh nhiều màu sắc. Bên cạnh những di vật nầy 
người ta còn phát hiện rất nhiều dụng cụ chế tác cũng như dấu vết của 
những lò nung, những nguyên liệu, phế liệu, những quặng nung chảy, những
 con lăn, bàn nghiền, cối, chày vồ, nồi nấu, khuôn đúc, bàn mài, vân 
vân. Có nhiều ngành nghề thủ công không phải của dân bản địa đã được 
thiết lập tại chỗ để sản xuất cho nhu cầu nội địa và cho cả việc xuất 
khẩu đi nơi khác nữa. Theo thư tịch cổ của Trung Hoa về đời nhà Lương: 
“Xứ Phù Nam xuất cảng vàng, đồng, thiết, trầm hương, ngà voi, công, chim
 thằng chài, vẹt ngũ sắc. Dân Phù Nam tìm thấy kim cương rất nhiều dưới 
sông và trên núi đá. Dân chúng lặn xuống nước mó kiếm rất dễ dàng.” Bên 
cạnh những phát hiện về công kỹ nghệ nội địa, các nhà khảo cổ học cũng 
tìm thấy những tấm huy chương của các vương triều La Mã, những miếng 
gương bằng đồng dưới thời nhà Đông Hán, những tượng Phật thời Bắc Ngụy, 
cùng những tượng thần Ấn Độ giáo, cho đến những đồ trang sức và vật dụng
 ngoại nhập... cho thấy ngành ngoại thương của vương quốc Phù Nam đã 
phát triển rất mạnh. Ngày nay, hầu hết các nhà khảo cổ đều đồng ý với 
ông Louis Malleret rằng Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương
 mại, mà nó còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam.
          Gunarvarman – Vị Hoàng Tử  Đã Khai Phá Vùng Đồng Tháp Mười:   
   Gunarvarman là con của quốc vương Jayavarman, trị vì vương quốc Phù 
Nam từ năm 470 đến 514 sau tây lịch. Đáng lý chàng phải ở lại vùng kinh 
đô Đặc Mục hay hải cảng Óc Eo với đầy đủ những tiện nghi vật chất của 
hoàng gia, nhưng vì sự phát triển đất nước chàng đã vâng lệnh vua cha đi
 đến khai phá vùng Prasat Pram Loven, nay là vùng Đồng Tháp Mười(45). 
Thuở đó Tháp Mười là một vùng đầm lầy hoang vắng, không một bóng người. 
Theo ý phụ vương, hoàng tử Gunarvarman và đoàn tùy tùng đã khai khẩn 
toàn vùng và xây tại đây một ngôi đền, mà về sau nầy người ta đã tìm 
thấy bia văn mà vị hoàng tử đã khắc lên để ca ngợi tinh thần của vua 
cha. Vào đầu thế kỷ thứ XX, những nhà khoa học khảo cổ người Pháp đã tìm
 thấy tại ngôi tháp nầy một tấm bia, mà người đứng chủ là Gunarvarman. 
Bên cạnh đó, người cũng tìm thấy hai tấm bia khác trong vùng Tà Keo bên 
Campuchia, gần biên giới Việt Nam, một của hoàng hậu Kulaprabhavati, vợ 
vua Jayavarman, và một của chính vị vua Jayavarman, nói về việc xây dựng
 một khu đền mà người đứng chủ là ông và con của ông, vị vua kế vị có 
tên là Rudravarman. Dựa vào những bia văn tại những nơi nầy cũng như 
những thư tịch cổ của Trung Hoa, một số những nhân vật lịch sử và những 
biến cố chánh trị tại vương quốc nầy tuần tự được phơi bày ra ánh sáng. 
Theo lời kể trong bia văn, tuy còn rất trẻ nhưng Gunarvarman hội tụ cả 
phẩm hạnh và giá trị, đã được quyền cai quản một xứ sở gồm những người 
sống bằng lộc thánh trên đất khai khẩn từ bùn lầy. Họ đã dựng một ngôi 
đền thờ thần ở Pram Loven, ngôi đền đã được dâng cúng bởi nhiều vị thần 
Ấn Giáo thông hiểu kinh kệ. Họ tin rằng ngôi đền sẽ che chở cho 
Gunarvarman và những người đến đây qua lời văn trong đoạn cuối của bia 
văn: “Cầu cho con người sùng kính (vị thần nầy) của Guanarvarman đức 
hạnh, sùng tín, khoáng đạt. Cũng cầu cho ai đến lễ nơi đây, cũng sẽ được
 đến nơi ngự trị tối thượng của Visnu, tâm linh thoải mái, giải thoát 
khỏi xấu xa.” Khi mà những vùng đất phía đông nam và tây nam như Gò 
Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau hãy còn là những 
vùng ngập nước quanh năm, nhờ công lao của hoàng tử Gunarvarman mà  khu 
vực quanh ngôi đền Tháp Mười thời đó chính là nơi tập trung cư dân đầu 
tiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nội dung của các bia 
văn cũng cho thấy những uẩn khúc của hoàng tộc Phù Nam trong giai đoạn 
cuối của vương quốc nầy. Kulaprabhavati là hoàng hậu, vợ của vua 
Jayavarman, phải ẩn tu nơi vùng Tà Keo hẻo lánh; trong khi đó con trai 
dòng chính của bà và vua Jayavarman là thái tử Gunarvarman lại phải tìm 
về nơi đầm lầy xa hẳn kinh đô Đặc Mục, nhưng vẫn không thoát khỏi nanh 
vuốt của con của một bà thứ phi là vua Rudravarman. Không bao lâu sau đó
 vương quốc Phù Nam cũng bị người Chân Lạp từ bình nguyên Korat tiến 
chiếm. Và từ thế kỷ thứ VII trở đi người ta không còn nghe nhắc đến 
vương quốc Phù Nam nữa. 
Cư Dân Và Nếp Sống Của Người Phù Nam:       Ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất 
vương quốc nầy đã có thư viện với nhiều sách vở được viết bằng chữ Phạn.
 Ngôn ngữ và chữ viết chánh của vương quốc Phù Nam là Phạn ngữ 
(Sanskrit). Dù phái đoàn kinh lý không nói gì đến hệ thống hành chánh, 
nhưng họ mô tả hệ thống luật lệ và thuế má của Phù Nam thời bấy giờ 
không thua gì tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, nông nghiệp và ngoại thương 
của xứ nầy rất phồn thịnh. Sứ thần Trung Hoa đã tỏ ra khinh khi người 
Phù Nam khi họ cho rằng dân Phù Nam là một dân tộc man di, da đen, xấu 
xí, tóc quăn, đa số đều ở truồng và đi chân không. Sau khi sứ thần Trung
 Quốc than phiền với vua Phù Nam thì nhà vua liền ra lệnh cho tất cả 
thần dân phải quấn vải vào thân mỗi khi có sứ thần nước khác đến. Các 
nhà cổ sử cho rằng có lẽ đây là tiền thân của chiếc xà rông mà các dân 
tộc Thái Lan, Mã Lai, Cao Miên và Lào thường mặc ngày nay. Tuy nhiên, 
những điều nầy ngược lại với những báo cáo của các thương nhân ngoại 
quốc. Họ ghi lại rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc màu mè sặc sỡ với vô 
số đồ trang sức làm bằng ngọc ngà châu báu. Chính Khương Thái đã ghi lại
 như sau: “Vị vua đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người thuộc dòng 
dõi quý tộc ở Ấn Độ hay là một Tăng lữ Bà La Môn, tên là Hỗn Điền 
(Kaundinya). Cũng theo Khương Thái thì vương quốc Phù Nam có nhiều đô 
thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở. Người Phù Nam có nước
 da màu đen, tóc quăn, xấu xí và sống khỏa thân. Nếp sống của họ rất đơn
 giản nhưng trong xã hội của họ không có trộm cắp. Đa số làm nghề nông 
theo lối cổ xưa. Họ rất khéo chạm trổ trên đá và trên gỗ. Trong cung 
đình, đa số chén dĩa đều làm bằng vàng, bạc, trân châu. Trong khi đó đồ 
dùng của thường dân thì đa phần được làm bằng đất nung. Tại kinh đô, có 
văn khố và thư viện lớn với rất nhiều sách vở bằng chữ Phạn. Họ dùng chữ
 viết gần giống như loại chữ viết của các dân tộc ở vùng Trung Á, có 
nguồn gốc từ chữ Phạn của Ấn Độ.” Ngay từ những năm đầu Tây lịch, người 
Phù Nam đã biết dùng chữ viết trong công việc hành chánh và thương mãi 
rồi. Họ chiêm ngưỡng và sùng bái các tượng Thần làm bằng đồng, chạm hình
 người 2 mặt 4 tay, hoặc 4 mặt 8 tay. Về nghi thức ma chay, gia đình nào
 có người chết thì những người đàn ông trong gia đình đều cạo hết râu 
tóc. Thường thì họ thủy táng(46)  người chết, hoặc hỏa táng(47). Một số 
cư dân khác tại các vùng ngập nước thì theo phương cách ‘điểu táng’(48).
 Ông Khương Thái(49) đã ghi nhận là cư dân trong vùng không sử dụng nước
 giếng, mà họ thường đào những cái ao lớn cho cả xóm xài chung. Tục lệ 
đào những cái ao lớn cho cả sóc ngày nay vẫn còn tại một số địa phương 
như Trà Vinh, Sóc Trăng hay Tri Tôn (Châu Đốc). Theo truyền thuyết thì 
chính Khương Thái là người đã thuyết phục nhà vua Phạm Tần (Fan-Tsan) ra
 sắc luật bắt buộc mọi người phải mặc quần áo. Từ đó dân chúng lấy tấm 
vải quấn tròn quanh người, giống như họ quấn xà rông (sarong) ngày nay. 
Theo thư tịch cổ đời nhà Lương, người Phù Nam rất thích dùng voi trong 
mọi công tác vận chuyển, có lẽ thời bấy giờ vùng nầy rất nhiều voi, nên 
chẳng những nhà vua và triều thần dùng voi, mà hầu như cung nữ và những 
thương gia tại kinh đô đều sử dụng voi làm phương tiện đi lại.       Hầu
 hết những dữ kiện liên quan đến vương quốc và cư dân cổ Phù Nam đều 
được dựa theo cổ sử Trung Hoa và những di vật khai quật từ các nhà khảo 
cổ học cho thấy dân Phù Nam thờ thần 2 tay hay thần bốn tay (theo Ấn 
giáo), nhưng cũng thờ Phật. Họ đã có tổ chức hành chánh, quân sự và kinh
 tế rất vững vàng. Những dữ kiện nầy phản ảnh một thực tế lịch sử thực 
tế về nguồn gốc của người Khmer. Dầu theo cổ sử thì vương quốc Chân Lạp 
chỉ mới được thành lập vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch, nhưng người Cao 
Miên ngày nay luôn xem Hỗn Điền là vị Bành Tổ của họ, vì họ cho rằng 
chính Hỗn Điền là người đã sáng lập ra đất nước của họ và mang đến cho 
họ văn hóa Ấn Độ mà họ luôn hãnh diện. Chính vua Hỗn Điền là người đã 
mang lại cho họ một nền văn hóa với đỉnh cao Angkor Wat và Angkor Thom. 
Chính nhờ vị vua nầy mà phụ nữ biết may mặc y phục một cách kín đáo, 
chính nhờ vị vua nầy mà dân tộc Khmer có được ngôn ngữ riêng cho chính 
họ, dù họ vẫn lấy chữ Phạn làm chữ viết. Theo họ thì chính hoàng đế Hỗn 
Điền đã du nhập vào xứ sở của họ tôn giáo, luật pháp, cũng như chế độ 
chánh trị từ Ấn Độ. Cũng theo Khương Thái trong chuyến đi kinh lý vương 
quốc Phù Nam, đã ghi lại trong sách “Phù Nam Phong Thổ” như sau: “Vị vua
 đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người quí tộc đến từ Ấn Độ, hay là 
một tăng lữ Bà La Môn tên Hỗn Điền (Kaundinya).” Theo ‘Phù Nam Phong 
Thổ’ thì thời đó dân Phù Nam đã biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện 
kim của họ đã lên đến trình độ rất cao.       Theo thư tịch cổ đời nhà 
Tề, vương quốc Phù Nam dưới thời vua Xà Da Bạt Na(25), dân chúng Phù Nam
 chuyên nghề thương mãi và rất giỏi nghề đi biển. Họ thường tổ chức 
những chiến thuyền đi đến cướp phá các vùng lân cận. Cung điện nhà vua 
thường rất uy nghi lộng lẫy, xây nóc bằng, bên trong được trang trí bằng
 nhiều ngọc ngà châu báu. Thường dân thì cư trú trong những ngôi nhà sàn
 lợp bằng lá tre, có rào cây bao quanh. Người Phù Nam rất giỏi về canh 
tác nông nghiệp. Mỗi khi có lễ hội hay những lúc rảnh rỗi họ thường tụ 
tập lại để coi đá gà, hoặc xem trâu, bò, heo cắn lộn giống như những bộ 
tộc man di khác. Đối với người Trung Hoa, họ luôn xem những dân tộc 
không phải là Hán tộc đều là những dân tộc man di, nên lời lẽ trong các 
nhựt ký hoặc cổ thư có vẻ khinh miệt. Nhưng theo lời kể hoặc nhựt ký của
 thương nhân các nơi khác, họ tỏ vẻ thán phục nền văn minh và sự cường 
thịnh của người Phù Nam. Theo họ, dân tộc Phù Nam phải là một dân tộc 
văn minh lắm mới có thể biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện kim của họ
 đã lên đến trình độ rất cao. Riêng về lãnh vực thủ công đồ trang sức và
 kim hoàng, người Phù Nam thời đó có khả năng chế tác ra đủ loại đồ 
trang sức bằng châu báu, vàng bạc hay những thứ đá quí.        Vương 
quốc Phù Nam suy yếu kể từ sau năm 539 và bị buộc phải triều cống cho 
vương quốc Chân Lạp, một phiên quốc của Phù Nam trước đây. Đến năm 627, 
vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa tên vương quốc Phù Nam trên bản đồ Đông 
Nam Á. Lúc đó thần dân Phù Nam bị sáp nhập và ép buộc phải sống chung 
với người Chân Lạp. Những ai không chịu khuất phục phải rút sâu vào rừng
 núi phía đông bắc, hoặc dong buồm sang tị nạn tại các đảo Sumatra, 
Java, và Borneo... Theo các nhà sử học, khảo cổ học và nhân chủng học, 
rất có thể những hậu duệ của hoàng gia Phù Nam nầy đã dựng lên triều đại
 Sailendra huy hoàng trên quần đảo Nam Dương, và cũng rất có thể họ đã 
kết hôn với những ông hoàng bà chúa tại vùng Nam Đảo nầy, nên các giới 
quí tộc hiện nay tại các vùng Mã Lai, Nam Dương, Malacca... có thể đều 
có liên hệ huyết thống với người Phù Nam. Riêng những người Phù Nam còn ở
 lại vùng Nam Bộ, bị ép buộc phải cộng sinh với người Khmer, họ dần dà 
biến thành một dân tộc sống trong lục địa và mất dần khả năng hàng hải 
của cha ông ngày trước. 
(Mời Xem Tiếp Phần 3)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét