Tác giả Người Long Hồ vừa hoàn tất một tác phẩm khá vĩ đại về vùng đất
và con người của Miền Nam Việt Nam. Tác giả đã chọn một nhan đề rất ý
nghĩa là Đất Phương Nam cho tác phẩm nầy.
Tác phẩm gồm hai tập, Tập Một có 34 bài từ bài 1 đến bài 34 và Tập Hai
30 bài từ bài 35 đến bài 64, với tất cả hơn 1.600 trang khổ lớn (8
½"-11"). Đất Phương Nam có thể xem như một loại địa chí, nói về lịch sử
hình thành, về vị trí địa dư, về các danh lam thắng cảnh, các đền chùa,
lăng miếu, các cù lao, các sông ngòi, kinh rạch, đường sá cầu cống,
chiếc phà, chiếc bắc, các khu vườn, mảnh ruộng, các loài cây trái, và
nếp sinh hoạt văn hóa xã hội của người dân các tỉnh thành, các vùng đất
đặc biệt của Miền Nam Việt Nam từ Phan Thiết đến Cà Mau, từ lúc thành
hình hồi thế kỷ thứ XVIII đến bây giờ. Nhưng Đất Phương Nam có phần đầy
đủ hơn các địa chí của nho gia như Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh
Hoài Đức hay Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn chẳng hạn, bởi ngoài phần
lịch sử cận đại và hiện đại còn có thêm phần tiền sử và cổ sử liên hệ
tới các giống người định cư trên vùng đất Phù Nam, Thủy Chân Lạp, mà nhà
nho xưa chưa biết được và chỉ người ngày nay mới biết nhờ ở những công
trình khai quật gần đây của các khoa học gia khảo cổ Âu Tây vừa khám
phá, và phần quan trọng hơn nữa là phần phát triển, tân tiến hóa các
tỉnh thành dưới thời Pháp thuộc cho đến Đệ Nhị Cộng Hòa. Còn nếu so với
những công trình biên soạn gần đây về Nam Kỳ Lục Tỉnh, về Văn Minh Miệt
Vườn, về Đồng Bằng Sông Cửu Long, hay về các tỉnh Miền Nam của những
soạn giả như Sơn Nam, Hứa Hoành, Huỳnh Minh, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn
Hầu, v.v... thì công trình nghiên cứu, biên soạn của Người Long Hồ cũng
có phần đầy đủ hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu.
Trừ một số bài tổng quát về Công Nghiệp của các Chúa Nguyễn với vùng Đất
Nam Kỳ (bài 1), Đất Phương Nam Theo Dòng Thời Gian (bài 2), Tiến trình
Nam Tiến” (bài 3), Thu Phục Champa (bài 4), Vương Quốc Phù Nam (bài 5),
Thu Phục Thủy Chân Lạp (bài 6), Cộng Đồng các cư dân bản địa trên đất
Nam Kỳ xưa (bài 7), Công ơn của đức Tả Quân Lê văn Duyệt (bài 34), vv...
và phần kết luận (bài 64), còn mấy mươi bài còn lại của sách Đất Phương
Nam đi vào chi tiết mấy trăm năm lịch sử hình thành và phát triển của
từng tỉnh, từng vùng của cả Miền Nam Việt Nam từ khởi điểm Mô Xoài (Bà
Rịa) đến các tỉnh Miền Đông rồi Miền Tây Nam Phần, từ Bình Thuận (Phan
Thiết) đến tận Mũi Cà Mau. Tuy dưới triều Gia Long và phần đầu của Minh
Mạng, Gia Định Trấn chỉ gồm có 5 trấn, và sang phần sau của triều Minh
Mạng thì Gia Định Trấn được cải thành Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh (Nam
Kỳ Lục Tỉnh), nhưng đến thời Pháp thuộc thì cả Nam Phần Việt Nam
(Cochinchine), thuộc địa của Pháp, có đến 21 tỉnh. Sách Đất Phương Nam
đề cập đến cả 21 tỉnh, một ít quận quan trọng, một số các địa danh nổi
tiếng như Côn Sơn, Phú Quốc, Thất Sơn, những địa danh xưa như Kas
Krobei, Prei Nokor, vv... chứ không chỉ nói đến từng vùng hay chỉ những
tỉnh lớn thời Minh Mạng. Đọc giả có thể tìm thấy Biên Hòa (bài 13), Cù
Lao Phố (bài 14), Bình Long, Phước Long (bài 16), Bình Thuận (bài 17),
Bà Rịa (bài 18), Côn Sơn (bài 19), Bình Dương (bài 20), Gia Định (bài
21), Bến Nghé (bài 22), Thủ Đức (bài 24), Tây Ninh (bài 25), Tân An (bài
27), Mộc Hóa (bài 28), Gò Công (bài 29), Sa Đéc (bài 31), Mỹ Tho (bài
40), Bến Tre (bài 41), Vĩnh Long (bài 42), Trà Vinh (bài 43), Cần Thơ
(bài 46), Sóc Trăng (bài 48), An Giang (bài 49), Châu Đốc (bài 50), Rạch
Giá (bài 54), Phú Quốc (bài 55), Hà Tiên (bài 57), Bạc Liêu (bài 58),
Cà Mau (bài 59), Rừng U Minh (bài 61). Ngoài các tỉnh, quận, và một số
địa danh quan trọng, tác giả cũng dành nhiều bài viết về các cộng đồng
người Minh Hương, người Chăm, người Khmer với những đặc trưng văn hóa và
sự đóng góp của họ vào công cuộc phát triển chung của Miền Nam Việt
Nam. Thành ra có thể nói về bề rộng, tác phẩm của Người Long Hồ, bao
quát hầu hết các vùng đất và con người từ Miền Đông sang Miền Tây Nam
Phần từ khi thành hình đến nay, một cách đầy đủ mà trước tác giả chưa có
tác giả nào làm được như thế.
Bề rộng đã như thế, bề sâu càng đáng coi trọng hơn. Mỗi bài viết là một
công trình sưu khảo đáng kể. Tài liệu dồi dào, nhìn qua bảng liệt kê các
sách tham khảo và những chú thích liên hệ tới từng bài trong sách,
người đọc cũng có thể thấy được số tài liệu phong phú mà tác giả đã xử
dụng trong công cuộc nghiên cứu. Mỗi bài đều đi sâu vào lịch sử xa xưa
đến nay, tìm về nguồn gốc của địa danh, sự biến đổi qua các thời đại, đi
sâu vào địa lý vào sự cấu tạo của địa chất, đề cập đến mọi khía cạnh
sinh hoạt của con người, liên hệ tới văn hóa xã hội của từng thời đại,
mô tả đầy đủ núi non, sông ngòi, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,
vv... Thí dụ bài 13, Tập I, từ trang 307 đến trang 340, nói về Biên Hòa
với nhan đề Từ Vùng Đất Biên Trấn Đến Tỉnh Biên Hòa-Đồng Nai, tác giả đã
lần lượt cung ứng cho chúng ta nhiều kiến thức và dự kiện về:
Tổng Quan Về Vùng Biên Hòa Của Xứ Đàng Trong
Cấu tạo Địa Chất Vùng Đồng Nai - Biên Hòa
Những Người Minh Hương Tiên Phong Đi Khai Phá Vùng Nông Nại
Từ Dinh Biên Trấn Đến Trấn Biên Hòa
Từ Trấn Biên Hòa Đến Tỉnh Biên Hòa
Tiến Trình Di Dân Trên Vùng Đất Biên Hòa
Địa Thế, Núi Non Và Khí Hậu Trong Vùng Đất Biên Hòa
Cù Lao Phố Một Thời Vang Bóng
Sông Ngòi Vùng Đồng Nai Biên Hòa
Di Tích Lịch Sử Biên Hòa Danh Lam Thắng Cảnh Biên Hòa
Cây Trái Vùng Đồng Nai - Biên Hòa
Di Tích Khảo Cổ Trên Vùng Đất Đồng Nai - Biên Hòa
Di Tích Gốm Sứ Cổ Trên Vùng Đất Đồng Nai - Biên Hòa
Biên Hòa Qua Các Thời Đại
Tỉnh Đồng Nai Sau Năm 1975 Với phần chú thích thật rõ ràng, trưng dẫn đầy đủ tài liệu, sách báo giá trị.
Qua bề sâu và bề rộng nói chung, đây là một tác phẩm loại biên khảo, rất
công phu, rất có giá trị. Càng có giá trị hơn nữa khi nhắm vào đối
tượng Miền Nam Việt Nam, vì xưa nay Miền Nam ít được các học giả, các
nhà văn hóa, các chính trị gia, các văn nghệ sĩ để ý tới.
Tuy nhiên ở phương diện hình thức, đây không phải là một quyển sách hay
nguyên một bộ sách toàn vẹn có thứ tự lớp lang, có bố cục chặc chẽ, với
cách trình bày kinh viện như các sách biên khảo, hay sách giáo khoa
thường thấy. Đây chỉ là một tập hợp của nhiều bài viết riêng biệt gom
hết lại in thành sách, và mỗi bài có thể là một bài độc lập đề cập đến
một đề tài nào đó đủ để ấn hành thành một bài báo hay tạp chí. Do đó có
thể có những đoạn lập lại từ một bài khác. Ngoài ra, danh từ Nam Bộ
thường thấy trong sách có thể không quen tai lắm với nhiều người trong
Miền Nam tự do, mặc dầu tiếng Nam Bộ rất được thông dụng ở đây trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau nầy thì người dân Miền Nam biết đến
hai tiếng Miền Nam nhiều hơn là Nam Bộ. Sau hết vì quá nhiệt tình với
quê hương và dân tộc mà đôi khi tác giả không kềm chế được tình cảm cá
nhân trong việc phê phán một số các nhân vật lịch sử. Thường thì trong
cương vị một nhà biên khảo, tác giả chỉ nên chú trọng vào trong việc
trình bày sự thật một cách khách quan, vô tư, hơn là nói lên những nhận
xét cá nhân mình về những nhân vật hay sự việc lịch sử. Phần phê phán
hãy dành cho người đọc phải hơn.
Tóm lại trừ một vài cái bất thường nho nhỏ, không đáng kể, như vừa trình
bày ở trên, quyển "Đất Phương Nam" là một công trình biên khảo to tát,
có giá trị đáng kể, rất cần có trong mọi gia đình Việt Nam nếu muốn bảo
tồn di sản văn hóa tốt đẹp của cha ông. Xin cảm ơn tác giả Người Long
Hồ, đã bỏ bao nhiêu công lao khó nhọc và cả tiền của nữa, để hoàn thành
tác phẩm giá trị nầy, và xin cầu chúc tác giả nhiều may mắn, thành công
trên đường phụng sự văn hóa nước nhà.
Santa Ana ngày 10 tháng 10 năm 2011
Cựu Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm
Cựu Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa và Thanh Niên Việt Nam Cộng Hòa
Chủ Biên Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai - Cửu Long
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét