Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Việt Nam Phong Tục : Trong Gia Tộc Phần 3

VIII. THẦN HOÀNG
Người nào làm quan từ tam, tứ phẩm trở lên, thì nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kị tùy theo phẩm tước của mình: như nhất phẩm thì được phong tặng tam đại, nhị phẩm thì được phong tặng nhị đại, tam tứ phẩm được phong tặng nhất đại
Sắc của vua ban đại để kể công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy ân ra mà truy phong đến tiền đại. Phong về làng nào, làng ấy phải rước sắc về nhà chủ, rồi nhà chủ chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ cáo gia miếu
Trước hết sao bản sắc của vua ra một tờ giấy vàng, cũng như bản sắc chính. Hải bản ấy đựng vào một cái mâm, đặt trên hương án. Trên bàn thờ bày đủ đồ tế tự, người chủ đốt hương vào lễ, rồi tuyên đọc một bài văn kể duyên  do tổ khảo  được phong tặng và được phong chức. Đoạn rồi tuyên đọc đến bản sắc. Xong rồi đốt bản sao mà để bản nguyên lại thờ cho nên gọi là Thần Hoàng ( đốt tờ sắc vàng)
Tế lễ xong thì khoản đãi khách khứa, cũng như các việc ăn mừng

Xét cái việc phong tặng này, chủ ý triều đình cốt để khuyên người làm con có tài có đức thì tổ tiên cũng được gội nhuần mưa móc triều đình. Vậy thì mình hay bao nhiêu thì cha ông mình được vinh hiển bấy nhiêu, mà nhớ đến công đức cha ông thì lại nhớ đến vua, ơn nước, càng nên hết lòng mà báo đáp ân sâu
Điểm này vừa bồi thực được nhân tài, mà lại duy trì được nhân tâm, thực là một điển rất trọng, tục ăn mừng là phải lắm

IX.TANG MA

Khi mới mất: Nhà nào có ông già bà cả gần mất, con cái vực đến chỗ chính tẩm, hỏi han xem người trối trăng những gì, rồi đặt tên hiệu cho người biết, dùng nước trầm hương lau sạch sẽ, thay đổi quần áo tươm tất. Khi tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa để ngang hàm, bỏ một vốc gạo và 3 đồng tiền vào miệng. Nhà phú quí thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là ngậm hàm
Đoạn trải chiếu xuống đất, đưa người xuống một lát ( lấy nghĩa người ta bởi đất sinh ra thì khi chết lại về với đất) rồi lại đem lên giường. Người con cầm cái áo của người mới mất thay, trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý con mong cho người sống lại rồi lấy áo phủ lên thây

Khâm liệm, nhập quan:  Nhà giàu dùng vóc liễu, tơ lụa, nhà thường dùng vải trắng, may làm đại liệm, tiểu liệm ( đại liệm: một mảnh dọc năm mảnh ngang, tiều liệm: một mảnh dọc ba mảnh ngang) để khâm liệm, rồi thì nhập quan, bỏ vào sàng
Tục ta, phần nhiều  người tin theo thầy phù thủy, trong quan tài thường có mảnh ván đục hình sao Bắc đẩu tất tinh. Trước khi nhập quan, phải chọn giờ tránh tuổi rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho là chết phải giờ xấu thì lại bỏ cỗ bài tổ tôm, hoặc quyển lịch Tàu, hoặc quyển lịch Ta ( nhất là quyển lịch có dấu bộ đóng thì càng hay), hoặc tàu lá gồi, để trấn áp ma quỉ. Đâu đấy sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính gian giữa, hoặc nhà còn người sống lớn hơn thì đặt gian cạnh. Nhà nào muốn để lâu một vài tháng thì quàn lại để trong nhà hoặc đem ra vườn phủ cát lên
Mấy hôm mới nhập quan, con cháu còn được phép cưới, gọi là cưới chạy tang

Thành phục: Được vài ba hôm, công việc lo liệu đâu đấy thì làm lễ Thành phục. Trước bàn thờ bày linh sàng, linh tọa, đặt hồn bạch (Hồn bạch là lấy lụa đắp vào khi người gần mất, rồi kết lại có đầu, có tay có chân như hình người). Ở ngoài thì bày hương án bàn độc và đồ cúng cấp. Con cháu mặc đồ tang phục, xõa tóc, theo thứ tự đứng sắp hàng ra sàn mà khóc lóc. Nhà phú quí có tế, nhà thường dân hay mượn thầy phù thủy cúng đỡ cho

Tang phục: Con trai, con gái, con dâu đội khan sô, mũ chuối, mặc áo sô, ngoài quàng sợ dây chuối, thắt dây lưng bằng chạc. Cháu nội thì đội mũ mấn, khăn trắng, mặc áo thụng trắng, thân thuộc cũng mặc đồ trắng cả

Chiêu tịch diện: Tế thành phục rồi thì mỗi ngày buổi sớm, buổi chiều cúng cơm, gọi là chiêu tịch diện.  Lễ chiêu tịch diện như  thờ khi người còn sống. Buổi sáng con cháu bưng chậu nước, khăn mặt, cau trầu  cho vào chỗ giường nằm, khóc ba tiếng rồi rước hồn bạch ra chỗ bàn tọa, mới dâng cúng. Buổi tối dâng cúng xong, lại rước vào chỗ linh sàng, buông màn, đắp chăn rồi mới ra
Lễ ấy, nhà đại gia mới dung, nhà thường thì chỉ cúng ở chỗ linh tọa mà thôi

Thổi kèn giải: Trong những đêm ma còn quàn ở nhà, có nhà mỗi tối mời phường bát ẩm gảy đàn thồi sáo và có phường tang nhạc thổi kèn đánh trống. Con cháu, mỗi người thổi một câu khóc ông bà cha mẹ, rồi thưởng tiền cho bọn ấy. Nhà nào không có kèn giải thì không vui

Chuyển cữu: Trước hôm cất ma, hoặc ban đêm hoặc buổi sớm, làm lễ chuyển cữu, nghĩa là xoay quan tài. Nguyên lễ, có rước quan tài sang chầu tổ miếu, nhưng nhà chật hẹp không mấy người rước quan tài, chỉ có rước hồn bạch, nhà đại gia thì phong áp mão đại trào rước sang mà thôi. Còn những nhà không có nhà thờ tổ riêng thì chỉ xoay quan tài đi một vòng rồi lại đặt đấy
Phát dẫn: Hôm cất ma, gọi là ngày phát dẫn. Hôm ấy con cháu, an hem, người quen biết đều đi đưa cả
Cha mất thì các con trai chống gậy tre, mẹ mất thì chống gậy võng, con trai nào mất trước đi rồi thì con trai của người ấy chông gậy thay cha, hoặc nhà nào đi vắng thì treo cái gậy ấy ở đầu đòn đại dư. Nếu không có con trai thì ai vào ăn thừa tự phải chống gậy. Con gái, con dâu thì lăn đường mới là con có hiếu
Người thân thích thì một vài người đi gần linh cữu gọi là hộ tang
Còn người đi đưa hết thảy gọi là tống tang

Nghi trượng đi đường: Trước hết có hai thần phương tướng làm bằng giấy, hình dung dữ tợn, cầm đồ qua mâu đi dẫn đạo
Thứ đến thể kỳ, có hai người khiêng một bức hoành vải trắng đề bốn chữ ( ví dụ Cha mất thì đề Hổ sơn vân ám, mẹ mất thì Dĩ linh vạn mê v.v). Đôi bên treo đôi đèn lồng để chức tước húy, hiệu của người mất
Thứ đến minh tinh. Minh tinh làm bằng vải lụa hoặc bằng vóc nhiễu đỏ, dài độ 7, 8 thước, lấy phấn trắng đề chức tước, họ tên, thụy hiệu người mất treo vào một cán tre, hoặc làm như hình cái trụ để vào bàn độ cho người khiêng. Đề lòng minh tinh thường tình theo bốn chữ “ Quỉ, Khốc, Linh, Thính” viết dài nắn thế nào mặc lòng, nhưng chữ cuối cùng không được chạm vào chữ Quỉ, chữ Khốc, e chạm phải hai chữ đó thì độc chăng
Kế đó đến hương án, bày giá hương, độc bình, đồ tam sự ( hai cây nến và một bát hương), mâm ngũ quả
Kế đến thực án bày tam sinh, hoặc lợn quay, bánh trái. Rồi đến linh xa rước hồn bạch, có phường tài tử bát âm đi dàn mặt và có đủ đồ binh khí, nào đèn giấy, nào biển đan triệu, đàn ông để hai chữ trung tín, đàn bà để hai chữ trinh tiết. Nào trướng, nào câu đối, liễn của con cháu và của người phúng viếng
Kế nữa thì cở công bố, đèn chữ á, nhà đại gia dung đủ đồ nghi trượng sứ thần, có kiệu phong áo ão đại trào, có cờ, có tán, đồ lộ bộ, nến sáp hai dãy, có chiên có trống, có võng có lọng có trống cà rung. Nhà thường thì chỉ có phường kèn trống thổi khúc nam thương mà thôi
Sau cùng thì là đại dư rước linh cữu, trên linh cữu che mái nhà táng giấy. Nhà phú  quí thì làm mái nhà tang rất hoa mỹ, có cái tốn tới ba bốn chục bạc, có trống tiêu cổ hoặc lệnh dẫn linh cữu đi
Con cháu tống tang đi theo linh cữu có bạch mộc ( ta thường gọi là phương dụ) để che cho khỏi mưa nắng

Ở về các vùng nhà quê, thì chỉ dung mấy thư minh tinh, nhà tang, võng chủ đèn biển sơ sài mà thôi, không mấy nhà trang hoàng như cách phố xá, nhưng lại có các vải cẩm phướn đi dưỡng dực đôi bên, tụng kinh niệm Phật gọi là đi hộ phúc, có nhà Sư ngời xe, bận áo cà sa, tay gõ mõ, miệng tụng kinh để nguyện cầu cho linh hồn được về Tây phương cực lạc thế giới, các người qui Phật mà mất thì các sãi lại đội cầu bát nhã để làm đường cho linh hồn đi sang Tây phương
Trong khi đi đường rắc vàng thỏi, vàng giấy, là tục cho rằng có quỉ phụ vào quan tài, rắc vàng để tống quỉ, kẻo quan tài nặng khó đi

Nhà trạm: Khi đi đường, nhà phú quí có trạm trung đỗ, để đình cữu mà diện tế. Nhà trạm lợp bằng lá hoặc bằng cót, căng vải kết hoa treo đèn, treo biển, bài trí lịch sự. Đến chỗ hạ huyệt lại có một trạm tế hạ huyệt. Lúc tế trạm, tục thường kén mời người nào có chức tước danh giá đề chủ và mượn  một người nữa phủng chủ. Lúc tế thì người phủng thần chủ phủng ra đặt lên trên án, người đề chủ cầm bút chấm một nét trên đầu chữ chủ và sổ một nét. Để xong thì nhà chủ phải hậu ta lễ vật cho người đề chủ, có khi bao nhiêu đồ tế tự trong rạp phải biếu cả

Hạ huyệt: Lúc hạ huyệt có tế thổ thần nơi đất đó. Có ông thầy địa lý phân kim gióng hướng, đợi đến giờ tốt ( giờ hoàng đạo) thì hạ huyệt. Ở nhà quê thì các vãi chờ khi lấp đất xong, mỗi người cầm một nắm hương, tụng kinh, niệm Phật đi chung quanh mộ rồi mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ gọi là dong nhan
Huyệt thường nhồ thầy địa lý tìm đất trước, nhà đại gia thì làm sẵn sinh phần

Khóc lạy: Từ lúc ma còn để trong nhà thì con cháu và khách khứa viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người sống. Đến lúc hạ huyệt rồi thì mới lạy bốn lạy, nghĩa là đến lúc đó thì mới lấy đạo thờ người chết mà thờ
Trong lúc đưa ma, con cái lúc nào cũng phải khóc. Khi có khách vào phúng viếng, thường có ô hô ba tiếng (hoặc tình không thân thì lễ không), con trai con rể đều phải khóc mà đáp lễ lại, nhưng chỉ đáp lại một nửa mà thôi, nghĩa là khách lạy hai thì mình đáp một, khách lạy bốn thì mình đáp hai

Ngu tế: An tang rồi trở về nhà lại tế, gọi là Ngu tế. Ngày hôm trước gọi là sơ ngu, ngày thứ hai gọi là tái ngu, ngày thứ ba gọi là tam ngu. Ngu nghĩa là yên. Vì người mất nên xương thịt mới chon dưới đất, hồn phách chưa được yên, cho nên tế ba lần để cho yên hồn phách người mất
Nhà phú qui mới có Ngu tế, nhà thường thì trong ba ngày chỉ có họ hàng thân thuộc đến phúng viếng mà thôi. Ở nhà quê thì có tư vãn hàng giáp đến trợ tế, ăn uống tốn kém

Viếng mộ, đắp mộ:  Trong ba ngày sau khi mới chon, mỗi buổi chiều con cái đem cơi trầu đến chỗ mả khóc lóc gọi là viếng mộ. Tục ta thường để đến hôm ba ngày mới đắp mộ, sửa sang cho tốt đẹp, hoặc làm nhà mộ. Thường dân thì hay mượn thầy phù thủy yểm bùa ở mả, hoặc dùng gà trắng, hoặc dùng chó đen để cúng thổ thần, hoặc dùng lươn, cá chép, ốc, mỏ quạ để yểm bùa, cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần kẻo nó quấy phá người mới chết
Từ đó trở đi thì ngày nào cũng cúng cơm hai bữa và khóc lóc

Chung thất: Bốn mươi chín ngày gọi là tuần chung thất. Tuần này có tế, có nhà đem vào chùa làm chay, nhờ nhà sư tụng kinh sám hối ba đêm hoặc bảy đêm ngày, để cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ

Tốt khốc: Một tram ngày là tuần tốt khốc, nghĩa là đến bây giờ mới thôi khóc, tuần này tế lễ một tiệc rồi thì không cúng hai buổi nữa

Tiểu tường: Được một năm thì giỗ đầu gọi là lễ tiểu tường. Bấy giờ mới trừ bỏ hung phục như  đồ sô gai, gậy mũ v.v Nhưng vẫn còn mặc đồ tang chế cho hết ba năm

Đại tường: Hai năm giỗ hết gọi là đại tường

Đàm: Sau đại tường hai tháng chọn một ngày làm lễ trừ phục, gọi là đàm tế. Bấy giờ mới bỏ hết đồ tang phục mà mặc các sắc phục thường

Đốt mã: Trong khoảng tiểu, đại tưởng, có hai kỳ đốt mã. Kỳ mã đầu gọi là mã biếu, kỳ mã sau mới thực là mã dâng cho người mất dung. Tục hay đốt về tuần Trung nguyên tháng bảy, cũng nhiều nhà thì đốt vào ngày giỗ đầu và ngày giỗ hết
Đồ mã thì làm những đồ thường dung của người, như chăn màn, quần áo, hòm xiểng, mâm bát v.v cho chí thằng quít con nhài, con mèo con chó, có nhà sắm đồ mã tốn đến năm bảy chục, một vài tram bạc
Nhà thì đốt mã tại gia, nhà thì đốt mã tại chùa. Có người thì làm chay cúng tam tứ phủ năm bảy ngày
Từ khi mới khám liệm cho đến khi đàm tất, mỗi tuần mỗi tiết như ngày thành phục, ngày phát dẫn, trong ba ngày tế ngu cho đến  ngày đại tưởng, tiều tưởng, giỗ đầu, giỗ hết, nhà giàu có thì tế bài linh đình, nhà nghèo thì cúng cấp. Tuần tiết nào cũng mời họ mạc, làng nước khách khứa, lại có bánh giầy bánh chưng biếu, người có nhiều, tốn nhiều, nhà có ít tốn ít, có nhà tốn vài nghìn bạc

Sự báo hiếu cho cha mẹ, ai không muốn hết lòng hết sức. Nhưng cứ như tục ta thì phiền vãn quá thể, ăn uống lôi thôi, làm cho nhiều người khổ sở vì tục. Với lại nhiều người khi cha mẹ còn thì bạc thị chẳng ra gì, đến lúc mất lại cúng tế linh đình, kẻ có đã vậy, kẻ không có cũng cố đi vay mượn cầm nhà bán ruộng để trả nợ miệng và lấy thể diện với đời, thật là một sự vô ích quá
Một điều nữa là khi cha mẹ mình mới mất, mặt không dám rửa, ăn cơm không dám xỉa răng, mặc đồ xô gai,  dây lưng chạc, dơ dáy bẩn thỉu, chịu làm sao cho được, và người hiếu tử thì chẳng cứ thế mới là thương cha mẹ, kẻ bất hiếu thì dẫu bẩn thỉu, tiều tụy đến đâu, vẫn không có lòng gì nghĩ đến cha mẹ, thì sự ấy chẳng qua cũng là hư vãn mà thôi
Một điều nữa là tục ta đưa ma, con cái khóc lóc sầu thảm quá sức, kể lể con cà con kê, kêu giời kêu đất, nhiều người hết hơi khan tiếng mà vẫn gào. Sự thương cốt ở trong lòng, chỉ ứa hai hàng nước mắt là đủ, mà người thực tình thương có khóc được đâu, thì sự khóc cũng là sự che mắt thế gian mà thôi, lại làm cho váng tai nhức óc người ta khó chịu
Một điều nữa là những nhà hoặc vì có tìm đất hoặc vì có lo liệu công kia việc nọ mà quàn ma trong nhà đến hàng tháng, thì chẳng những là phiền phí hại của, mà có khi tử khí truyền nhiễm lại hại đến cách vệ sinh nữa. Và tử giả dĩ đắc tang vi sinh, để lâu như thế đối với người mất cũng không phải
Còn như lệ làng thì lắm nơi lại hủ quá, sẽ luận ở mục Hương Đảng về sau
Xét như tục tang ma Âu châu, người mất hoặc để tại nhà, hoặc đem đến nhà thờ làm lễ. Hiếu chủ chỉ đưa cái thư báo tang cho người thân tình hoặc người quen thuộc  nói rõ ngày giờ nào cất ma. Bà con quen thuộc cứ đúng ngày giờ mà đưa ma, người nào có thân tình thì phúng một vòng hoa hoặc bằng sành, hoặc bằng bột hạt, hoặc vòng hoa thực. Trong khi đưa ma ai nấy im phăng phắc như tờ. Đưa đến huyệt thì các người thân thích đọc bài điếu tang rồi đâu về đấy, hiếu chủ chỉ đón cửa tạ ơn ngưòi đi đưa chứ không mời mọc ăn uống lôi thôi cả ngày
Về sau, cứ ngày lễ tì đem bó hoa đến thăm mả. Tục ấy thanh giản mà tỏ lòng hiếu kính biết dường nào
Tục Nhật bản cũng dùng một cách thanh đạm mà tống táng. Nhưng ai muốn lấy danh giá với đời thì bỏ ra một món tiền, hoặc dăm ba chục, một vài trăm, vài ngàn gửi vào nhà ngân hàng hoặc thương hội nào để giúp  vào một việc gì công ích cho xã hội rồi đăng báo cho ai nấy biết rằng người ấy có xuất tiền để làm kỷ niệm cho người chết, thế là danh giá, thế là để cho cha mẹ được vẻ vang
Tuy vậy, mỗi nước có một tục riêng mà tục nước ta thì quen đã lâu, chưa có thể bỏ tục mình mà theo ngay tục khác được. Nhưng tưởng nên nghĩ cách nào cho tiện mà giảm bớt phiền vãn, bỏ bớt sự ăn uống, tì người giàu có đỡ tốn của, để đồng tiền mà dung vào việc công ích, người nghèo khỏi vay công lĩnh nợ, không đến nỗi hết cơ nghiệp về làm ma
Bấy giờ cũng đã nhiều người giảm bớt rồi nhưng cái tục bó buộc, còn nhiều người biết tục dở mà chưa bỏ được

X.CẢI TÁNG

Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Đến hôm táng, lại làm lễ khấn Thổ công chỗ để mả mới táng
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiểu sành, rẩy nước vang vào, rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quí thì dùng quan quách, khám liệm như khi hung tán
Đoạn đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về hoặc dùng làm cầu, làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng khỏi sâu chân
Tục lại tin rằng: hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thỏi (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để dưới gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức

Cải tang có nhiều cớ:
Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất không tiền lo liệu được, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng kẻo sợ ván hư nát thì làm hư hại đến di hài
Hai là chỗ đất mối, kiến, nước lụt thì phải cải táng
Ba là vì chỗ mồ mả chạm phải đường cái, hoặc thành mới mở, bất đắc dĩ phải cải táng
Bốn là vì các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất, hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm sinh ra kiện tụng lôi thôi thì cho là tại đất mà cải táng
Năm là những người muốn cầu công danh phú quí, nhờ thầy địa lý tìm chỗ đất cát địa mà cải táng. Lại có người thấy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần chỗ mả nhà người kia để cầu được hưởng dư huệ

Trong khi cải tang, tục có ba điều tưởng thụy mà không cải táng:
Một là khi đào đất thấy co con rắn vàng  thì cho là long xà khí vật.
Hai là khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quanh quít thì cho là đất kết.
Ba là hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo, hoặc có nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt.
Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay

Trước khi hung táng thì đắp hình vuông, đến lúc cải táng thì đắp hình tròn. Nhà phú quí thì xây lăng, nhà thường thì dựng mộ chí, đợi khi tuần tiết đến thăm viếng
Tục cải tang có người theo, nhưng cũng có người khi hung tang, sắm sửa quan quách kĩ càng, thì không cần gì phải cải tang nữa

Tục này bởi ta tin cái lý tưởng tổ tiên với con cháu, huyết mạch tương quan với nhau. Hễ hài cốt của tổ tiên có ấm cúng thì con cháu mới mát mặt, hài cốt không yên thì con cháu cũng không yên, cho nên mới có tục ấy
Nhiều người tin địa lý quá, mời thầy địa lý phụng dưỡng hai ba tháng trong nhà để đi tìm đất. Có nhà động thấy trong nhà không yên thì lại cải táng, có khi cải tang đến năm, sáu lần
Thiết tưởng hài cốt tiên nhân, nếu có lòng kính trọng thương xót, thì chớ có nên di đi dịch lại nhiều lần. Trừ ra những khi vạn bất đắc dĩ thì mới cải đi mà thôi, chớ không nên vì công danh phú quí là việc hy vọng chưa tưởng thấy mà làm đến việc thương tâm thảm mục. Vả lại việc khai mả cũng có khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên làm. Cũng như gia đình hay dở là do ngừoi sống, một khôn một dại khác nhau, chứ có phải tại đất đâu. Nếu có tại đất, cũng không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nào có phúc hậu thì tự nhiên gặp hay, nhà nào bạc ác thì có khi gặp dở, cần gì phải uổng công mệt sức mà đi cầu cái việc vu vơ làm gì

XI. KỴ NHẬT

Ngày giỗ cụ kị, ông bà, cha mẹ, gọi là ngày kỵ nhật. Chiều hôm trước là cúng tiên thường, hôm sau mới là ngày chính kỵ. Cái giỗ xa (cụ, kỵ, ông, bà) thì sắm sửa con gà, ván xôi hoặc một vài mâm cỗ, trước cùng gia tiên, sau con cháu sum họp ăn uống với nhau. Còn về ngày giỗ cha mẹ thì tục thường làm phong hơn

Trong khi giỗ, dẫu làm lớn nhỏ thế nào thì mặc lòng, nhưng làm sao tất cũng phải có một bát cơm úp vào một quả trứng luộc làm đầu. Cỗ bàn thì tùy nhà giàu nghèo mà phong, kiệm khác nhau. Nhiều nhà mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa, người thì mang chè rượu, người thì đem vàng hương đến lễ giỗ rồi mới uống rượu với nhau
Nhà hào trưởng trong làng có khi cả làng đến ăn giỗ, nhà ông thầy dạy nhiều học trò thì cả học trò đến ăn giỗ, nhà quan trưởng thì thường cả tổng lý phủ huyện đến ăn giỗ phiền phí lắm
Có nơi chiều hôm cúng tiên thường, bà con đã đến chơi đông, uống rượu xong thì giở ra bài bạc, thuốc phiện, lấy tiếng rằng ở lại chầu chực gia tiên mà bày ra cuộc vui vẻ. Sáng hôm sau uống một bữa rượu chính kỵ nữa mới tan

Nhớ kỵ nhật tiền nhân mà cúng cấp cũng là một bụng tốt. Những nguyện ý lúc người mới chế lễ ra, chẳng qua dùng cách ấy để tỏ cái lòng nhớ tổ tiên nhân sinh ra mình, là người gầy dựng nên cơ nghiệp cho mình, là một ý bất vong bản mà thôi, chứ không phải dùng cách ấy để làm sự vui vẻ  làm cách giao thiệp với đời. Kỳ thủy ta không phải là không hiểu cái ý ấy, nhưng chắc vì cớ mấy người trước muốn nhân dịp nhà mình có sẵn cỗ bàn cúng cấp mà muốn họp mặt bà con anh em. Hoặc vì bà con anh em vì cùng người gia hạ, nhớ đến ân tình của ông cha mình, hay là vì nể nang mà đến giỗ kỵ, mình có lẽ nào vong tình được mà chẳng khoản đãi. Vì thế thành tục, té ra phần nhớ đến tiền nhân thì ít, mà phần lo về khoản đãi bà con khách khứa thì nhiều
Đã đành rằng có thì mâm cao cỗ đầy, chẳng có thì lưng cơm cái trứng cũng đủ tỏ chút lòng thành, nhưng ngặt vì tục đã quen, không cố là lo được thì người ta chê là bủn xỉn, mà trong lòng mình cũng áy náy không đành
Ngày kỵ nhật là một ngày chung thân chí tang, thì là ngày thương xót, ngày rầu buồn, đáng lẽ chỉ nên đóng cửa mà thương nhớ mới phải. Mà dẫu có theo tục dùng cách cúng tế làm sự kỷ niệm thì làm thế nào cho giản tiện, miễn là tỏ được chút lòng với tổ tiên là đủ, tưởng không nên bày vẽ cho thêm tốn làm gì. Nếu có của mà muốn họp mặt bà con anh em, khoản đãi khách khứa thì tưởng nên dùng vào những dịp ăn mừng thì đúng hơn
Xét như tục Âu châu, nhớ ngày húy nhật, con cái chỉ đem bó hoa ra thăm mả là cùng
Tục Nhật bản: cũng chuộng sự tế tự, nhưng đến ngày húy nhật, con cháu chỉ đem hương hoa dâng cúng mà thôi
Xem như tục các nước văn minh ấy, tuy rằng thanh đạm nhưng thực là đủ tỏ lòng thành kính mà lại giữ được tiền của để dung vào việc đáng dùng

 
- Trong Gia Tộc Phần . 01
- Trong Gia Tộc Phần 02
http://huynhhuuduc.blogspot.com/2014/12/viet-nam-phong-tuc-trong-gia-toc-phan-02.html
- Trong Gia Tộc Phần 04
- Trong Gia Tộc Phần 05
http://huynhhuuduc.blogspot.com/2014/12/viet-nam-phong-tuc-trong-gia-toc-phan-5.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét