Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ (Lý Bạch)

 

Nguyên tác chữ Hán:

    夜泊牛渚懷古
                           李白      
Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ
                              Lý Bạch
牛 渚 西 江 夜    
Ngưu chử Tây Giang dạ
青(*) 天 無 片 雲    
Thanh thiên vô phiến vân
登 舟 望 秋 月    
Đăng chu vọng thu nguyệt
空 憶 謝 將 軍     
Không ức Tạ tướng quân (**)
余 亦 能 高 詠    
Dư diệc năng cao vịnh
斯 人 不 可 聞      
Tư nhân bất khả văn
明 朝 挂 帆 席    
Minh triều quải phàm khứ
楓 葉 落 紛 紛       
Phong diệp lạc phân phân.    

(*) - "清 天" Trời Trong. mình nghĩ chữ Thanh này mới hợp tình hợp cảnh. 
Ban đêm trăng sáng làm sao thấy "Trời Xanh 青 天", có lẽ trời xanh ở đây có nghĩa là bầu trời?

(**) Tạ tướng quân là tướng Tạ Thượng, người thời Đông Tấn. Trong một đêm thu cùng tùy tùng đi dạo trên sông Tây ngắm trăng, ông chợt nghe tiếng người ngâm thơ và liền cho mời thi nhân đó lên thuyền. Hỏi ra thì được biết thi nhân đó tên Viên Hằng. Ông và thi nhân kết bạn tâm giao và cùng nhau đối thơ suốt đêm.
Viên Hằng là một quan chức triều Tấn, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng.
Ông để lại nhiều tác phẩm văn học, thơ ca có giá trị, được đánh giá cao trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Tài năng và ảnh hưởng của Viên Hằng đã góp phần định hình sự phát triển văn hóa và triết học thời Đông Tấn.

Dịch nghĩa:

Đêm neo thuyền bến Ngưu nhớ chuyện cũ

Nơi bến Ngưu bờ tây sông Trường Giang
Bầu trời xanh không một bóng mây
Lên thuyền ngắm trăng thu
Nhìn vào khoảng không thấy nhớ đến tướng quân Tạ Thượng
Bâng khuâng lại cất cao giọng ngâm thơ
Nhưng người xưa làm sao nghe được
Sáng sớm mai giương buồm ra khơi
Lá phong lả tả rụng rơi đầy.

Dịch thơ:

Đêm đậu bến Ngưu nhớ chuyện cũ

1/
Ngưu bến đêm bờ Tây   
Bầu trời chẳng gợn mây   
Trăng thu lên thuyền ngắm    
Nhớ Tạ tướng thuở nào   
Ngâm nga cất giọng cao   
Người xưa nào nghe thấy   
Giương buồm buổi ban mai   
Phong vàng lất phất bay.   

2/ 
           Bờ tây đêm đậu bến Ngưu
Trời xanh chẳng chút sương mù lẫn mây
      Thuyền thu ngắm dáng trăng đầy
   Tưởng về Tạ tướng lòng đây dạt dào
         Ngâm thơ nhớ cảnh thuở nao
 Nhưng người xưa chẳng thể nào nghe ta
          Sớm mai thuyền phài rời xa
      Lá phong theo gió la đà rụng rơi.
                                          Quên Đi
***     
Đêm Bến Ngưu Nhớ Chuyện Cũ
1/
Ngưu Chử đêm bờ Tây
Trời xanh chẳng gợn mây
Lên thuyền trăng thu ngắm
Nhớ Tạ quân vơi đầy
Thơ ngâm vút cao giọng
Biết người xưa có hay
Giương buồm rời một sớm
Xao xác lá bay bay

2/
          Đêm Ngưu Chử bến bờ Tây
Lưng trời xanh biếc chẳng mây mây mù
       Lên thuyền ngắm ánh trăng thu
      Nhớ sao Tạ tướng nỗi u sầu nầy
          Thơ ngâm cao giọng là đây
    Biết người năm cũ có hay chăng là
         Giương buồm mai sớm rời xa
         Lá phong tan tác là là rụng rơi
                                Kim Phượng
***
Đêm đậu Ngưu Chử Nhớ Chuyện Xưa

1-

Ngưu Chử sông Tây tối
Trời xanh chẳng chút mây
Trăng thu thuyền đứng ngắm
Nhớ Tạ tướng vơi đầy
Ta cũng ngâm cao giọng
Người ấy nghe được hay…?
Giăng buồm đi sáng sớm
Lất phất lá phong bay

2-
          Bến Ngưu tối đậu sông Tây
Trời cao chẳng gợn chút mây xanh viền
      Trăng thu ngắm vọng lên thuyền
 Vẩn vơ chợt nhớ Tạ Huyền tướng quân
         Thơ ngâm cao giọng có thần
   Người xưa xa lắc đâu cần lắng nghe
         Buồm giăng sáng sớm trở về
    Lá phong rơi rụng kết bè trôi theo!
                                     Lộc Bắc
                                      Sept25

***
* Xuất xứ bài thơ :

DẠ BẠC NGƯU CHỮ HOÀI CỔ là "Đêm ghé thuyền dưới núi Ngưu Chữ nhớ chuyện xưa", là bài thơ mà Thi Tiên Lý Bạch làm lúc còn chưa phát tích, tự cảm thương cho thân phận mình chưa gặp được người tri âm tri kỷ. Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời vua Đường Huyền Tông, sau mùa thu khi đã hoàn thành tác phẩm "Đông Thiệp Minh Hải" của mình, Lý Bạch đã nương theo dòng Trường giang mà vào Động Đình Hồ để điếu tang người bạn tên Ngô Chỉ Nam, khi đi ngang qua Ngưu Chử Sơn nhớ lại tích xưa ở đây mà làm nên bài thơ nầy.

夜泊牛渚懷古 DẠ BẠC NGƯU CHỬ HOÀI CỔ

牛渚西江夜, Ngưu Chử Tây giang dạ,
青天無片雲。 Thanh thiên vô phiến vân.
登舟望秋月, Đăng chu vọng thu nguyệt,
空憶謝將軍。 Không ức Tạ tướng quân.
余亦能高詠, Dư diệc năng cao vịnh,
斯人不可聞。 Tư nhân bất khả văn.
明朝掛帆席, Minh triêu quải phàm tịch,
楓葉落紛紛。 Phong diệp lạc phân phân.
李白 Lý Bạch

* Chú thích :
- NGƯU CHỬ 牛渚 : Tên một ngọn núi ở tây bắc của huyện Đương Đồ thuộc tỉnh An Huy. Nơi mà tướng Tạ Thượng nghe Viên Hoằng vịnh sử.
- TÂY GIANG 西江 : là một khúc của sông Trường Giang, chảy từ Nam Kinh cho đến bên trong tỉnh Giang Tây, tục gọi là TÂY GIANG. Núi NGƯU CHỬ nằm trong dòng chảy của TÂY GIANG trong lãnh địa của tỉnh Giang Tây
- KHÔNG ỨC 空憶 : Chợt nhớ tới; Bỗng nhớ đến...
- TẠ TƯỚNG QUÂN 謝將軍 : tức tướng quân Tạ Thượng 謝尚 của đời Đông Tấn, là người đất Thái Khang tỉnh Hà Nam, là anh họ chú bác của danh tướng Tạ An. Ông là người văn võ song toàn, giỏi cả cầm kỳ thi họa, được phong là Trấn Tây Tướng Quân trấn thủ vùng núi Ngưu Chử nầy. Trong một đêm thu khi ông cùng tuỳ tùng thả thuyền theo dòng Tây Giang để ngắm trăng, tình cờ nghe được trong một chiếc thuyền nan có một chàng thư sinh đang ngâm thơ vịnh sử; Ông bèn cho người đến mời lên thuyền của mình và hai người đã cùng đàm đạo với nhau suốt đêm rất là tương đắc. Người thư sinh đó chính là Viên Hoằng 袁宏, nhà nghèo lại mồ côi sớm, đang làm nghề đưa đò để độ nhật. Sau hôm gặp gỡ và cùng đàm đạo suốt đêm với Tướng Tạ Thượng, tiếng tăm tài giỏi của Viên Hoằng được đồn đại khắp nơi, và sau nầy phát tích làm quan đến chức Thái Thú của Đông Dương.
- DƯ 余 : là Phiếm xưng Đại từ ngôi thứ nhất là : Tôi, Ta, Tao...
- TƯ NHÂN 斯人 : là Người đó, Người ấy; Ở đây chỉ Tạ Thượng.
- QUẢI PHÀM TỊCH 掛帆席 : là Giương buồm ra đi. Có Dị Bản ghi là "ĐỘNG ĐÌNH KHỨ 洞庭去" là "Đi về hướng Động Đình Hồ".
- Chữ LẠC 落 là Rơi; Có dị bản ghi là "CHÍNH 正 có nghĩa là Đang lúc".
- PHÂN PHÂN 紛紛 : (rơi) Rào rào, Rạt rào, Rào rạt ...

* Nghĩa bài thơ :
ĐÊM GHÉ THUYỀN DƯỚI NÚI NGƯU CHỬ NHỚ CHUYỆN XƯA
Đêm xuống trên sông Tây Giang dưới chân núi Ngưu Chử; Bầu trời trong xanh ngát không gợn chút mây nào. Bước lên thuyền ngước nhìn vầng trăng thu sáng vằng vặc; Bỗng chợt nhớ đến câu chuyện của ông tướng quân họ Tạ (và Viên Hoằng). Ta cũng có thể cất cao giọng ngâm sử (như Viên Hoằng vậy), rất tiếc là đã không còn có người (như Tạ Tướng quân) để nghe lời ngâm của ta. Đến sáng mai nầy thì ta lại phải trương buồm ra đi (về phía Động Đình Hồ) rồi. Khi đó nơi đây chỉ còn có lá phong vàng rơi rào rạt mà thôi !

Vì đang lúc bất đắc chí, nên khi thuyền đậu dưới bến của Ngưu Chử Sơn. Lý Bạch chợt nhớ đến truyện của Tạ tướng quân khi xưa mà ước ao sao mình được như là Viên Hoằng thuở trước gặp được người tri kỷ như là Tạ Thượng để được thỏa chí bình sinh. Nhưng chuyện đời đâu phải muốn là được đâu, nên cũng đành cam chịu với số phận hẩm hiu của mình một cách thản nhiên nhưng cũng đượm chút... chua cay nhè nhẹ : Minh triêu quải phàm tịch, Phong diệp lạc phân phân. Mai ngày khi mình đã giương buồm ra đi rồi, thì nơi nầy chỉ còn lại có lá phong vàng rạt rào rơi rụng trước gió thu như ước mơ của mình cũng bay theo gió thu ở nơi đây vậy !

* Diễn Nôm :

DẠ BẠC NGƯU CHỬ HOÀI CỔ

Tây Giang bến Ngưu Chử,
Trời xanh chẳng gợn mây.
Lên thuyền nhìn trăng sáng,
Nhớ Tạ Tướng nơi nầy.
Ta cũng thừa ngâm vịnh,
Người xưa nào có hay ?!
Mai ngày thuyền xa bến,
Lá phong lại rơi đầy !

Lục bát :

         Tây Giang Ngưu Chử bến này,
Trời xanh chẳng gợn chút mây sương mù.
        Lên thuyển ngắm ánh trăng thu,
 Nhớ thay Tạ Tướng chuyện từ năm xưa.
            Ngâm nga ta cũng có thừa,
 Tiếc thay chẳng gặp người xưa luận bàn.
         Mai ngày buồm lại vượt sang,
   Rạt rào lá rụng mộng vàng bay theo !

                                                杜紹德
                                          Đỗ Chiêu Đức
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét