Thứ Ba, 17 tháng 8, 2021

Bốc Toán Tử - Lý Chi Nghi


Lý Chi Nghi tên chữ là Đoan Thúc, tự Hiệu Cô Khê cư sĩ, người Vô Lệ ở Thương Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Ông đỗ tiến sĩ năm thứ 3 đời Tống Thần Tông 宋神宗. Ông có tập Cô Khê từ 姑溪詞.

       卜算子                      Bốc toán tử
              李之儀                      Lý Chi Nghi

我 住 長 江 頭                Ngã trú Trường Giang đầu
君 住 長 江 尾                Quân trú Trường Giang vĩ.
日 日 思 君 不 見 君      Nhật nhật tư quân bất kiến quân
共 飲 長 江 水                Cộng ẩm Trường Giang thuỷ
此 水 幾 時 休                Thử thuỷ kỷ thời hưu
此 恨 何 時 已                Thử hận hà thời dĩ
只 願 君 心 似 我 心      Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm
定 不 負 相 思 意。       Định bất phụ tương tư ý.

Dịch nghĩa: Điệu Bốc Toán Tử

Nhà Thiếp ở đầu sông Trường Giang  
Nhà chàng ở cuối sông Trường Giang  
Ngày ngày tưởng nhớ đến chàng nhưng chẳng thấy chàng  
Hai ta cùng uống chung nước sông Trường Giang  
Nước sông này khi nào thôi chảy 
Hận tình này biết đến bao giờ mới thôi  
Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp
Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau.

Dịch thơ: Tương Tư

1/
Nhà thiếp đầu Trường Giang 
Cuối Trường Giang chàng ở         
Bóng người chẳng thấy chỉ mòn trông   
Nước chung dòng thêm nhớ
Sông nọ bao giờ dừng    
Hận này dài mấy thuở   
Hy vọng chàng cùng thiếp một lòng   
Không phụ niềm nhung nhớ.    

2/  
               Nhà em vốn ở đầu sông  
       Còn chàng ở tận cuối dòng xa xôi 
       Ngày ngày nhung nhớ chẳng thôi   
Nước chung dòng uống bồi hồi xuyến xao 
            Hỏi sông dừng chảy khi nào
      Hận tình này biết thuở nao mới tàn  
     Chung lòng thiếp thiếp chàng chàng  
    Để không phụ bỏ tình đang nặng tình
                                                 Quên Đi 

***

                     Mộng Tình...

           Thiếp nhà cư ngụ đầu sông
Trường Giang chàng ở cuối dòng nhớ ơi
     Thầm thương, trộm nhớ mình thôi
     Đôi ta cùng uống chung rồi đó sao ?
             Sông kia hết chảy lúc nào ?...
         Hận này ai biết khi nao lụi tàn
      Một lòng chung thủy thiếp chàng
      Tỏ tình ai thấu ta đang mộng tình...!
                            Mai Xuân Thanh
                               July 30, 2021
***
Góp ý:   Bài này với cái tựa Bốc toán tử (chàng thầy bói), dĩ nhiên bài thơ là của chàng gởi thư thăm dò một bóng hồng nào đó đã lọt vào mắt chàng. Chữ Quân trong Hán tự không nhất thiết phải chỉ đấng mày râu, do vậy ở đây là thơ của chàng ghẹo nàng chứ không phải của nàng thả tim tìm ý trung nhân.

       Chàng Thầy Bói

Trường Giang, ta đầu sông,
Trường Giang, nàng cuối dòng
Chẳng thấy nàng, ta ngày ngày nhớ.
Trường Giang, nước uống chung.
Trường Giang, bao giờ cạn ?
Hận này, bao giờ xong ?
Chỉ mong lòng ta - nàng tương tự
Mảnh tương tư không phụ lòng.
                             Danh Hữu
            Paris, sáng thứ bảy 31.07.2021

Thưa Thầy Danh Hữu,
Riêng về chữ "Bốc Toán Tử" đúng như Thầy giải nghĩa, nhưng ta cũng có thể hiểu là "bà thầy bói" vì có chữ nữ tử. Bàn chút cho vui, chứ thật ra "Bốc Toán Tử" ở đây có nghĩa là một bài Từ, một khúc hát theo giọng điệu của Thầy bói.
Và có thể coi như Lý Chi Nghi phổ nhạc bài thơ "Trường Tương Tư" của Lương Ý Nương thời Ngũ Đại bên Tàu.
Có chút ý kiến cùng Thầy.
                 Kính
              Quên Đi
***
    Tình Vương Vấn

Nàng ở đầu sông, ta cuối sông
Trông vời chẳng thấy, mỏi mòn trông
Hai nơi cách biệt bao nhung nhớ
Một giải trôi hoài mấy đợi mong
Biết đến khi nào sông hết nước ?
Bao giò tới lúc muộn ngưng dòng ?
Xin ai thấu hiểu niềm mơ ước
Thề hẹn cùng nhau thỏa mộng lòng
                  Phương Hà phỏng dịch
                           ( 31/07/2021 )
***
                      Nhớ Nhau

             Nhà em ở đầu con sông
      Nhà anh ở miết cuối dòng mù xa
          Ngày nhung ngày nhớ đôi ta
 Chung dòng nước uống thiết tha bồi hồi
          Bao giờ ngừng chảy sông ơi
    Hỏi rằng mấy thuở mới lơi hận tình
       Thiếp chàng chung thủy vẹn gìn
Luyến Lưu không phụ đôi mình đeo mang
                                          Kim Oanh


***

Phụ Chú:

Kính thưa Quý Thầy Cô, Tiền Bối và Các bạn trong Vườn Thơ Thẩn,
Theo tôi hiểu (qua Tự Điển) thì chữ TỬ 子 ngoài nghĩa chỉ: Người, chỉ Ông, chỉ Thầy...ra, còn dùng để chỉ Đồ Vật và Sự Việc. Như : Khoái Tử 筷子 là Đôi Đũa (dùng để gắp); Qua Tử 瓜子 là Hạt Dưa; Khúc Tử 曲子 là Một Điệu Hát, Một Khúa Ca Ngắn...
Ở đây, chữ TỬ 子 chính là KHÚC TỬ 曲子 : là Một Điệu Hát, Một Khúc Ca Ngắn...Chớ không phải là Ông, hay Bà Thầy Bói gì cả ! Cứ dán 3 chữ 卜算子 (bốc toán tử) lên google, ta sẽ có vô số tài liệu về "Bốc Toán Tử". Sau đây chỉ dịch một phần tiêu biểu mà thôi.

Theo "Điền Từ Danh Giải 填词名解 của Mao Tiên Thư đời nhà Thanh thì : Lạc Tân Vương, một trong Tứ Kiệt buổi sơ Đường làm thơ hay dùng những chữ số, người đời gọi là BỐC TOÁN TỬ. Lại theo "Từ Luật" từ Thanh Vạn Thụ : Căn cứ vào lời từ như đang cầu cơ, bói toán của Hoàng Đình Kiên đời Bắc Tống mà người đời gọi là BỐC TOÁN còn TỬ là nói gọn lại của Khúc Tử 曲子 hay Tiểu Khúc 小曲; nên "BỐC TOÁN TỬ 卜算子 là một khúc hát ngắn ca ngâm về việc bói toán" Vì TỪ là CA TỪ 歌詞 là những lời ca có nhạc điệu hát được. Nên lại có rất nhiều ĐIỆU Từ dùng để hát mà BỐC TOÁN TỬ chỉ là TÊN của MỘT ĐIỆU TỪ trong rất nhiều ĐIỆU Từ như : Ngu Mỹ Nhân 虞美人, Tây Giang Nguyệt 西江月, Lãng Đào Sa 浪淘沙, Lâm Giang Tiên 临江仙, Điệp Luyến Hoa 蝶恋花, Bốc Toán Tử卜算子... Cũng giống như trong cổ nhạc của ta có các điệu Lý, như Lý Con Sáo, Lý Cây Chanh, Lý Qua Cầu... và các Điệu cổ nhạc Cải Lương Nam Bộ, như Nặng Tình Xưa, Đão Ngũ Cung, Khóc Hoàng Thiên, Lý Giao Duyên, Sơn Đông Hướng Mã, Ú Sang Ú Líu...

Nói chung, tên của một Điệu Từ, Điệu Ca thì không thể lấy tên của cái điệu đó mà giải thích cho lời ca bên dưới được. Ví dụ : Điệu "Lý Con Sáo" thì không phải lời hát nào của điệu nầy đều phải nói đến con sáo cả; cũng như điệu "Khóc Hoàng Thiên" thì không phải lời hát nào cũng "khóc cho ông trời" cả đâu !
Trở lại với Từ Điệu 詞調 BỐC TOÁN TỬ 卜算子. Từ điệu nầy còn có tên là "BỐC TOÁN TỬ LỆNH 卜算子令", là Bách Xích Lâu 百尺樓, Mi Phong Bích 眉峰碧, Sở Thiên Diêu 楚天遥... Lấy bài " Bốc Toán Tử- Hoàng Châu Định Tuệ Viện Ngụ Cư Tác卜算子·黄州定慧院寓居作" của Tô Đông Pha 蘇東坡 làm chính thể gồm 44 chữ. Lại có biến thể Song điệu cũng 44 chữ, 2 khổ trước sau đều có 4 câu, gieo 3 vần trắc; và một Song điệu biến thể nữa gồm có 45 chữ, 4 câu của khổ đầu gieo 2 vận trắc, 4 câu của khổ sau cũng gieo 2 vận trắc như bài BỐC TOÁN TỬ của Lý Chi Nghi 李之儀
mà ta đang nói tới đây.

Đỗ Chiêu Đức
___

Anh Chiêu Đức thân mến,

Rất thích thú với bài phân tích của anh. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, lúc ban đầu, người đặt ra khúc ca "Bốc Toán Tử" cũng phải có liên quan đến bói toán, cũng như khúc"Tương Tiến Tửu". Sau đó từ từ lời bài hát sẽ ít hoặc không còn liên quan đến cái tựa, mà chỉ giữ lại cái điệu ca và tên của khúc hát mà thôi.  

Xin gởi một vài tư liệu mà tôi được biết ngay ở bên dưới
Thân mến
Quên Đi

 ----

Truy về nguồn gốc của "Từ (khúc hát)" chúng ta có thể thấy chúng có liên quan đến "Nhạc Phủ" :

Nhạc phủ là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có công dụng trong ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng: “Thơ tuyệt cú của ba trăm năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường”.
Những bài thơ dùng trong ca nhạc đã có từ lâu, từ thời của Kinh thi và có thể trước nữa. Nhưng chỉ từ đời Hán Vũ Đế, danh từ “nhạc phủ” mới được dùng để chỉ thể thơ. Ðời Hán Huệ-đế, nhà vua thiết lập một cơ quan gọi là Nhạc phủ lệnh. Ðến đời Hán Vũ Đế (140- 86 trước Công nguyên), Nhạc phủ có qui mô mở rộng hơn, với Lý Diên Niên làm chức Hiệp luật đô úy. Từ đó trở đi, Nhạc phủ được dùng để chỉ loại thơ có thể hợp nhạc, và trở nên một thể thơ. Cuối đời Ðông Hán, vào thời Kiến An (196-220), ba cha con họ Tào (Tào Tháo, Tào Phi Tào Thực) làm ra nhiều bài nhạc phủ cổ áo, bi tráng, nổi tiếng một thời. Ðến thời Nam Bắc triều, các điệu nhạc mới của ngoại quốc du nhập nhiều. Nhạc phủ xưa không còn hợp với âm luật mới nữa ; nhưng vẫn còn nhiều nhà thơ dựa theo những bài nhạc phủ cũ để làm ra những bài mới, tuy gọi là nhạc phủ, song thực ra không còn được dùng trong ca nhạc.

Xét về nhạc phủ đời Ðường, ta thấy có thể chia ra làm bốn loại sau:

1) Những bài ca giao miếu, giống như Tụng trong Kinh Thi, không có giá trị về mặt văn chương. Thí dụ : bài Phong Thái sơn nhạc của Trương Thuyết.

2) Những bài thơ làm theo đề mục cũ của nhạc phủ, tuy có hay về mặt văn chương, nhưng không còn được dùng trong ca nhạc. Thí dụ: các bài Tương tiến tửu, Quan San nguyệt của Lý Bạch.

3) Những bài tân nhạc phủ có ý phúng dụ giống phong cách đời xưa, cũng không thể hợp nhạc. Thí dụ: 50 bài Tân nhạc phủ của Bạch Cư Dị.

4) Những bài thơ nổi tiếng được các linh quan của Lê viên phổ nhạc. Loại này có giá trị nhất, vì đích thực là nhạc phủ, lại vừa là kiệt tác xét về mặt văn chương. Ðó là những bài thơ tuyệt cú của Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Hàn, Cao Thích, Vương Duy …
 - (Theo Thơ Đường - Trần Trọng San)
 
***
Từ vốn bắt nguồn từ dân gian. Sự phát hiện Từ ở Đôn Hoàng (Cam Túc) đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, từ phát triển theo sự phồn vinh của kinh tế thành thị ở đời Đường, cùng sự phát đạt của âm nhạc (nhạc nước Yên) thời bấy giờ.

Ở thời kỳ đầu, từ là một loại thơ (nhưng khác với thơ ở chỗ nó có quan hệ với âm nhạc), phải đến thời Vãn Đường, từ mới thành một thể độc lập mang đầy đủ những đặc điểm của chúng, và phát triển mạnh ở đời Tống.

Từ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác Nhạc phủ hỗ "cách luật nghiêm nhặt", khác Đường luật ở chỗ "câu dài ngắn", khác thơ Cổ Phong ở chỗ "cách luật nghiêm nhặt và số chữ cố định".

Đời Tống có khoảng 870 điệu từ với những biến thể của chúng. Tên điệu từ thoạt đầu chính là đề tài của tác phẩm, như Dương liễu chi để vịnh liễu, Lăng đạo sa để vịnh cát, Đạp ca từ để tả điệu múa...song về sau chỉ còn là tên gọi đơn thuần.

Mỗi điệu từ có một từ phổ. Điệu ngắn nhất là Trúc chi từ (14 chữ), dài nhất là Oanh đề tự (240 chữ). Những điệu tương đối dài, thường chia làm hai đoạn, công thức có thể giống nhau hoặc hoàn toàn khác nhau. Số chữ trong câu có thể dài trên mười chữ, cũng có thể chỉ là một chữ.

Luật bằng trắc của từ rất chặt chẽ, nhìn chung không có lệ "bất luận" như ở thơ Đường Luật.

Một bài có thể dùng nhiều vần. Vần có trắc hoặc bằng, hoặc cả hai (xen kẽ); song chủ yếu gieo vần bằng ở trong điệu Cán khê sa, Lãng đào sa, Nhất tiễn mai...và chủ yếu gieo vần trắc ở Ức tần nga, Như mộng lệnh, Nguyễn lang quy...

Trình tự gieo vần ở từ cũng rất đa dạng, có thể là vần liền, vần gián cách, vần ôm...

- (Theo Wikipedia, bách khoa toàn thư mở)

 Huỳnh Hữu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét