Ngày xưa, có nội tán Nguyễn Khoa Đăng là
 người có tài xử đoán. Khi còn làm một chức quan nhỏ, ông đến trị nhậm 
hạt nào thường được mọi người mến phục, không chỉ vì tài xét xử mà còn 
vì lòng tốt của ông lúc nào cũng lo trừ hại cho dân.
Có lần, ông đến nhậm chức ở một huyện, một hôm có người dân làng kia bị kẻ thù oán, đêm đến lẻn ra đồng phá hết cả một ruộng dưa. Đau xót cho công lao vun trồng, dưa sắp được ăn chỉ trong một đêm bị héo rụng hết cả, người ấy bèn đến kêu khóc với ông, xin ông minh xét. Ông Đăng theo ngay người ấy về tận ruộng dưa khám nghiệm. Tất cả dấu vết đều chứng tỏ kẻ gian đã dùng một cái thuổng xắn đứt ngọn dưa và dùng cán giẫm nát hầu hết các gốc dưa. Nhưng hắn rất khôn ngoan, bao nhiêu dấu chân, hắn đều cố ý xóa sạch. Ông hỏi người trồng dưa:
Có lần, ông đến nhậm chức ở một huyện, một hôm có người dân làng kia bị kẻ thù oán, đêm đến lẻn ra đồng phá hết cả một ruộng dưa. Đau xót cho công lao vun trồng, dưa sắp được ăn chỉ trong một đêm bị héo rụng hết cả, người ấy bèn đến kêu khóc với ông, xin ông minh xét. Ông Đăng theo ngay người ấy về tận ruộng dưa khám nghiệm. Tất cả dấu vết đều chứng tỏ kẻ gian đã dùng một cái thuổng xắn đứt ngọn dưa và dùng cán giẫm nát hầu hết các gốc dưa. Nhưng hắn rất khôn ngoan, bao nhiêu dấu chân, hắn đều cố ý xóa sạch. Ông hỏi người trồng dưa:
– Anh có ngờ ai thù oán mình không?
Người ấy kể cho quan nghe tên mấy người ở
 xóm, lập tức ông sai chức dịch đi thu hồi tất cả các thuổng trong xóm 
lại, thuổng của nhà nào đều có ghi tên nhà ấy vào cán. Đoạn, ông khám 
từng cán thuổng một, nhặt riêng mấy cái khả nghi ra một nơi. Rồi ông sai
 người thè lưỡi liếm trên mấy cái cán thuổng đó. Quả nhiên có một cái, 
người ta nhận thấy có vị đắng. Ông sai lấy một gốc dưa đập giập vắt nước
 ra nếm thử thì chất đắng của dưa cùng với chất đắng trên cán thuổng là 
một. Ông nhìn lại tên ghi ở thuổng thì đúng là thuổng của một trong số 
mấy người mà nguyên cáo ngờ là có thù oán với mình.
Lập tức ông sai lính bắt người kia giải 
đến. trước tang chứng và lý lẽ đanh thép của quan, hắn không còn chối 
vào đâu được, đành cúi đầu nhận tội. Ông bắt hắn phải đền hoa lợi ruộng 
dưa cho người kia và phạt thêm gấp hai lần để hắn chừa cái thói hại ngầm
 kẻ khác.
Một hôm khác, có một anh hàng dầu, gánh 
một gánh ra chợ bán. Trong khi đang bận đong dầu, có kẻ đã thừa dịp thò 
tay vào bị lấy trộm tiền. Đến khi anh hàng dầu biết thì tên ăn cắp đã 
chạy đi nơi khác. Anh ta nhớ tới một người mù hồi nãy quanh quẩn bên 
gánh của mình, đuổi mấy cũng không đi, đoán chắc là kẻ cắp, bèn gửi gánh
 hàng cho người quen rồi đi tìm người mù lúc nãy. Nhưng khi gặp, người 
mù hết sức chối cãi, rằng mình mù thì còn biết tiền của để ở đâu mà lấy.
 Hai bên xô xát, tuần bắt giải quan.
Khi họ dắt nhau đến công đường, ông Đăng bắt hai bên khai rõ sự tình. Người mù khăng khăng từ chối không nhận. Ông Đăng hỏi:
– Anh có tiền giắt đi theo đấy không?
Trả lời:
– Có, nhưng đây là tiền tôi mang đi chợ, không phải của nó.
– Được cứ đưa ra đây, của ai rồi sẽ biết.
Khi người mù móc tiền ra, ông Đăng sai 
người múc đến một chậu nước, rồi bỏ tất cả số tiền vào chậu. Một chốc tự
 nhiên thấy trên mặt nước có váng dầu nổi lên. Nghe quan sai bưng chậu 
nước cho mọi người chứng kiến, người mù hết đường chối, đành chịu tội 
ngay.
Nhưng quan còn nói thêm:
– Khoan đã, chưa hết đâu. Tội ăn cắp mới
 là một. Nếu mày mù tịt thì làm sao biết được tiền người hàng dầu bỏ 
trong bị, cất trong thúng khảo mà lấy được! Đúng là mày giả mù. Lính 
đâu. Bắt nó nọc ra đánh cho rõ đau, kỳ bao giờ nó mở hai mắt ra hãy 
thôi.
Người mù trước còn chối lấy chối để, nhưng chỉ qua ba roi là hắn mở ngay hai mắt nhận tội, đúng như lời quan truyền bảo[1].
Một hôm khác, có một người lái buôn giấy
 đến trình quan rằng mình nghỉ trọ ở làng Hồ-xá bị trộm lấy mất cả một 
gánh giấy. Ông Đăng hỏi rõ nguồn cơn, sai người do thám mấy ngày liền 
không có kết quả, bèn thân hành đến làng Hồ-xá nghĩ cách cứu xét. Đến 
nơi, ông cho triệu dân chúng sở tại và mấy làng xung quanh lại và bảo:
– Trên tỉnh vừa sức về bắt các xã thôn 
mỗi một người không kể nam phụ lão ấu phải làm ngay một tờ khai tên tuổi
 quê quán cho minh bạch.
Lệnh ban ra, mọi người đua nhau đi mua giấy. Vì thế giấy ở chợ lên giá vùn vụt.
Lại nói chuyện tên trộm trộm được gánh 
giấy nhưng chưa có nơi tiêu thụ còn giấu ở nhà. Nay nghe nói giá giấy 
lên cao bèn mang lẻn một số ra chợ bán. Hắn không ngờ người nhà của ông 
Đăng cũng đi rải ở các chợ để chờ hắn. Thế là bị bại lộ, tên trộm không 
những bị tội phải đền gánh giấy cho người lái buôn mà còn phải đền cho 
dân các làng mặt tiền mua giấy kê khai tên tuổi.
Một lần khác, ông được đổi đi một hạt 
miền núi. Khi ông mới đến, người ta cho ông biết là hạt ấy nổi tiếng có 
nhiều trộm cướp nhà nghề. Các quan trước bó tay không thể nào trị nổi. 
Ông chỉ cười nhạt không nói gì, nhưng sau đó ngầm sai người thân tín đi 
dò la hành tung và quê quán từng tên một. Thế rồi, ông vẫn cứ tảng lờ 
như là không hay biết gì hết.
Một hôm nhân đi hành hạt qua một làng nọ, ông thấy có một hòn đá lớn ở bên vệ đường. Hỏi dân sở tại, họ đáp:
– Đây là ông Mốc, ngài thiêng lắm, ai cầu khẩn việc gì cũng đều được linh ứng.
Ông nghe nói liền họa theo:
– Phải thế thì ta tới cầu ngài giúp ta trừ yên cướp trộm để bớt hại cho dân chúng mới được!
Nói rồi một mình bước tới khấn vái, hồi lại trở ra bảo mọi người rằng:
– Ngài bảo vài hôm nữa rước ngài về, ngài sẽ vạch mặt tất cả bọ gian phi trong toàn huyện.
Ít hôm sau, ông sai mấy người ban đêm bí
 mật đào hầm ở giữa sân công đường rồi cho người thân tín xuống nấp dưới
 đó. Tờ mờ sáng hôm sau, ông sai lính đi khiêng hòn đá về đặt lên trên 
hầm. Trước mặt mọi người đông đủ, ông dõng dạc hỏi đá:
– Ta nghe đồn thần rất thiêng, “hữu cầu 
tất ứng”. Nay ta vâng mệnh hoàng đế đến đây trấn nhậm, nhưng hiện nay 
trong huyện hạt có nhiều trộm cướp nhiễu hại dân cư. Vậy ta mời thần về 
đây để mách hộ ta truy tầm kẻ phạm pháp. Nếu có công, ta sẽ tâu triều 
đình phong tặng.
Đá không trả lời. Hỏi mãi, đá vẫn một mực làm thinh, ông nổi giận quát lớn:
– Hay là đá đồng lõa với kẻ phạm pháp. Lính đâu, hãy tra tấn nó cho đến lúc nó phải khai thực!
Bấy giờ, mọi người nghe tin đến xem đông
 như hội. Lệnh truyền xa, lính dùng roi đánh vào đá túi bụi, tự nhiên đá
 bật ra tiếng khóc, xin dừng tay lại để khai. Thế rồi, đá lần lượt khai 
và vạch tội từng tên một. Mỗi lần đá khai một tên nào, ông sai lại mục 
viết ngay trát, giao cho lính đã chực sẵn đi nã bắt lập tức. Cho đến 
suốt ngày hôm đó bắt được ba mươi tên cừ khôi. Khi giải cả một xốc về 
tra tấn, bọn trộm cướp nhìn nhau kinh ngạc, không ngờ lại có việc xảy ra
 như thế và bắt đúng tên như thế. Chúng cho là chỉ có thần đá linh 
thiêng mới biết một cách rành mạch tội trạng của mình, bèn không đợi 
khảo đả, thú nhận tất cả.
Trong thời kỳ làm nội tán, ông đã làm 
cho suốt một dọc truông nhà Hồ ở Quảng Trị không còn lấy một bóng gian 
phi. Trước đó, truông này là nơi rừng rậm, con đường Nam Bắc phải đi qua
 đây. Bọn gian phi đã dùng làm sào huyệt đón đường cướp của.
Nguyễn Khoa Đăng trước hết tìm cách lùng
 bắt trộm cướp. Ông sai chế ra một loại hòm gỗ kín có những lỗ thông 
khí, vừa một người ngồi lọt, có khóa trong, để người ngồi trong có thể 
mở tung ra được dễ dàng. Thế rồi, ông kén một số người giỏi võ, cho ngồi
 vào hòm có để sẵn vũ khí. Đoạn, ông sai quan sĩ của mình giả trang làm 
dân phu khiêng những hòm ấy qua truông nhà Hồ ra vẻ khiêng những hòm 
“của cải” nặng nề. Lại cho người đánh tiếng có một ông quan trấn ở ngoài
 Bắc sắp sửa trẩy về quê với những hòm tư trang quý giá sẽ đi qua 
truông. Bọn cướp đánh hơi thấy đây là một cơ hội kiếm ăn hiếm có, bèn 
rình lúc đoàn “dân phu” đi qua của truông, xông ra đánh đuổi, rồi hý 
hửng khiêng những cái hòm nặng ấy về tận sào huyệt.
Nhưng khi về đến nơi thì vừa đặt xuống 
thì những cái hòm tự nhiên mở toang, các võ sĩ ngồi trong đó cầm vũ khí 
xông ra đánh giết bọn cướp một cách bất ngờ. Đang lúc hoảng hốt chưa kịp
 đối phó thì bọn chúng nghe tin phục binh của triều đình ở phía ngoài ùn
 ùn kéo vào đông như kiến cỏ. Chúng đành chắp tay xin tha tội. Nhờ mẹo 
đó, Nguyễn Khoa Đăng đã tóm được cả lũ.
Ông cho phiên chế thành đội ngũ đi khai 
khẩn đất hoang ở nơi biên giới, lập thành những đồn điền lớn rộng. Sau 
đó, ông còn cho chiêu dân lập ấp ở dọc hai bên truông, làm cho một vùng 
trước kia là nơi vắng vẻ, trở nên những làng xóm dân cư đông đúc: tiếng 
xay lúa giã gạo, tiếng gà gáy chó sủa lấn dần tiếng vượn hú chim kêu. Từ
 đó, một vùng núi rừng thành ra yên ổn. Bọn trộm cướp còn lại đành phải 
giải nghệ.
Bởi vậy, người ta có câu: “Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm” là thế.
Theo Truyện Cổ Tích Việt Nam 

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét