Phần Mộ Võ Tánh
Dưỡng Hổ Di Họa: 
Sau khi đã đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, quần thần đề nghị vua 
Quang Trung nên nhân cơ hội khí thế quân sĩ đang lên và nhân dân đang 
náo nức được gom về một mối dưới sự lãnh đạo sáng suốt của vua Quang 
Trung nên mang quân đánh thẳng vào Gia Định tiêu diệt mối di họa Nguyễn 
Ánh, nhưng vua Quang Trung đã không làm như vậy. Ngài đã nói: “Tiêu diệt
 một lực lượng vọng ngoại và không có thực lực của Nguyễn Ánh đối với ta
 không khó. Tiêu diệt Nguyễn Ánh bây giờ thật dễ như bẻ gãy cành khô củi
 mục. Ta có thể đem quân từ Thăng Long vào thẳng Gia Định và diệt gọn 
Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, như các khanh thấy đó, nhân dân ta đã đồ thán vì 
thù trong giặc ngoài này quá lâu rồi. Nay vừa qua cơn binh lửa với nhà 
Thanh, ta không nỡ nào đẩy dân tộc mình vào một cuộc chiến tranh khác 
với Nguyễn Ánh ngay trong lúc này. Thôi, hãy cho nhân dân ta hưởng thái 
bình vài năm rồi hẳn tính.” 
Vì hạnh phúc và sự an nguy của nhân dân mà vua Quang Trung đã không mang
 quân đánh thẳng vào Gia Định sau khi tiêu diệt quân Thanh, nhưng Nguyễn
 Ánh thì ngược lại, ông ta đã nhân cơ hội này mà vào tháng 3 năm 1790 
cho xây lại thành Gia Định. Thành được xây theo kiểu hình bát giác, 
chung quanh có hào sâu bao bọc. Phải nói ngay khi còn ở bên Xiêm thì 
người của Nguyễn Ánh đã chiêu mộ được tại Gia Định một số khá đông binh 
sĩ, và việc chiêu mộ này vẫn kéo dài liên tục, cho đến năm 1790 thì 
Nguyễn Ánh đã có trên 30.000 quân tại Gia Định. Để dự trữ lương thực và 
quân nhu cho chiến tranh, Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho nhân dân miền Nam 
phải giao nộp hàng năm. Nếu ai nộp được nhiều thì được miễn đi ra trận, 
hoặc miễn đi lao dịch tại chiến trường. Ngoài ra, năm 1790, trong khi 
quân đội chờ đợi ra mặt trận, Nguyễn Ánh sử dụng lực lượng quân lính này
 để cày cấy thu hoạch thêm lúa thóc. Về giao thương với nước ngoài tại 
thương cảng Gia Định, Nguyễn Ánh buộc các tàu buôn ngoại quốc chỉ bán 
các thứ sắt, gang, chì và lưu huỳnh cho nhà nước mà thôi. 
Sau khi đã dàn xếp xong cuộc bang giao với nhà Thanh, đầu năm 1792, vua 
Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn tiêu diệt toàn bộ lực lượng 
của Nguyễn Ánh ở Gia Định. Theo kế hoạch, nhà vua dự tính mở cuộc hành 
quân với khoảng 30 vạn quân, tảo thanh toàn bộ lực lượng vọng ngoại của 
Nguyễn Ánh. Ngài sẽ cho bộ binh theo đường núi vào đánh Gia Định, còn 
thủy quân sẽ vào trấn đóng Côn Sơn, Phú Quốc, rồi đổ bộ lên Hà Tiên, rồi
 theo đường Kiên Giang, qua Long Xuyên để đánh lên Sài Gòn. Còn vua 
Quang Trung và Nguyễn Nhạc sẽ đem quân thủy bộ đánh thẳng xuống Biên Hòa
 và Gia Định. Lần này vua Quang Trung quyết tiêu diệt mối di hại “Cõng 
rắn căn gà nhà” của Nguyễn Ánh nên Ngài quyết bao vây và tiêu diệt triệt
 để toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh. Trong khi đó tại Gia Định, Nguyễn 
Ánh luôn thập thò lo sợ và mất ăn mất ngủ trước kế hoạch hành quân qui 
mô của vua Quang Trung, và con người chuyên “cõng rắn cắn gà nhà” ấy lại
 một lần nữa viết thư qua cầu cứu với Xiêm vương, yêu cầu quân Xiêm đánh
 vào Nghệ An để chia bớt lực lượng bách chiến bách thắng của vua Quang 
Trung. Tháng 8 năm 1792, vua Quang Trung truyền hịch cho nhân dân các 
vùng Quảng Ngãi và Qui Nhơn, nói rõ đầu năm 1793, quân Tây Sơn sẽ hành 
quân tiêu diệt quân Nguyễn Ánh. Vua Quang Trung khuyên nhân dân các vùng
 này không nên lo sợ về sự đồn đại về bọn giặc Xiêm cũng như nhóm người 
Tây dương đang trợ giúp cho Nguyễn Ánh. Nhà vua yêu cầu nhân dân hai phủ
 Quảng Ngãi và Qui Nhơn hãy vì quyền lợi của đất nước, hãy sẵn sàng yểm 
trợ quân Tây Sơn tiến đánh Gia Định. Tuy nhiên, định mệnh khắc nghiệt 
với Quang Trung Đại Hoàng Đế và khắc nghiệt luôn cả với nhân dân Việt 
Nam khi vị hoàng đế bách chiến bách thắng, một đời chỉ biết đến dân đến 
nước này phải yểu mệnh. Vua Quang Trung băng hà vào ngày 16 tháng 9, năm
 1792, để lại sự thương tiếc và ngậm ngùi cho dân chúng cả nước. Trước 
khi qua đời, Ngài vẫn còn tỏ ra lo lắng cho vận mệnh của đất nước, vì 
biết rằng bản chất cố hữu của Nguyễn Ánh là sẵn sàng đem các thế lực 
ngoại bang về dày xéo đất nước, sẵn sàng dâng đất dâng biển cho ngoại 
bang để lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ, bất kể sự an nguy của dân 
tộc. 
Kể từ sau khi vua Quang Trung băng hà, ấu chúa Tây Sơn không phải là đối
 thủ với con cáo già Nguyễn Ánh, thế nhưng Nguyễn Ánh phải mất đến 10 
năm sau mới hạ được ấu chúa Tây Sơn. Năm 1793, ngay sau khi vua Quang 
Trung băng hà, Nguyễn Ánh cùng các bộ tướng Võ di Nguy, Nguyễn văn 
Trương, Võ Tánh, Nguyễn huỳnh Đức, Nguyễn văn Thành, và Lê văn Duyệt đem
 binh thuyền ra đánh Qui Nhơn, không chiếm được Qui Nhơn, nhưng quân của
 Nguyễn Ánh chiếm được các vùng Phú Yên, Bình Khương, Diên Khánh, Bình 
Thuận. Nguyễn Ánh cho quân tiếp tục vây thành Qui Nhơn, nhưng đánh mãi 
mà không lấy được thành. Cuối năm 1793, vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm 
Công Hưng cùng Hộ giá Nguyễn văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, và Tư mã Ngô văn 
Sở đem 17.000 quân cùng 80 thớt voi, hợp cùng với Đô đốc Hổ, Chưởng cơ 
Thiêm đem hơn 30 chiến thuyền vào cứu viện Qui Nhơn. Nguyễn Ánh thấy thế
 không chống nổi nên đã rút quân về Gia Định. Năm 1798, Nguyễn Ánh cử 
Đông Cung Thị Học Ngô Nhân Tĩnh và Ký lục Vĩnh Trấn là Phạm Thận đi sứ 
sang Tàu gặp vua Lê Chiêu Thống để cùng nhau cầu viện với nhà Thanh với 
hy vọng sẽ được vua Lê đồng ý cùng với phái bộ cầu viện đến cầu viện với
 vua nhà Thanh, nhưng qua tới Quảng Đông thì được biết vua Lê đã mất, 
nên phái bộ cầu viện đành phải quay trở về. Hồi này Bá Đa Lộc đã quay 
trở lại Đông Dương, nhưng không mang lại kết quả nào từ Pháp Hoàng, nên 
Bá Đa Lộc đã tự ý quyên góp tiền bạc và mua súng ống tàu bè cho Nguyễn 
Ánh. Tháng 11 năm 1794, Tổng quản Trần quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đem 
quân vào đánh các thành Diên Khánh, Phan Rang và Phan Rí, quân của 
Nguyễn Ánh thua phải chạy trở về Gia Định. Năm 1795, Nguyễn Ánh giao cho
 Đông cung Cảnh ở lại giữ thành Gia Định còn mình thì mang quân ra đánh 
Diên Khánh, nhưng không phá được. Đến năm 1796, với sự trợ giúp về vũ 
khí và tiền bạc của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh cho đóng thêm tàu chiến và 
tăng cường quân đội. Tháng 4 năm 1797, Nguyễn Ánh và Đông cung Cảnh cất 
quân đánh Qui Nhơn, tuy nhiên, quân lương từ Gia Định ra bị gió ngược, 
đến tiếp tế không kịp, nên Nguyễn Ánh phải rút quân về. 
Tháng 2 năm 1799, Nguyễn Ánh sai Khâm sai Thống binh Cai cơ Nguyễn văn 
Thoại và Cai Đội Lưu Phước Tường đem quốc thư sang cầu viện với Xiêm 
vương. Vua Xiêm nhân cơ hội này muốn đánh chiếm Việt Nam nên cho một vị 
Đại tướng Xiêm điều động quân qua hai ngã: từ Chân Lạp qua và từ Vạn 
Tượng qua đường Nghệ An đánh xuống Phú Xuân. Tuy nhiên, không thấy sử 
liệu của Xiêm La nói về cuộc xâm lăng này. Trong khi đó triều đình của 
ấu chúa Tây Sơn rất rối ren, các tướng chia rẽ và tìm cách hãm hại lẫn 
nhau. Một số các tướng đang đóng quân vùng phía Nam Qui Nhơn lần lượt 
kéo ra về hàng với Nguyễn Ánh. Cuối năm 1799, Nguyễn Ánh tiến chiếm Qui 
Nhơn, và cũng cùng năm ấy, Bá Đa Lộc đang cùng đi viễn chinh với Nguyễn 
Ánh tại Qui Nhơn bị bệnh mà mất. Nguyễn Ánh kéo quân về Gia Định và lưu 
Võ Tánh cùng Ngô Tòng Châu ở lại giữ thành Qui Nhơn. Năm 1800, Trần 
quang Diệu và Võ văn Dũng đem quân vào vây thành Qui Nhơn. Nhân cơ hội 
này, Nguyễn Ánh lưu Nguyễn văn Thành ở lại cầm cự với quân của Trần 
quang Diệu, sai các tướng Nguyễn văn Trương và Phạm văn Nhân đem thủy 
binh ra đánh cửa Thuận An, cùng Hoàng văn Tự và Bạch văn Đoài theo đường
 bộ ra đánh Phú Xuân. Ấu chúa Tây Sơn đích thân đem quân ra nghinh chiến
 nhưng bị thua phải chạy ra Bắc Hà. Ngày mồng 3 tháng 5 năm 1801, Nguyễn
 Ánh kéo quân vào Phú Xuân. 
Phải thật tình mà nói, người dân xứ Nam Kỳ lúc nào cũng là những con 
người có nhân có nghĩa, chính vì vậy mà lúc nào họ cũng nhớ ơn các chúa 
Nguyễn đã dày công mở cõi. Và cũng chính vì vậy mà trong cuộc tranh chấp
 giữa Tây Sơn và các chúa Nguyễn, người dân Nam Kỳ lúc nào cũng ngã hẳn 
về phía chúa Nguyễn. Sau khi Tân Chính Vương và Thái Thượng Vương đã bị 
quân Tây Sơn giết chết, họ đồng lòng suy tôn Nguyễn Ánh lên ngôi Nguyên 
Soái, và vì thế hễ ở đâu nghe nói có Nguyễn Ánh bôn tẩu tới là họ đều 
tới giúp. Chính vì vậy mà chúng ta thấy trên bước đường lưu vong của 
Nguyễn Ánh, bên cạnh ông ta luôn có nhiều tướng tài theo phò tá như 
Nguyễn văn Thoại(22), Nguyễn hữu Thoại, Trần xuân Trạch, Cao Phước Trí, 
Tông thất Hội, Tôn thất Huy, Hồ văn Lân, Trương Phúc Giáo, Lưu văn 
Trung, Lê 
Thượng, Nguyễn văn Thành, Bùi văn Khoan, Nguyễn văn Hội, Nguyễn văn 
Huấn, Trần văn Xạ, Trần phúc Giai, Tô văn Đoài, Nguyễn văn Trị, Nguyễn 
văn Tồn(23), 
Nguyễn văn Bình, Nguyễn văn Trương, Phạm văn Liêm, Nguyễn văn Nhơn, Đỗ 
Thành Nhân, Châu văn Tiếp, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Tống Phước Đạm(24), 
Tống Phước Thiêm, Tống Phước Ngoạn, Dương công Trừng (Cà Mau), Nguyễn 
phước Mân, Lê Thượng, Đỗ văn Hựu, Lê văn Duyệt, Mạc Tử Sanh, Nguyễn đức 
Xuyên, Lê văn Quân, Võ di Nguy, Nguyễn tiến Cảnh(25), Mai đức Nghị, Đoàn
 văn Khoa, Trương phúc Dinh, Trương phúc Luật, Nguyễn văn Định, Nguyễn 
văn Nhàn(26), Nguyễn tấn Lượng(27), vân vân. Nhưng đây cũng chưa phải là
 điểm then chốt giúp Nguyễn Ánh lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ 
Nguyễn. Điểm then chốt ở đây là người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, 
nguyễn Huệ, đã ra đi khi tuổi còn quá trẻ, ngài đã ra đi khi nhân dân và
 đất nước rất cần ngài. Chính sự ra đi của hoàng đế Quang Trung Nguyễn 
Huệ đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tây Sơn, đã đưa Nguyễn Ánh trở lại 
chiếc ngai vàng, và cuối cùng đã đưa đất nước Việt Nam vào một khúc 
quanh mới: đúng 60 năm sau ngày Nguyễn Ánh lên ngôi, cũng là ngày mà 
Pháp quân bắt đầu làm chủ vùng đất đã từng dung chứa Nguyễn Ánh khi 
xưa. 
Triều đại nhà Tây Sơn đã mang lại một sinh khí mới cho dân tộc Việt Nam 
với vị vua bách chiến bách thắng: Quang Trung Đại Hoàng Đế, nhưng vận 
nước lại không may lại sản sanh ra một con người như Nguyễn Ánh. Dù 
triều đại Tây Sơn không dài lắm, nhưng cũng đủ mang lại cho dân tộc Việt
 Nam một thời kỳ đổi mới với những cải cách thực tiễn của vua Quang 
Trung, nhưng sự yểu mệnh của Đại Đế Quang Trung đã khiến cho lịch sử tàn
 bạo của thời Trương Phúc Loan có cơ tái diễn. Chế độ quân chủ cực kỳ hà
 khắc đã được Nguyễn Ánh tái lập từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Nếu nhìn
 lại trào lưu tiến hóa của các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản thời bấy giờ 
thì chúng ta sẽ thấy triều đại Nguyễn Gia Long hoàn toàn đi ngược lại. 
Thêm vào đó, nạn cướp đoạt ruộng đất và sức lao động của nông dân từ các
 cường hào ác bá được triều đình nhà Nguyễn bảo trợ đã xô đẩy đất nước 
Việt Nam đến chỗ bế tắt nghèo cùng. Chính vương triều nhà Nguyễn bắt đầu
 từ thời Gia Long đã bao che cho giai cấp thống trị trở thành cường hào 
ác bá hà hiếp dân lành. Dưới thời nhà Nguyễn, giai cấp địa chủ đã cậy 
quyền ỷ thế bóc lột nông dân đến tận xương tủy. Kẻ giàu thì quá giàu, 
giàu một cách bất bình thường; trong khi người nghèo thì quá nghèo, cũng
 nghèo một cách rất bất bình thường. Nói chung, dưới thời nhà Nguyễn, 
cuộc sống của nhân dân cùng khổ, lòng người ly tán và oán hận quan quân 
Nguyễn triều đến tột độ. Đó là chưa kể đến thiên tai bão lụt, rồi giặc 
giã nổi lên khắp nơi những mong đánh đổ chế độ thối nát vừa mới được 
Nguyễn Ánh giựt dậy. Ngay khi Nguyễn Ánh vừa cướp lại ngôi báu từ tay ấu
 chúa Tây Sơn, năm 1807, một ông quan Tây dưới triều 
Gia Long tên Chaigneau đã viết như sau: “Đệ nhất ngũ niên kỷ niệm ngày 
Gia Long lên ngôi cũng là ngày kỷ niệm sự đói nghèo của dân chúng chưa 
từng có trong lịch sử triều Nguyễn. Dân chúng khắp nơi vô cùng đói khổ, 
vua quan bóc lột thậm tệ, công lý là món hàng mua bán, kẻ giàu có thể 
công khai sát hại người nghèo và tin chắc rằng với thế lực đồng tiền, lẽ
 phải sẽ ở trong tay họ.” Không biết nói thế nào đây để cho cạn, hay 
viết cho cùng về những cay nghiệt mà Nguyễn Ánh đã mang lại cho nhân dân
 Việt Nam nói chung, và cho nhân dân Nam Kỳ nói riêng. Nhất là những dịp
 thu thuế là cơ hội cho quan quân nhà Nguyễn bóc lột dân chúng đến tận 
xương tủy, đến nỗi năm 1811, Gia Long phải ban hành một chiếu chỉ qui 
định: “Đến kỳ nộp thuế, các quan ở các doanh trấn phải cử một người giám
 thu, nghiêm cấm lại dịch và người giữ kho kiếm cớ làm khó dễ hay yêu 
sách dân chúng. Nếu để tai hại cho dân thì phải tội chết không tha.” Dân
 tình đã vậy mà Nguyễn Ánh vẫn cứ đối xử với các công thần một cách tàn 
tệ chỉ vì nơm nớp lo sợ cho sự an nguy của chiếc ngai vàng. Năm 1817, vì
 vụ Nguyễn văn Thuyên làm một bài thơ ngông nghênh của nhà nho có khẩu 
khí, mà Nguyễn Ánh ép buộc Nguyễn văn Thành phải tự vẫn. Đến năm 1827, 
vua Minh Mạng cũng phải ra một đạo dụ thống thiết hơn về nạn hà hiếp dân
 lành trong vấn đề thu góp lúa gạo và thuế má. Đến năm 1847, Tham tri 
Trương Quốc Dụng lại dâng thư lên vua Tự Đức xin nhà vua xuống chỉ ra 
lệnh cho quan quân địa phương bớt hà hiếp dân chúng, giảm thiểu những 
giấy tờ không cần thiết, giảm thuế và giảm bớt những công trình xây cất 
lăng tẩm cung điện của nhà vua. Chính 
Nguyễn Ánh và các vua nhà Nguyễn biết rõ hơn ai hết, chính họ là nguyên 
cớ đưa đất nước tới chỗ bế tắt và nghèo cùng, nhưng với họ, chiếc ngai 
vàng cho dòng họ nhà Nguyễn là trên hết, nên chẳng những không thiết 
thực cải tổ guồng máy cai trị khắc nghiệt của họ, mà họ còn tiếp tay và 
bao che cho quan lại tiếp tục hà hiếp dân lành. Năm 1828, chính Nguyễn 
Công Trứ đã dâng lên vua Minh Mạng tờ sớ trình về thực trạng xã hội Việt
 Nam như sau: “Đất nước đang bị 2 cái tai hại: một là cái hại từ quan 
lại, họ là quan của triều đình, ăn bổng lộc triều đình, mà còn dùng 
quyền uy để đòi tiền hối lộ, cắt xén bớt tiền thuế trước khi gởi về 
triều. Bên cạnh đó, cái nạn cường hào ác bá còn độc hại hơn nhiều. Chính
 bọn cường hào ác bá đã khiến cho cha xa con, vợ xa chồng, con cái phải 
mồ côi, vợ chồng phải khánh tận.” Thêm vào đó, nhà Nguyễn đã đặt ra đủ 
loại thuế, cộng thêm 2 tháng lao dịch khiến đời sống của dân chúng sau 
cuộc chiến tranh dài đăng đẳng giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã cơ cực, nay
 càng cơ cực hơn. Năm 1818, một người Pháp tên Borel đã viết trong 
chuyến đến nước ta như sau: “Tại Phú Xuân, nhà vua, tức vua Gia Long, đã
 điều động hàng trăm ngàn(28) lao dịch từ khắp nơi đến kinh thành để xây
 dựng cung điện và lăng tẩm. 
Từng đoàn, từng đoàn người đang chuyên chở vật liệu, rất nhiều lán trại,
 gạch đá, xưởng rèn... tất cả tạo thành một cảnh tượng rất khó hình dung
 nếu không chứng kiến tận mắt.” Khi lên ngôi, Minh Mạng đã hạ chiếu với 
những lời lẽ vô cùng thống thiết mà người mới nghe tưởng rằng Minh Mạng 
rất yêu thương thần dân trong xứ của mình: “Trẫm nghĩ rằng trời đã vì 
dân mà đặt ra vua thì kẻ làm vua phải coi dân như con... chưa rét đã lo 
cho mặc, chưa đói đã lo cho ăn, há lại đợi khóc oe oe đòi bú mới cho con
 ăn ư? Trẫm từ khi lên ngôi, không ngày nào không lo cho dân cư đông 
đúc, được mùa.” Cũng như Nguyễn Ánh, Minh Mạng chỉ nói bằng đầu môi chót
 lưỡi hay chỉ viết trên văn tự giấy tờ, còn trên thực tế thì Minh Mạng 
vẫn tiếp tục chế độ lao dịch được vua cha truyền lại, vẫn tiếp tục làm 
khổ dân chúng cả nước. Đến đời Thiệu Trị, dân chúng lại phải nay lưng ra
 xây lăng Minh Mạng, lăng Thiên Thụ(29) trên núi 
Thuận Sơn. Rồi đến đời Tự Đức, dân chúng phải lao dịch nặng nề hơn với 
Khiêm Lăng cho chính ông vua này. Chánh sách lao dịch dưới thời Tự Đức 
khắc nghiệt đến độ trong dân gian đã có những câu vè ta thán như sau: 
“Vạn niên là vạn niên nào 
Thành xây xương lính, hào trào máu dân.” 
Hoặc: 
“Từ ngày Tự Đức lên ngôi 
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri 
Bao giờ Tự Đức chết đi 
Thiên hạ thái bình thì mới dễ làm ăn.” 
Theo sách sử nhà Nguyễn, cho rằng Tự Đức là ông vua nhân từ hiếu đạo, 
tuy nhiên, năm 1856, qua cung cách hạ chỉ quở mắng dân chúng của ông ta 
sau khi nghe những câu vè ta thán về mình cũng đủ biết cung cách nhân 
hậu của Tự Đức như thế nào: 
“Thói dân điêu ngoa, không trừng trị lũ ấy thì bao giờ cho hết được.” 
Cái tai hại không lường được qua chánh sách vơ vét nhân lực và tài lực 
của dân chúng dưới thời các ông vua đầu triều Nguyễn đã làm cho dân 
chúng trên toàn quốc bị cạn kiệt. Cũng chính sự nhận xét của Borel như 
sau: “Nhà vua trong khi nghĩ rằng sự cơ cực sẽ giam hãm nhân dân trong 
cảnh tôi mọi và đời sống nhọc nhằn của dân chúng mới bảo đảm được sự cai
 trị dễ dàng cho triều đình... đã phá hoại mọi tiềm lực của đất nước và 
kềm hãm mọi khả năng phát triển của nông nghiệp.” Chưa có thời kỳ nào 
đất nước Việt Nam lại bị lâm vào hoàn cảnh đen tối như thời kỳ Gia Long 
khai mở nên triều Nguyễn và các ông vua đầu trào. Người nông dân luôn bị
 quan quân triều Nguyễn áp bức và bóc lột, khiến cho cuộc sống ngày càng
 cơ cực hơn. Bên cạnh đó, điều kiện sinh sống của dân chúng rất tồi tệ. 
Năm 1820, bệnh dịch tại miền Bắc, chỉ trong vòng 3 tháng từ mùa Thu qua 
mùa Đông đã giết chết trên 200 ngàn người. Đến năm 1840, nạn dịch lại 
bộc phát ở miền Bắc làm thiệt mạng gần 70 ngàn người nữa. Trong 2 năm 
1849 và 1850, bệnh dịch tả hoành hành từ Bắc chí Nam làm hơn 600 ngàn 
người mất mạng, riêng tại Vĩnh Long đã có tới 43 ngàn người chết trên 
tổng số 50 ngàn dân(30). Trong một bức thư viết về La Mã, một giáo sĩ đã
 viết như sau: “Năm 1849, bệnh thổ tả tàn sát dân An Nam trong khắp cả 
vương quốc. Kinh thành và các vùng phụ cận chẳng mấy chốc phơi bày một 
cảnh tượng rùng rợn. Ngay từ lúc đầu, xung quanh thành và lối vào các 
làng, người ta nhìn thấy những đám ma nối đuôi nhau. Không bao lâu, các 
cỗ quan tài đã hết, người ta ném các xác chết vào những hố được đào vội 
vã. Sau cùng, người sống không còn đủ để chôn người chết nữa, các tử thi
 bị vứt bỏ lăn lóc trong đồng ruộng, trên đường đi, ở bất cứ chỗ nào 
người ta tống các xác chết đi được.” Dân tình đã cạn kiệt như vậy, thế 
mà triều đình nhà 
Nguyễn lại hạ chỉ thông báo cho dân chúng vay mượn lúa cứu đói, nhưng 
với một điều kiện cũng không kém phần khắc nghiệt như cái chế độ: “Chỉ 
cho những người có ruộng được vay, ai có ruộng nhiều thì được vay nhiều,
 ai có ruộng ít thì được vay ít.” Trời hỡi! Như vậy thì người không có 
ruộng sẽ không được vay lúa cứu đói của triều đình! Thử hỏi trên đời này
 có cái triều đình nào khắc nghiệt như cái triều đình được Nguyễn Ánh 
khai sáng này hay không? Năm 1819, chỉ riêng 50 ngàn dân Gia Định đã có 
tới 16 ngàn là hạng “cùng đinh.” Hạng cùng đinh là hạng không nhà không 
cửa, không ruộng đất, không có công ăn chuyện làm, phải rày đây mai đó 
làm thuê làm mướn để kiếm sống. Chính vì thế mà trong 18 năm dưới thời 
Gia Long làm vua, đã có 90 cuộc nổi dậy của nông dân. Trong 20 năm trị 
vì của Minh Mạng, đã có trên 230 cuộc nổi dậy, trong đó cuộc nổi loạn 
của Lê văn Khôi vào năm 1833 là lớn nhất. Trong 7 năm ngắn ngủi của 
Thiệu Trị, đã có 58 cuộc nổi dậy và 25 năm dưới thời Tự Đức, đã có hơn 
350 cuộc nổi dậy từ khắp nơi. Thời Tự Đức, dân chúng không còn chịu nổi 
sự cai trị quá khắc nghiệt của quan quân nhà Nguyễn, nên ở đâu cũng nổi 
lên làm giặc, chỉ mong làm được một cái gì đó hầu thoát khỏi kiếp sống 
quá cơ cực của mình. Trong đó phải kể những cuộc nổi loạn có tầm cỡ lớn 
như của Phan bá Vành, Nồng văn Vân, Lê duy Lương, Cao Bá Quát, vân vân. 
Ngay trong hoàn cảnh loạn lạc, cạn kiệt về nhân lực và tài lực ấy thì 
bọn thực dân Pháp xuất hiện như một anh khổng lồ, đè bẹp và nghiền nát 
đất nước Việt Nam dưới gót giày viễn chinh của họ. Hàng hậu bối chúng ta
 nên xem cái gương tác hại của Nguyễn triều để tránh cảnh lịch sử tái 
diễn. Bất cứ ai, nếu có cơ may lãnh đạo đất nước hãy cố gắng hết sức 
mình đem lại cho nhân dân một cuộc sống thật sự có tự do, dân chủ, và 
quyền làm người, cũng như sự an cư lạc nghiệp và thanh bình thịnh vượng,
 chứ đừng dẫm lại vết xe đổ của Nguyễn trào là ‘quy lụy và đầu phục 
ngoại bang’, ‘hèn với gặc, ác với dân’, nuôi dưỡng bọn tham quan ô lại, 
và gây cảnh bất công xã hội khiến cho những ai giàu thì quá giàu, còn 
những ai nghèo thì quá nghèo, vân vân, để xô đẩy người dân đến cảnh đi 
làm giặc và đất nước đến chỗ loạn lạc triền miên. Mà thật vậy, một khi 
dân chúng bị xô đẩy đến cảnh mất tất cả thì họ không còn gì nữa để mất, 
chắc chắn họ sẽ vùng lên. Nếu họ không vùng lên được thì họ cũng không 
ưng hổ trợ cho chánh quyền một khi có biến, lúc đó chắc chắn không riêng
 gì anh khổng lồ hiếu chiến phương Bắc, mà bất cứ một thế lực ngoại bang
 nào cũng có thể đi vào đè bẹp và nghiền nát đất nước Việt Nam dưới gót 
giày viễn chinh của họ. 
Nguyễn Ánh Và Những Ân Nghĩa Chóng Quên Với Đất Nam Kỳ: 
Nói về Nguyễn Ánh thì vùng đất Nam Kỳ có rất nhiều kỷ niệm và ân nghĩa 
với con người này. Năm 1774, trong khi xứ Đàng Trong đang rối ren với 
Trương Phúc Loan chuyên quyền và nghĩa binh Tây Sơn nổi lên đánh chiếm 
vùng Quy Nhơn, thì Bắc quân nhà Trịnh khởi binh vượt sông Gianh tiến vào
 Thuận Hóa. Chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần cùng gia quyến phải bỏ 
trốn vào Quảng Ngãi, nhưng Bắc quân lại mở cuộc truy kích quyết tâm tâm 
tiêu diệt hậu duệ nhà Nguyễn, nên Nguyễn Phúc Thuần và cháu là Nguyễn 
Ánh phải xuống thuyền dong buồm xuôi Nam. Từ đó cho mãi đến năm 1802, 
hầu như không có nơi nào mà Nguyễn Ánh không chịu ơn người dân miền Nam,
 từ Đồng Nai, Gia Định, Bến Tre, Hàm Luông, Cổ Chiên, Vĩnh Long, Côn 
Sơn, Bạc Liêu, U Minh Hạ, Cà Mau, U Minh Thượng, Tân Bằng, Cán Gáo, Chắc
 Băng, Cạnh Đền, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc, Thổ Châu...
Đối với vương triều nhà Nguyễn, miền Nam chẳng những là hậu cần lớn mà 
còn là miền đất ơn nghĩa của dòng họ này. Người dân miền Nam đã hy sinh 
cả tài sản lẫn sinh mạng của mình để nuôi quân, che chở và bảo vệ cho 
Nguyễn Ánh. Đi đâu đến đâu Nguyễn Ánh cũng đều gặp những con người nhân 
hậu chất phác và hết lòng với vương triều của ông. Nhưng khi đã đạt được
 mục đích, đã giành lại được chiếc ngai vàng từ tay ấu chúa Tây Sơn thì 
Nguyễn Ánh đã ngoảnh mặt làm ngơ với nhân dân miền Nam. Nguyễn Ánh đã 
hành sử với các bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn một cách tệ bạc. 
Trường hợp quan Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành bị Nguyễn Ánh bách 
hại thật là vô lý và ngu xuẩn. Nguyễn văn Thành đã theo phò Nguyễn Ánh 
từ những ngày Nguyễn Ánh còn lao đao lận đận nơi các hoang đảo miền Nam.
 Thế mà chỉ vì một bài thơ của người con trai của ông là Nguyễn văn 
Thuyên, Nguyễn Ánh đã nghi kỵ và bức tử Nguyễn văn Thành(31). Tại miền 
Nam, 
Nguyễn Ánh đã giết Đỗ Thành Nhân, một khai quốc công thần đã vào sanh ra
 tử, không kể gì đến an nguy của mình khi phục vụ dưới trướng Nguyễn 
Ánh. Năm 1776 khi đại quân Tây Sơn kéo vào truy lùng Nguyễn Ánh thì 
chính Đỗ Thành Nhân đã đem nghĩa quân Đông Sơn về với Nguyễn Ánh để tạo 
ra một thế quân sự ngang ngửa với quân Tây Sơn, thế mà chỉ vì những lời 
xu nịnh vô căn cứ mà Nguyễn Ánh đã thẳng tay bức tử Đỗ Thành Nhân. Vương
 triều nhà Nguyễn chẳng những vong ân bội nghĩa với người dân miền Nam 
mà còn tìm đủ mọi cách ngăn chặn không cho vùng đất ấy phát triển đúng 
mức của nó chỉ vì sợ rằng nhân dân vùng ấy sẽ đủ mạnh để tách rời khỏi 
cái vương triều thối nát ấy. Trường hợp Tả Quân Lê Văn Duyệt là một thí 
dụ điển hình khác. Chính vì thấy Gia Định Thành dưới thời Tả Quân là một
 miền đất trù phú thịnh vượng với một sức mạnh quân sự đáng kể nên vua 
Minh Mạng đã tìm đủ mọi cách phá vỡ vùng đất ấy, nhưng ông đã không làm 
được lúc Tả Quân còn sanh tiền, mà phải đợi đến lúc Tả Quân vừa nằm 
xuống ông bèn hạ chiếu hủy bỏ chức Tổng Trấn Gia Định Thành và chia miền
 Nam ra làm 6 tỉnh để dễ bề cai trị. Chẳng những thế, Minh Mạng còn mở 
ra vụ án Lê văn Duyệt và chính vụ xử xiềng mã Đức Tả Quân đã gây bất mãn
 trong dân chúng cũng như người con nuôi của Đức Tả Quân tên Lê văn 
Khôi, nên Lê văn Khôi đã đứng lên kêu gọi nhân dân miền Nam khởi loạn 
chống lại triều đình, gây ra cảnh núi xương sông máu cho nhân dân thành 
Gia Định lần nữa. 
Chính Nguyễn Ánh và các vị vua kế tục ông ta đã đưa đất nước đi vào một 
giai đoạn lịch sử đen tối nhất. Không phải Nguyễn Ánh không biết ý đồ 
của Xiêm vương cũng như của Pháp, nhưng hình ảnh chiếc ngai vàng của nhà
 Nguyễn luôn lấn lướt tất cả những viễn cảnh về hình ảnh của một đất 
nước bị ngoại bang đô hộ. Chính vì thế mà ngay khi còn dựa vào các giáo 
sĩ và người Pháp để đánh Tây Sơn, trong thâm tâm Nguyễn Ánh cũng rất sợ 
người Pháp và các giáo sĩ đang vây quanh ông ta, và cũng chính vì thế mà
 ngay sau khi lên ngôi, dù không thể đoạn tuyệt và trở mặt ngay lập tức 
với người Pháp, nhưng bên trong Nguyễn Ánh đã dứt khoát xa lánh và cự 
tuyệt giao thương với nước Pháp. Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy sự 
xa lánh và cự tuyệt người Pháp qua việc phế bỏ dòng chính, tức là phế bỏ
 con của hoàng tử Cảnh, là cháu nội đích tôn của Nguyễn Ánh, để lập dòng
 thứ lên nối ngôi. Bởi vì dòng chính Nguyễn Phước Cảnh và cả gia đình 
của ông ta đã từng có mối quan hệ quá đậm đà với nước Pháp. Chính vì lẽ 
đó mà Nguyễn Ánh đã chọn Minh Mạng lên nối ngôi vì biết chắc Minh Mạng 
không ưa người Tây dương, và biết chắc Minh Mạng sẽ làm được những việc 
mà ông chưa làm được. Nhưng làm sao được đây hỡi con người vong bản? 
Chính sự lựa chọn Minh Mạng đã đưa đến những cuộc binh biến tại Phú Xuân
 giữa hai dòng chánh thứ, và cũng chính sự lựa chọn này đã đưa đến những
 cuộc tàn sát đẫm máu những giáo dân vô tội, họ bị sát hại chỉ vì tín 
ngưỡng mà họ tin, để rồi đưa đến sự can thiệp quân sự của người Pháp vào
 giữa thế kỷ thứ 19. Và Nguyễn Ánh nào có biết rằng chính những tài liệu
 mà Bá Đa Lộc và các giáo sĩ của ông ta đã mang về Pháp, cũng như những 
tài liệu mà các ông quan Pháp làm việc cho Gia Long sau này đã hành sử 
như những tấm bản đồ quân sự quyết định trong việc Pháp đánh Nam Kỳ và 
bảo hộ toàn cõi Việt Nam về sau này. 
Chú Thích: 
(1)     Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ XIII. 
(2)     Phúc Luân là con trai thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. 
(3)     Cùng mẹ với Nguyễn Ánh. 
(4)     Cùng mẹ với Nguyễn Ánh. 
(5)     Năm 1783, Lê Phước Điển đã mặc áo hoàng bào chịu chết thay cho Nguyễn Ánh trong trận đánh ở Hòn Đá Chồng. 
(6)     Năm 1801, Võ Tánh cùng Ngô Tùng Châu tự thiêu trong thành Qui Nhơn. 
(7)     Con của bà vợ họ Tống của Phúc Luân. 
(8)      Dinh Trấn Biên, tức vùng Biên Hòa ngày nay. Dinh Phiên Trấn, 
tức vùng Gia Định và Định Tường sau này. Dinh Long Hồ, tức vùng Bến Tre,
 Vĩnh Long và An Giang ngày nay. Lúc đó dinh Trấn Biên có một huyện là 
Phước Long gồm 4 tổng là Tân Chính, Bình An, Long Thành và Phước An. 
Dinh Phiên Trấn có một huyện Tân Bình gồm 4 tổng là Bình Dương, Tân 
Long, Phước Lộc, và Bình Thuận. Dinh Long Hồ được đổi ra làm dinh Hoằng 
Trấn, sau đó lại đổi làm Vĩnh Trấn với châu Định Viễn và 3 tổng là Bình 
An, Bình Dương, và Tân An. 
(9)       Đỗ Thành Nhân là một tướng tài và có công rất lớn với nhà 
Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng. Nguyễn Ánh đã cho Thành Nhân 
giữ những chức vụ cao nhất trong triều, nhưng vì tánh tự phụ, Thành Nhân
 đã làm nhiều điều quá đáng, vượt qua quyền hạn của Nguyễn Ánh. Sau khi 
nhận được mật bẩm của Tống Phước Thiêm, Nguyễn Ánh cho gọi Thành Nhân 
đến gặp mình, rồi sai võ sĩ giết chết. Sau đó Nguyễn Ánh chia binh Đông 
Sơn ra làm 4 đạo, rồi giao cho bốn vị tướng khác chỉ huy. Vì bất mãn 
trước việc làm tàn độc của Nguyễn Ánh nên một số tướng lãnh Đông Sơn như
 Võ Nhàn và Đỗ Bảng đã bỏ Nguyễn Ánh mà rút về giồng Tam Phụ. Về sau nầy
 Nguyễn Ánh phải vất vả lắm mới dẹp yên được các tướng Đông Sơn nầy. 
(10)  Nguyễn hữu Thụy hay Nguyễn hữu Thoại, khác với một vị tướng tên Thoại Ngọc Hầu Nguyễn văn Thoại. 
(11)     Theo Nguyễn Xuân Thọ trong “Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở 
Việt Nam (1858-1897)”, Santa Ana – USA, 1994, tr. 85. 
(12)   Theo Linh Mục Phan Phát Huờn trong “Việt Nam Giáo Sử”, Quyển I, NXB Cứu Thế, Sài Gòn, 
1965, tr. 227-240. 
(13)   Hoàng tử Cảnh tên thật là Nguyễn Phước Cảnh, con trai trưởng của 
Nguyễn Ánh, lúc đó chỉ mới 4 tuổi. Hoàng tử Cảnh sanh ngày 6 tháng 4 năm
 1780 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và bà Tống thị Lan, con gái 
quan Chưởng Doanh Tống Phúc Khuông. 
(14)     Sau quá nhiều lần thất bại trước nghĩa quân Tây Sơn dầu đã được
 sự hổ trợ của quân đội Xiêm La, năm 1782, Nguyễn Ánh quyết định cầu 
viện quân Pháp để đánh đổ cho bằng được nhà Tây Sơn. Đây chính là quyết 
định đưa tới khúc quanh lịch sử thảm hại nhất của Nguyễn Ánh nói riêng 
và của triều đại nhà Nguyễn nói chung. Ngày 18 tháng 8 năm 1782, Nguyễn 
Ánh đã ra một bản quyết nghị 14 điểm nhằm trao toàn quyền cho Bá Đa Lộc 
trong việc ký hiệp ước nhượng đứt cảng Hội An (nhưng theo tài liệu của 
Pháp thì nói là cảng Tourane, nghĩa là cảng Đà Nẳng) và quần đảo Côn Sơn
 cho Pháp. Ngoài ra Nguyễn Ánh còn giao cả hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh mới
 lên 4 tuổi cho Bá Đa Lộc để làm con tin, chỉ với một điều kiện là Pháp 
giúp cho Nguyễn Ánh 1.500 quân lính cùng một số quân trang quân dụng cần
 thiết khác. Theo Phan Khoang trong “Việt Nam Pháp Thuộc Sử”, NXB Sống 
Mới, Arizona, USA, 1990, tr. 74, thấy De Conway dùng dằng việc thi hành 
hiệp ước Versailles, giám mục Bá Đa Lộc đứng ra một mình lo liệu việc 
giúp Nguyễn Ánh. Nhờ có số tiền 15.000 quan Pháp của gia đình ông và số 
tiền do nhóm thương nhân Pháp ở các đảo bên Pháp và tại thành Pondichéry
 bỏ ra giúp vì muốn làm ăn với xứ Đàng Trong, Bá Đa Lộc đã mua rất nhiều
 tàu chiến, vũ khí và súng đạn cho Nguyễn Ánh. Không ai có thể biện minh
 cho hành động nầy của Nguyễn Ánh. Đây rõ ràng là hành động bán nước, vì
 nguyễn Ánh sẵn sàng dâng đất, dâng hải cảng, hải đảo và biển cho giặc 
chỉ với một mục đích làm lợi cho dòng họ mình. Có người biện minh rằng 
ví dầu Nguyễn Ánh không cầu viện với Pháp đi nữa thì chuyện người Pháp 
đánh Việt Nam vào giữa thế kỷ thứ XIX cũng xãy đến vì nhu cầu chiếm đất 
làm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu thời đó. Đây chỉ là một lối
 lý luận xu thời và vô căn cứ, vì hãy nhìn vào vương quốc Xiêm La thì sẽ
 thấy chủ nghĩa thực dân có động vào được sự khôn ngoan của vương triều 
Thái Lan thời đó đâu? Thời đó Việt Nam nếu thứ nhất vua Quang Trung 
không yểu mệnh, thứ nhì nếu Nguyễn Ánh không mở đường cho thực dân đi 
vào Việt Nam, và thứ ba nếu các vua chúa đầu triều Nguyễn không u mê bế 
quan tỏa cảng và sát hại người theo đạo Ki Tô thì chuyện người Pháp đánh
 chiếm Việt Nam không phải là chuyện dễ dàng như trở bàn tay như đã xãy 
ra dưới thời Tự Đức. Thật tình mà nói, dầu có muốn tìm đủ mọi cách để 
biện minh cho hành động của Nguyễn Ánh, chúng ta cũng phải thừa nhận 
rằng chính hành động của Nguyễn Ánh đã mở đường cho thực dân Pháp trong 
âm mưu thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam. 
(15)     Sau nầy nhiều vị sĩ quan Pháp nầy đã trở thành quan của Nguyễn 
Ánh, như ông Jean Marie Dayot hay Ông Trí, lãnh đạo đội thủy quân; ông 
Philippe Vannier hay Ông Chấn, chỉ huy chiến thuyền Le Dongnai, Ông De 
Forsans hay Ông Lăng, chỉ huy chiến thuyền LAigle; ông Jean Baptiste 
Chaigneau chỉ huy chiến thuyền Le Dragon; ông Julien Girard de l’Isle 
Sallé chỉ huy chiến thuyền 
Le Prince de la Cochinchine; ông Laurent Barisy hay Ông Mân, coi về huấn
 luyện; ông Olivier de Puymanuel hay Ông Tín, chỉ huy bộ binh, pháo binh
 và phụ trách xây thành; các ông Desperles, Despiau, Théodore, Lenuen, 
và Guilloux là những bác sĩ giải phẫu cho quân đội, phụ trách y tế và 
thương binh. 
(16)   Theo Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn trong “Lịch Sử Việt Nam”, TPHCM: NXB TPHCM, 
2005, tr. 296-310. 
(17)  Vì người Minh Hương chẳng những không theo Tây Sơn mà còn theo 
Nguyễn Ánh đánh lại Tây Sơn nên Nguyễn Nhạc đã cho lệnh tàn phá Cù Lao 
Phố vào năm 1776, nên từ đó người Hoa trở nên căm ghét Tây Sơn nhiều 
hơn. 
(18)  Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương. 
(19)Theo ‘Mạc Thị Gia Phả’ của Vũ Thế Dinh, do Nguyễn văn Nguyên dịch và chú thích, NXB Thế 
Giới, Hà Nội, 2006, tr. 70, ghi hai tướng Xiêm La là Chiêu Tằng và Chiêu
 Trương là cháu ruột của Xiêm Vương, trong khi Đại Nam Thực Lục và Gia 
Định Thành Thông Chí ghi tên hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu 
Sương. 
(20)   Theo Quốc Sử Quán Triều Nguyễn trong “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện”, NXB Giáo Dục, 
2007, mục Ngụy Tây, sơ tập, quyển 30, tờ 17b. 
(21)  Lúc đó quân của Đông Định Vương Nguyễn Lữ tại Gia Định chưa tới 5.000 quân. 
(22)  Nguyễn văn Thoại đã hai lần sang cầu cứu Xiêm, lần thứ nhất vào 
năm 1784, và lần thứ nhì vào năm 1785 ở lại Xiêm đến năm 1787 mới về lại
 Việt Nam.
(23)  Quan Điều Bát Nguyễn Văn Tồn, gốc người Khmer. Hiện còn đền thờ ông ở quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
(24)  Tống Phước Đạm sang Xiêm vào năm 1787 để báo cho Nguyễn Ánh biết 
về việc quân Tây Sơn phải rút về Trung chuẩn bị chiến tranh với nhà 
Thanh.
(25)  Nguyễn tiến Cảnh là người phụ trách đóng chiến thuyền bên Xiêm.
(26)   Nguyễn văn Nhàn vâng lệnh Nguyễn Ánh sang cầu cứu với Xiêm La vào năm 1794.
(27)  Sau chuyến cầu cứu thất bại của Nguyễn văn Nhàn vào năm 1794. Năm 
1796, Nguyễn Ánh lại sai Nguyễn tấn Lượng qua Xiêm cầu cứu lần nữa.
(28)  Có sách viết là 80.000.
(29)  Lăng mẹ của vua Thiệu Trị.
(30)  Nghĩa là dân chúng ở Vĩnh Long thời đó chết gần hết.
(31)Theo Đại Nam Liệt Truyện Chánh Biên, Sơ Tập, Quyển 21: “Nguyễn văn Thành gốc người Thừa
Thiên nhưng sanh trưởng trong miền Gia Định. Năm 15 tuổi, Thành theo cha
 là Nguyễn văn Hiền theo phò chúa Nguyễn để chống lại với quân Tây Sơn. 
Sáu năm sau, ông là một trong những chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Nguyễn
 Ánh. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, ông được bổ nhậm làm Tổng trấn 
Bắc Thành. Ông cũng là một trong những người được Gia Long giao cho 
trách nhiệm soạn thảo bộ luật cho triều Nguyễn. Trong suốt thời kỳ chiến
 tranh với Tây Sơn, Nguyễn văn Thành lúc nào cũng một mực trung thành 
với Nguyễn Ánh.” Xét lại hành trạng của những người theo phò Nguyễn Ánh,
 chỉ có một vài người được leo lên đến tột đỉnh vinh quang như Nguyễn 
văn Thành và Lê văn Duyệt, vv... Tuy nhiên, bản chất cố hữu của Nguyễn 
Ánh là nghi kỵ và luôn hành sử với các bậc khai quốc công thần nhà 
Nguyễn một cách tệ bạc ngay từ thời ông chưa lấy lại được chiếc ngai 
vàng như trường hợp của Đỗ Thành Nhân. Riêng về trường hợp Nguyễn văn 
Thành, nhân vụ con trai ông là Nguyễn văn Thuyên làm bài thơ hai câu: 
Thử hồi nhược đắc sơn trung đế. Tá ngã kinh luân chuyển hóa cơ. Có nghĩa
 là thời nay nếu có được vị chúa ở trong núi kia ở bên cạnh để ta lo sắp
 đặt thì có thể xoay chuyển được cơ trời. Vua Gia Long cho bắt giam 
Nguyễn văn Thành và các con ở Quân xá Thị trung để xét tội. Nguyễn văn 
Thành vì uất ức mà uống thuốc độc tự tử. Trong khi đó, theo Huỳnh Cư 
& Đỗ Đức Hùng trong“Các Triều Đại Việt Nam”, Hà Nội: NXB Thanh Niên,
 1995, tr. 309-310, những tai tiếng và gần như là căn bệnh của mọi vua 
chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những người 
có công như Nguyễn văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị sát hại giữa lúc
 Gia Long đang trị vì. Nguyễn Văn Thành nguyên gốc người Thừa Thiên, 
theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu và chịu muôn nỗi gian truân cùng chủ 
tướng. Nguyễn Văn Thành có tài và lập được nhiều công lớn, đứng đầu hàng
 công thần. Gia Long lên ngôi giao cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn 
Bắc Thành. Qua mấy năm cai quản của Nguyễn văn Thành, tình hình đất Bắc 
đã yên ổn sau nhiều năm loạn lạc liên miên. Sau đó Thành được triệu về 
kinh giữ chức Trung Quân, làm Tổng tài bộ Quốc Triều Hình Luật và biên 
soạn Quốc Sử. Vì vụ con trai là Nguyễn văn Thuyên làm một bài thơ mà mà 
cả hai cha con Nguyễn văn Thành đều bị hạch tội đến nỗi Thành phải tự 
vẫn trong khi bị thẩm tra.
Người Long Hồ Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011 Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
*** 
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét