Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

- Từ Vùng Đất Biên Đến Tỉnh Biên Hòa-Đồng Nai - P 6


Di Tích Gốm Sứ Cổ Trên Vùng Đất Đồng Nai-Biên Hòa:

Ngày nay, dọc theo hai bên bờ sông Đồng Nai cũng như dưới lòng sông, thỉnh thoảng các ngư phủ trên sông vẫn thường hay bắt gặp những di vật gốm sứ, nhiều nhất là dụng cụ để nấu nướng và ăn uống như nồi, nêu, tô, chén, dĩa... tất cả đều được làm bằng đất nung, hay gốm có màu nâu đỏ, xám và xám đen. Bên cạnh đó, người ta cũng tìm thấy nhiều dụng cụ dùng trong sinh hoạt hằng ngày như các loại đèn gốm, bình vôi, ống nhổ, ấm trà, bát nhang, lọ, chai, chậu, vân vân. Tất cả đều có men màu trắng, màu lam, màu nâu, hay màu xanh ngọc. Đây có thể là những đồ dùng của người Hoa đến đây khai khẩn vào thế kỷ thứ XVII, vì chúng được chế tác khá tinh vi, chứ không phải bằng đất nung, dày, thô và nặng như các loại gốm sứ cổ có phong thái văn hóa Óc Eo.

Ngoài những di vật khảo cổ về gốm sứ ở Đồng Nai-Biên Hòa có niên đại từ trước thời Óc Eo, ngay thời Óc Eo và sau thời Óc Eo ra, không ai biết truyền thống gốm sứ thời cận đại ở vùng Đồng Nai-Biên Hòa có từ thời nào, nhưng có lẽ từ cuối thế kỷ thứ XIX, sau khi vùng Cây Mai (Sài Gòn) bị đô thị hóa với những công trình xây cất lớn thì các lò gốm tại đó đã lần lượt chuyển tới các vùng Bình Dương, Lái Thiêu và Biên Hòa, vân vân. Ngày nay, gốm sứ Biên Hòa đã rất nổi tiếng trên khắp Nam Kỳ. Đặc trưng của gốm sứ Biên Hòa là sự kết hợp giữa phong cách Việt Nam và Trung Hoa. Tuy nhiên, gốm sứ Biên Hòa nặng phần trang trí hoa văn quanh sản phẩm với những nét vẽ chìm hoặc trổ thủng, rồi sau đó tô men lên. Đa số sản phẩm gốm sứ Biên Hòa bao gồm đèn lồng, dĩa, tượng voi, bình, lư, hũ, chai, lọ, chóe(48), đôn(49) có hình voi, tượng voi, tượng lân, và tượng người, vân vân. Về phía Tây Nam của thành phố Biên Hòa, sát bên bờ sông Đồng Nai là phường Bửu Long nằm đối diện với huyện Tân Uyên bên tỉnh Bình Dương. Trước đây, Bửu Long có một làng gốm sứ nằm kế ngay Đò Trạm(50), từ đây theo đường sông cách cù lao Rùa khoảng 800 mét. Làng gốm Bửu Long xưa nay nổi tiếng là nơi sản xuất ra những đồ gốm bằng đất nung rất nổi tiếng. Tại phường Bửu Long cũng có một ngôi chùa mang tên Bửu Long, người ta không biết chùa được xây dựng vào năm nào, nhưng có thể đã được xây dựng từ sau khi công nữ Ngọc Vạn kêu gọi người Việt Nam đến đất Đồng Nai khai hoang lập ấp, nghĩa là sau năm 1620. Trong ‘Biên Hòa Sử lược Toàn Biên’, ông Lương văn Lựu có viết về việc tướng Trần Thượng Xuyên đã cho tu sửa lại ngôi chùa nầy và thỉnh sư Hoàng Long về trụ trì vào năm 1679. Như vậy chùa Bửu Long phải được xây trước năm 1679. Điểm đặc biệt là cư dân trong làng gốm Bửu Long vừa sản xuất đồ gốm sứ, vừa làm ruộng. Đất làm gốm ở đây được lấy từ chân núi Bửu Long(51), đây là loại đất sét vàng, pha lẫn đất sét trắng, có độ dính cao. Chính vì thế mà sau khi nung xong, gốm sứ Bửu Long có màu rất đẹp, đỏ tươi hoặc đỏ gạch hay đỏ hồng. Ngày nay làng gốm Bửu Long vẫn còn hoạt động, nhưng từ khi người ta bắt đầu sử dụng bếp gas hay dầu lửa, thì các lò gốm ở đây không còn sản xuất cà ràng, khuôn đúc bánh và nồi nhiều như trước đây nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục sản xuất tô, chén, dĩa, chậu trồng bông. Tuy nhiên, ngày nay trong phường Bửu Long chỉ còn khoảng 10 gia đình sống với nghề gốm sứ. Như vậy làng gốm sứ Bửu Long đang đứng trước nguy cơ mai một vì sự cạnh tranh của nhiều làng gốm khác cũng như nhu cầu đồ gốm sứ trong sinh hoạt hàng ngày càng ít đi.

Biên Hòa Qua Các Thời Đại:


Biên Hòa là vùng giao tiếp giữa phía Nam cao nguyên Trung Phần và Nam Phần nên tuy có địa hình bằng phẳng của miền Nam, nhưng phía Bắc Biên Hòa hãy còn nhiều ngọn đồi thấp và có xu hướng thấp dần theo hướng Bắc Nam, như các ngọn núi giữa Lâm Đồng và vùng Tân Phú, cao từ 200 đến 800 mét, cũng như những ngọn núi mồ côi (núi đứng chơ vơ một mình) trong vùng Định Quán và Xuân Lộc. So với các vùng khác của miền Nam thì địa thế của Biên Hòa có phần hiểm trở hơn nhiều, nên khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ thì họ đã chia đi cắt lại phần đất của tỉnh Biên Hòa nhiều lần. Ngay sau khi lấn chiếm Biên Hòa vào năm 1862, người Pháp đã chia Biên Hòa ra làm nhiều hạt nhỏ và kiểm soát rất gắt gao nên các toán nghĩa binh khó lòng hoạt động được. Cuối cùng, họ cắt tỉnh Biên Hòa của Nam Triều ra làm 3 để thành lập các tỉnh mới là Biên Hòa(52), Thủ Dầu Một và Bà Rịa để dễ bề kiểm soát và cai trị. Theo La Cochinchine được chính quyền thuộc địa biên soạn năm 1890, về vị trí thời đó Biên Hòa Bắc giáp với Cao Miên, Nam giáp Bà Rịa Vũng Tàu, Tây giáp Thủ Dầu Một, và Đông giáp Bình Tuy. Lúc đó dân số Biên Hòa là 132.000, đa số là người Việt, kế đến là người Hoa và người Khmer. Tỉnh lỵ Biên Hòa nằm trên tả ngạn sông Đồng Nai, cách Sài Gòn khoảng 30 cây số. Biên Hòa là một vùng đất cao so với các vùng khác của Nam Kỳ Lục Tỉnh, nên ngay từ thời các Chúa Nguyễn, Biên Hòa đã có một hệ thống đường bộ đáng kể ở miền Nam. 
Cầu Ghềnh
Khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, họ xây dựng đường xe lửa xuyên Việt chạy ngang qua Biên Hòa trên một tuyến đường dài hơn 100 cây số. Cách Biên Hòa khoảng 35 cây số có thác Trị An, dưới thời chánh quyền VNCH đã xây đập thủy điện, vừa dẫn thủy vừa cung cấp điện cho miền Đông Nam Kỳ. Hiện tại Biên Hòa có nhiều nhà máy dệt, nhà máy cưa gỗ, xưởng cất rượu và làm đường. Nhờ số lượng cao su vượt trội nên những năm gần đây Biên Hòa đứng đầu miền Nam về kỹ nghệ đồ gia dụng bằng cao su. Với số lượng đất đỏ vô tận đã đưa Biên Hòa lên hàng đầu trong việc sản xuất gạch ngói, đồ gốm, đồ sứ cho toàn miền. Và với số lượng đá hoa cương rất tốt (granite) trong vùng núi Chứa Chan, Biên Hòa cũng đứng đầu về ngành khắc đẽo tượng đá.

Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, Biên Hòa là một trong những thành phố lớn ở miền Nam. Chính quyền đã xây dựng nhà máy thủy điện Trị An, vừa tạo ra nguồn điện, vừa điều hòa lưu lượng nước về tưới tẩm cho hầu hết những vùng đất miền Đông. Có thể nói vùng Biên Hòa là cái nôi của cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn, vì trong suốt thời Nam tiến, mọi sinh hoạt chính trị và văn hóa quan trọng đều diễn ra tại vùng này. Vì là vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời nhất của miền Nam với những di chỉ khảo cổ Ốc Eo ở Định Quán, cũng như dấu tích văn minh cách nay trên 1.300 năm của dân tộc Phù Nam ở Cát Tiên. Sau đó có nhiều dân tộc khác di dân đến vùng Biên Hòa sinh sống như người Stieng, người Chơ Ro, người Khmer, người Mạ, người Chàm, rồi đến người Việt, người Hoa... nên truyền thống văn hóa dân gian của vùng này rất phong phú, đặc biệt là truyền thống của các dân tộc thiểu số như lối hát Tam Pót của người Mạ ở Định Quán. Bên cạnh đó, Biên Hòa còn là quê hương của những loại nhạc cụ dân gian thật độc đáo như đàn đá Bình Đa, sáo trúc, chiêng đồng, thanh la, kèn bầu, kèn môi... Vào đầu năm 1955, Biên Hòa hãy còn là một trong những tỉnh lớn nhất của Nam Bộ thời đó. Về địa giới của tỉnh Biên Hòa năm 1955 bao gồm các vùng Biên Hòa, Bình Dương (trừ quận Phú Hòa thuộc tỉnh Gia Định), Bình Long, Phước Long, Long Khánh, Phước Tuy và quận Thủ Đức(53).
Về tôn giáo, đa số theo đạo Phật, còn lại một số ít theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi, Cao Đài và Hòa Hảo. Về giao thông đường bộ, quốc lộ 1A (Cà Mau-Hà Nội) chạy ngang qua Biên Hòa. Ngoài ra, liên tỉnh lộ 51 Biên Hòa đi Long Thành, đến Ngã Ba Nhơn Trạch rồi ra Bà Rịa-Vũng Tàu; giữa Trảng Bom và thị xã Long Khánh (Xuân Lộc) đi về hướng Đông Bắc là tỉnh lộ 20 đến Định Quán và Tân Phú, đi về hướng Tây Nam là tỉnh lộ 763 đi Long Thành; từ thị xã Long Khánh có tỉnh lộ 56 đi ngang khu cổ mộ Hàng Gòn đến Cẩm Mỹ. Từ Long Thành có tỉnh lộ 770 đi Cẩm Mỹ. Đường xe lửa Sài Gòn Hà Nội chạy song song với quốc lộ 1A đi ngang qua Biên Hòa.

Tỉnh Đồng Nai Sau Năm 1975:

Sau năm 1975, địa phận tỉnh Biên Hòa đã trải qua nhiều lần sáp nhập và chia cắt, nhưng rồi đến năm 1996, chánh quyền mới lại cho sáp nhập vùng Long Khánh và Định Quán với thành phố Biên Hòa để thành lập tỉnh Đồng Nai với diện tích 5.904 cây số vuông, chiếm 25,5 phần trăm diện tích miền Đông, tương đương với 1,76 phần trăm diện tích toàn quốc. Như vậy tính đến năm 1996, địa bàn tỉnh Biên Hòa hồi Nam Kỳ Lục Tỉnh bị chia chẻ ra làm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu và quận Thủ Đức (bây giờ quận Thủ Đức cũ lại được chia làm 3 quận: Thủ Đức, quận 2 và quận 9). Về vị trí, phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp Bà Rịa Vũng Tàu, phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước (hai tỉnh Bình Long và Phước Long sáp nhập lại), phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, và phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn). Hiện tại tỉnh Đồng Nai bao gồm thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh và các quận Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ và Trảng Bom. Dân số toàn tỉnh khoảng 2.483.211 người(54), mật độ trung bình khoảng 387 người trên một cây số vuông. Đa số cư dân tỉnh Đồng Nai là người Việt, chiếm khoảng 85 phần trăm; khoảng 5 phần trăm là người Hoa; số còn lại là các dân tộc thiểu số khác như người Stieng, người Mạ, người Khmer, người Chàm...Hiện tại, Đồng Nai là một trong những tỉnh phát triển kinh tế mạnh nhất tại miền Đông Nam Kỳ, với hệ thống giao thông thuận tiện vì có nhiều tuyến giao thông huyết mạch chạy qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51, và đường xe lửa Xuyên Việt (Bắc Nam). Bên cạnh đó, tỉnh Đồng Nai còn nằm gần vùng cảng Sài Gòn và phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất nên việc giao thông giữa Đồng Nai và các vùng khác rất thuận tiện về mọi mặt. Năm 2008, chánh phủ cho khởi công xây dựng phi trường Long Thành với qui mô quốc tế để có thể đón nhận từ 80 đến 100 triệu lượt khách mỗi năm. Đồng Nai là đầu mối giao thông quan trọng của cả miền Nam với những điều kiện giao thông thuận tiện về cả đường bộ, đường thủy, đường xe lửa, lẫn đường hàng không. Trong tương lai, các tuyến đường cao tốc nối Sài Gòn với Bà Rịa-Vũng Tàu và Sài Gòn-Đà Lạt sẽ chạy ngang qua địa phận tỉnh Đồng Nai(55). Ngoài ra, chánh quyền sẽ xây dựng thêm những tuyến đường cao tốc khác như tuyến Long Thành-Cẩm Mỹ-Xuân Lộc, và tuyến Bến Lức-Nhơn Trạch-Long Thành, vân vân. Hiện nay các nước trong khu vực Đông Nam Á đang dự trù thiết lập hệ thống hỏa xa nối liền Tân Gia Ba và Côn Minh, thộc tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc, trong đó sẽ có ít nhất 50 cây số đường rầy chạy ngang qua tỉnh Đồng Nai trên tuyến đường nầy.
Riêng với hệ thống giao thông đường bộ, tỉnh Đồng Nai có 5 tuyến chính, đó là quốc lộ 1A, quốc lộ 1K, quốc lộ 20, quốc lộ 51, và quốc lộ 56, với tổng chiều dài trên 244 cây số. Hiện tại, Đồng Nai có khoảng 20 tuyến đường tỉnh lộ như các tỉnh lộ 761, 764, 766, và 769, vân vân, với khoảng 75 phần trăm đã được tráng nhựa, với tổng số chiều dài khoảng 370 cây số. Số còn lại là đường đá đỏ hay rải đất hầm. Tại các huyện hiện có tổng cộng trên 250 tuyến đường với tổng chiều dài khoảng 3.835 cây số, trong đó khoảng 60 phần trăm đã được tráng nhựa. Về đường thủy, tỉnh Đồng Nai có rất nhiều sông ngòi, đặc biệt là các sông Đồng Nai, La Ngà, Nhà Bè, Lòng Tàu, và Thị Vải. Nhờ vậy mà giao thông đường thủy của tỉnh Đồng Nai rất thuận tiện.

Hiện tại, trên sông Đồng Nai có các cảng Đồng Nai, cảng SCTGAS-VN, cảng VTGAS, cảng Phú Hữu II(56) dành cho tàu có trọng tải 20 ngàn tấn , cảng Tam Phước. Trên sông Nhà Bè có các cảng gỗ Phú Đông cho tàu 25 ngàn tấn, cảng xăng dầu Phước Khánh cho tàu 25 ngàn tấn, cảng nhà máy đóng tàu 76 dùng sửa chữa tàu 50 ngàn tấn, cảng tổng hợp Phú Hữu I cho tàu 20 ngàn tấn, cảng cụm xây dựng công nghiệp Nhơn Trạch(57) cho tàu 20 ngàn tấn, cảng dầu nhớt Trâm Anh, cảng gỗ Vikowochimex, cảng sắt thép Sun Steel. Trên sông Thị Vải có các cảng như cảng tổng hợp Phước An, cảng Phước Thái, cảng Gò Dầu A, cảng Gò Dầu B, cảng Long Thành, vân vân. Hiện nay, về giao thông đường sắt, trên tuyến đường xe lửa Bắc Nam chạy ngang qua Đồng Nai, từ nhà ga Trảng Bom xuống khu vực ga Biên Hòa đài khoảng 19 cây số, sẽ được xây dựng thêm tuyến đường sắt đi Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong địa phận tỉnh Đồng Nai có khoảng 88 cây số đường sắt chạy qua các ga Biên Hòa, Hố Nai, Trảng Bom, Dầu Giây, Long Khánh, Bảo Chánh, Gia Ray và Trảng Táo. Còn về giao thông đường hàng không, hiện tại tỉnh Đồng Nai có hai phi trường lớn, đó là phi trường Biên Hòa và phi trường Long Thành. Riêng phi trường Long Thành(58) được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng Hòa như một phi trường quân sự, và được chánh quyền mới dự tính xây dựng lại thành phi cảng quốc tế, chỉ cách phi trường Biên Hòa có 32 cây số và cách phi trường Tân Sơn Nhứt khoảng 43 cây số mà thôi.

---------


Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:


***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét