Tổng Quan Về Hai Trạm Thu Thuế Kas Krobei Và Prei Nokor: 
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất học, vùng Bến Nghé nói 
riêng và toàn vùng Nam Kỳ nói chung, đã được thành hình cách đây khoảng 
trên dưới 6.000 năm, vào đợt biển thoái lần cuối cùng. Nhờ vậy mà toàn 
bộ vùng mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Kỳ xuất lộ. Sau đó phù sa từ sông
 Cửu Long đã phủ lên mặt đất tại đây một lớp đất mầu mỡ. Vào khoảng thế 
kỷ thứ nhất sau tây lịch, vương quốc Phù Nam đã thành hình trên vùng đất
 nầy, nhưng đến cuối thế kỷ thứ VI, vương quốc nầy đã bị triệt tiêu và 
mãi cho đến ngày nay sự biến mất của vương quốc nầy vẫn còn trong nghi 
vấn. Từ khoảng thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ VIII, vùng Kas Krobei 
và Prei Nokor cũng như toàn vùng Thủy Chân Lạp đều chịu ảnh hưởng của 
nền văn minh Angkor. Đến đầu thế kỷ thứ IX, vương quốc Chân Lạp bị chia 
làm hai, đó là vùng Lục Chân Lạp(1) và vùng Thủy Chân Lạp(2). Kể từ đây 
Thủy Chân Lạp không còn chịu ảnh hưởng của Angkor cho đến thế kỷ thứ XI.
 Từ thế kỷ thứ XII trở về sau nầy, khi vương quốc Chân Lạp đang trên đà 
suy yếu và phải luôn đối đầu với Xiêm La và Mã Lai về phía Tây và Tây 
Bắc, thì hai vùng Kas Krobei và Prei Nokor luôn là điểm tranh chấp giữa 
Champa và Chân Lạp. Đến khi Xiêm La đã lấn chiếm toàn bộ vùng đất phía 
Tây Bắc Cao Miên ngày nay, họ lại dòm ngó sang vùng đất phía Đông và 
phía Nam Cao Miên. Chính vì vậy mà kể từ thế kỷ thứ XVII mãi đến giữa 
thế kỷ thứ XIX, hai vùng Kas Krobei và Prei Nokor(3) luôn bị vương quốc 
Xiêm La dòm ngó. Lịch sử cho thấy Xiêm La đã nhiều lần phát động những 
cuộc chiến tranh những mong lấn chiếm toàn bộ vùng đất mà bây giờ chúng 
ta gọi là Nam Kỳ. Tuy nhiên, kể từ thế kỷ thứ XVII trở về sau nầy, do 
những nguyên nhân chủ quan và khách quan, thế lực và ảnh hưởng của xứ 
Đàng Trong ngày càng mạnh đối với vương quốc Chân Lạp. Nói về những 
nguyên nhân chủ quan, thứ nhất là dân số Việt Nam tại xứ Đàng Trong ngày
 càng tăng nhanh nên họ phải đi lần về phương Nam tìm đất sống; thứ nhì 
hai họ Trịnh Nguyễn đang tranh chấp quyền lực nên các chúa Nguyễn phải 
thiết lập một hậu cứ vững chắc ở phương Nam để đối đầu với họ Trịnh. Bên
 cạnh đó có hai nguyên nhân khách quan đã góp phần không nhỏ cho sự hiện
 diện của người Việt Nam trên mảnh đất nầy, thứ nhất là vương quốc Xiêm 
La lúc nào cũng hà hiếp Chân Lạp khiến các vua Chân Lạp phải ngã hẳn về 
phía Đàng Trong để mong được sự che chở và bảo vệ; thứ hai là vào hậu 
bán thế kỷ thứ XVII, một số di thần nhà Minh không phục Thanh triều nên 
đã đến xứ Đàng Trong xin tỵ nạn và đã được chúa Nguyễn cho vào đây khẩn 
đất. 
Sự Ngộ Nhận Về Hai Vùng Đất Nằm Sát Cạnh Nhau: Kas Krobei Và Prei Nokor 
Mãi đến ngày nay có nhiều người lầm tưởng vùng Prei Nokor chính là trung
 tâm Sài Gòn ngày nay. Kỳ thật, khi vua Chey Chetta II cho xứ Đàng Trong
 lập hai đồn thu thuế tại Prei Nokor và Kas Krobei, thì vùng Kas Krobei 
lại là vùng nằm khoảng trung tâm Sài Gòn ngày nay, còn vùng Prei Nokor 
nằm khoảng giữa Bình Chánh và Kas Krobei (Bến Nghé). Như vậy, vùng trung
 tâm Sài Gòn ngày nay phải là vùng Kas Krobei, tức vùng Bến Nghé khi 
xưa, còn vùng Chợ Lớn ngày nay phải là vùng mà chúng ta gọi là Prei 
Nokor thời đó. Đến năm 1776, sau khi nghĩa quân Tây Sơn đã triệt tiêu Cù
 Lao Phố, những người Hoa còn sống sót đã bỏ chạy về phía tây nam của 
vùng Bến Nghé, tức là khu Prei Nokor ngày trước, để lập nên khu Chợ Lớn 
ngày nay, và họ đặt tên cho khu định cư mới của họ là “Đê Ngạn”, theo âm
 Quảng Đông là “Thầy Ngòn”. Theo Aubaret và Francis Garnier, sau khi Cù 
Lao Phố bị đại quân Tây Sơn thiêu hủy, hầu như toàn bộ người Hoa tại đây
 đều xuôi về phía Tây Nam theo hướng Dĩ An, Thủ Đức, và qua khỏi Tân 
Bình... để lập nên một khu phố khác mà họ đặt tên là “Đê Ngạn”(4), đọc 
theo âm tiếng Hoa phổ thông là “Tỉ Án”, và người Việt đọc trại ra là 
“Tài Ngòn”, nhưng lâu dần âm nầy biến thành “Sài Gòn”. 
Tuy nhiên, theo lịch sử của xứ Đàng Trong thì địa danh Sài Gòn đã có từ 
trước khi người Hoa từ Cù Lao Phố tràn về vùng Prei Nokor để xây dựng 
thành phố “Thầy Ngòn”. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, được viết 
vào năm 1776, thì ngay từ năm 1674, thống suất Nguyễn Dương Lâm đã vâng 
mệnh chúa Nguyễn đem quân vào đánh Chân Lạp và đã phá vỡ lũy “Sài 
Gòn”(5). Như vậy tên gọi Sài Gòn đã xuất hiện từ năm 1674 hoặc trước đó 
nữa. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, năm 1776, sau khi nghĩa 
quân Tây Sơn đã triệt tiêu cù lao Phố, những người Hoa còn sống sót đã 
bỏ chạy về phía tây nam Bến Nghé, tức là khu Prei Nokor ngày trước, để 
lập nên khu Chợ Lớn ngày nay. Họ gọi vùng Chợ Lớn nầy là “Thầy Ngòn”, và
 viết thành ‘Đê Ngạn’. Có lẽ người Việt mình phát âm trại ra là Sài Gòn,
 chứ thật ra “Thầy Ngòn” là tên mà người Hoa chỉ đặt cho vùng Chợ Lớn mà
 thôi. Trong khi đó, cũng chính những người Hoa tại “Thầy Ngòn” lại gọi 
vùng trung tâm Sài Gòn là “Tây Cống”, phát âm theo tiếng quan thoại là 
“Xi Koóng”. 
Hai Thành Phố “Thầy Ngòn” Và “Sài Gòn” Hoàn Toàn Khác Nhau: 
Như trên đã nói, sau năm 1776 những người Hoa còn sống sót trong vùng cù
 lao Phố đều bỏ chạy đến vùng phía tây nam Bến Nghé sinh để sinh sống 
tại một khu thị tứ có sẳn, đó là khu Prei Nokor dưới thời các chúa tiên 
triều nhà Nguyễn, và tại đây họ đã thành lập một thành phố mang tên là 
“Đê Ngạn”(4) và phát âm là “Thầy Ngòn”, và cũng chính những người Hoa 
tại “Thầy Ngòn”, tức thành phố Chợ Lớn ngày nay, lại gọi vùng trung tâm 
Sài Gòn là “Tây Cống”(6). Ngày nay, có lẽ chúng ta không thấy xa khi đi 
xe từ trung tâm thành phố Sài Gòn đến Chợ Lớn, nhưng vào thời điểm 1776 
thì khoảng cách khoảng mười cây số ấy quả là xa. Đến khi người Pháp 
chiếm thành Gia Định, họ dư biết là cư dân địa phương gọi vùng nầy là 
Bến Nghé, nhưng có nhiều lý do khiến họ không gọi nó là Bến Nghé, thứ 
nhất vì họ phải trả một cái giá khá đắc về nhân mạng và những tổn thất 
nặng nề khác về chiến cụ để chiếm được vùng Bến Nghé, nên họ không mấy 
mặn mà với cái tên nầy, thứ nhì lúc người Pháp chiếm thành Gia Định, họ 
nghe người Hoa ở Chợ Lớn, tức vùng Prei Nokor ngày trước, gọi Bến Nghé 
là “Xi Koóng” nên họ cũng gọi trại theo là Sài Gòn. Và cũng kể từ đó họ 
dùng cái tên “Thầy Ngòn” để gọi chung cho cả Bến Nghé và Chợ 
Lớn, nhưng họ nào có biết là địa danh Sài Gòn đã được xứ Đàng Trong dùng
 để gọi vùng Bến Nghé từ năm 1674. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn,
 được viết vào năm 1776, thì ngay từ năm 1674, thống suất Nguyễn Dương 
Lâm đã vâng mệnh chúa Nguyễn đem quân vào đánh Chân Lạp và đã phá vỡ lũy
 “Sài Gòn”. Trong bài viết về “Hình Ảnh Sài Gòn” năm 1860, ông Louis 
Malleret đã viết: “Ở phần đất cao của thành phố, sau khi vượt qua Trường
 Thi, nơi kỵ binh và thủy binh đang đóng, người ta gặp nhiều lăng mộ và 
các vườn cây ăn quả ẩn mình trong các ngôi làng toàn nhà lá. Cuộc kê 
khai số đinh trong khu vực đô thị Sài Gòn-Chợ Lớn cho phép chúng ta xác 
định được một số những ngôi làng nầy. Đi theo con “đường chiến lược”, 
ngày nay trở thành phố Frère Louis(7), ta có thể tới được khu buôn bán 
lâu đời nhất (khu Chợ Lớn), trong đó Sài Gòn, đúng hơn là Bến Nghé, chỉ 
là một khu ngoại ô xa xôi... 
Sách vở cho biết sự di cư của người Tàu tới Chợ Lớn bắt đầu từ năm 1778 
và có lẽ sự kiện người Tàu rời bỏ các trung tâm ở sâu trong nội địa tới 
Chợ Lớn để chạy trốn cuộc chiến tranh của Tây Sơn là có thực. Nếu chú ý 
rằng Nam Kỳ xưa kia thuộc Cao Miên và trước khi có Chợ Lớn đã có một 
thành phố Khmer gọi là Prei Nokor thì ta có thể giả thuyết rằng người 
tàu đã ở Chợ Lớn từ rất sớm như đã ở khu vực Angkor và nhiều thành phố 
khác trong nước Cao Miên cổ. Nhìn từ trên máy bay, dấu vết của Prei 
Nokor là một đường bao với một trường đua ở bên trong. Với các đền chùa 
của các bang hội Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu của người Minh 
Hương..., chỉ riêng Chợ Lớn có đặc trưng của một thành phố.” Qua những 
chứng liệu vừa kể, chúng ta thấy hai thành phố “Thầy Ngòn” và “Tây 
Cống”, tức Sài Gòn, hoàn toàn khác biệt nhau. 
Phải Chăng Kas Krobei Chính Là Vùng Bến Nghé? 
Câu hỏi tự nó cũng là câu trả lời vì Kas Krobei là tiếng Khmer có nghĩa 
là “Bến Trâu”. Đó là nói về phần nguồn gốc Kas Krobei từ phía người 
Khmer. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu về nguồn gốc của địa danh Bến Nghé 
về phía người Việt Nam. Tưởng cũng nên nhắc lại là vào thế kỷ thứ XIV, 
nước Chân Lạp bị quân Mã Lai đánh phá dữ dội nên phải chịu thần phục Mã 
Lai. Sau đó Chân Lạp lại bị Xiêm La đánh chiếm. Trong khoảng thời gian 
chiến tranh giữa Xiêm La và Chân Lạp, một số dân Chân Lạp sống sót đã bỏ
 xứ chạy về trốn tránh trong vùng nầy. Có lẽ từ đó mà tại vùng mà bây 
giờ chúng ta gọi là Sài Gòn có những địa danh Khmer như Prinagaram (phố 
giữa rừng), Kas Krobei(8), và Prei Nokor(9), vân vân. Theo Phương Đình 
Dư Địa Chí, sông Tân Bình chảy qua vùng phía bắc huyện Bình Dương khoảng
 5 dặm, tức vùng Bến Nghé, có tên là sông Ngưu Hống, chảy đến trước tỉnh
 thành lại chuyển sang hướng đông đến cửa Phù Gia, Tam Giang rồi hợp với
 sông Phúc Bình để chảy ra cửa bể Cần Giờ. Thuyền buôn đi lại lũ lượt, 
là một nơi đô hội lớn trong vùng. Tục truyền sông nầy có nhiều cá sấu, 
từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu kêu cho nên gọi là sông Ngưu 
Hống, nên nước sông lúc nào cũng đục. Sau khi Nguyễn Ánh thu phục thành 
Gia Định thì nước sông lại trong, rồi năm Minh Mạng thứ 2 và thứ 6, nước
 sông lại trong lần nữa. Dân gian đương thời cho rằng đây là điềm an lạc
 thái bình cho cư dân. Đến năm Minh Mạng thứ 17, 1846, nhà vua cho khắc 
hình sông vào cao đỉnh. Đến năm Tự Đức thứ 3, 1850, nhà vua cho liệt tên
 sông vào điển thờ(10). Có lẽ thời đó vùng đất nầy lúc nào cũng có những
 tiếng gầm như tiếng trâu của hàng ngàn đàn cá sấu, cho nên những cư dân
 Việt Nam đầu tiên đến định cư trong vùng đất nầy đã đặt tên cho sông là
 sông Ngưu Hống (Bến Nghé), bến là Ngưu Tân (Bến Nghé), và rồi lâu dần 
cả vùng đất nầy cũng mang tên Bến Nghé. Hơn nữa theo các bô lão địa 
phương kể lại, lúc đầu khai phá vùng đất nầy, cư dân ở đây nuôi rất 
nhiều trâu để giúp người phá rừng làm ruộng. Mỗi trưa họ dắt từng đàn 
trâu đến phía rạch Ông Bương(11) để cho trâu uống nước, vì vậy mà có 
rạch Bến Trâu, đến năm 1954 vẫn còn con rạch mang tên Bến Trâu ở vùng 
Phú Lâm. 
Sau khi thành lập hai phủ Phước Long và Tân Bình vào năm 1698, Nguyễn 
Hữu Cảnh bèn xây đắp một lũy đất dài khoảng 8 hoặc 9 cây số, từ phía 
dưới rạch Thị Nghè lên vùng Chí Hòa ở khu Rạch Cát, nhằm bảo vệ vùng 
phía tây bắc và tây nam vùng Kas Krobei và Prei Nokor, tức vùng Sài 
Gòn-Chợ Lớn ngày nay; riêng phía đông bắc và đông nam Sài Gòn đã có rạch
 Thị Nghè, sông Tân Bình và sông Sài Gòn che chắn. Như vậy ngay từ thời 
điểm nầy vùng Bến Nghé đã được triều đình xứ 
Đàng Trong để ý đến. Tuy nhiên, vào thời điểm quan Chưởng cơ Lễ Thành 
hầu Nguyễn Hữu Cảnh(12) vào kinh lược xứ Nông Nại, thì dân số vùng nầy 
lúc bấy giờ không vượt quá con số 200.000, nghĩa là dân cư rất thưa 
thớt. Toàn vùng Sài Gòn và Nông Nại vẫn còn chìm trong những khu rừng 
rậm hoang vu như khu rừng Hóc Môn, Tân Bình, Gò Vấp, Phú Lâm, vân vân. 
Chính vì vậy mà quan Kinh Lược Nguyễn Hữu Cảnh phải xin phép các chúa 
Nguyễn cho chiêu mộ cư dân cố cựu từ các phủ Điện Bàn, Quảng Nam, Quảng 
Ngãi, và Qui Nhơn đến đây khai hoang lập ấp với quy chế thật dễ dãi. Về 
việc nầy chính Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong Gia Định Thành 
Thông Chí như sau: “Nông Nại nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú. Lúc 
đầu thiết lập ba dinh, một dân đến ở, có đất ở hạt Phiên Trấn mà kiến 
trưng làm đất ở hạt Trấn Biên, hoặc có đất ở hạt Trấn Biên mà kiến trưng
 làm đất ở hạt Phiên Trấn, như vậy cũng tùy theo dân nguyện, không ràng 
buộc gì cả, cốt yếu là khiến dân mở đất khẩn hoang, chia thành điền, lập
 thành thôn xã mà thôi.” Mãi đến thế kỷ thứ XVIII, thì đa phần đất Prei 
Nokor vẫn còn rất hoang vu. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn: 
“Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm, họ Nguyễn 
trước kia lấy được đất ấy, rồi chiêu mộ dân từ các phủ Điện Bàn, Quảng 
Ngãi, Quy Nhơn di cư đến khai hoang lập ấp trên vùng đất mầu mỡ, họ 
chiếm lấy vườn trồng cau, làm nhà ở. Lại mua con trai con gái người Mọi ở
 các đầu nguồn đem bán làm nô tỳ... cho chúng lấy nhau, sinh con đẻ cái,
 nuôi nấng chúng cho lớn lên để làm việc phá rừng cày ruộng, vì lẽ đó mà
 lúa thóc tại vùng nầy rất nhiều. Tại các địa phương, mỗi nơi có 40, 50 
hoặc 20, 30 nhà giàu, mỗi nhà đều có từ 50 đến 60 điền nô, từ 300 đến 
400 trâu bò, cày cấy, gặt hái rộn ràng không lúc nào rảnh rỗi, hàng năm 
đến tháng 11, tháng chạp, giã gạo, sàng gạo, bán lấy tiền để dùng vào lễ
 chạp, lễ tết, sau tháng giêng trở đi, không làm việc xay giã nữa. Họ 
đem nông sản bán ra các vùng Phú 
Xuân để đổi lấy hàng từ miền Bắc như tơ lụa, lãnh, trừu, và áo quần tốt 
đẹp.” Đến hậu bán thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ 18, các di thần nhà 
Minh không phục nhà Mãn Thanh nên đã chạy qua xứ Đàng Trong và được chúa
 Nguyễn cho vào khai khẩn vùng Đồng Nai và Mỹ Tho. Tưởng cũng nên nhắc 
lại vào năm 1679, tướng Trần Thượng Xuyên, tổng binh các châu Cao, Lôi, 
Liêm, cùng phó tướng Trần An Bình theo cửa Cần Giờ, lên đồn trú tại xứ 
Đồng Nai, khai phá đất hoang, lập ra Đông Phố(13), một trong những khu 
thị tứ sầm uất nhất của xứ Đàng Trong thời bấy giờ. 
Thật vậy, ngay từ đầu thế kỷ thứ XVIII, việc mua bán lúa gạo tại vùng 
Nông nại đã đóng một vai trò hết sức quan trọng cho xứ Đàng Trong. Lúa 
gạo được chở từ cảng Nông Nại ra Quảng Nam, Phú Xuân, ngay cả các vùng 
Tân Gia Ba và Malacca nữa. Theo giáo sĩ Halbont tại vùng Thuận Hóa thì 
mỗi năm từ Đồng Nai, vùng đất phì nhiêu, có hàng ngàn chiếc ghe đến từ 
vùng nầy mang lại sự đầy đủ và nỗi vui mừng cho dân chúng. Đến thời Gia 
Long thì đất Nam Kỳ vẫn còn chia làm 3 dinh và 1 trấn là Biên Trấn dinh 
(Biên Hòa), Phiên Trấn dinh (Gia Định), chia Gia Định làm ba (03) tỉnh 
gồm các tỉnh Tây Ninh, Chợ Lớn, và Gia Định. Quan Kinh Lược Nguyễn Hữu 
Cảnh có công rất lớn với dân tộc Việt Nam trong việc mở cõi về phương 
Nam. Đến trước năm 1776, vùng Cù Lao Phố(13) và toàn vùng Gia Định đã 
phát triển trên một qui mô rộng lớn, sinh hoạt thời nầy được Lê Quí Đôn 
ghi lại trong Phủ Biên Tạp Lục như sau: “Ở mỗi địa phương, mỗi nơi có từ
 40 đến 50 hoặc từ 20 đến 30 nhà giàu. 
Mỗi nhà có từ 50 đến 60 người giúp việc ruộng rẫy, từ 300 đến 400 trâu 
bò, cày bừa gặt cấy rất rộn ràng. Gạo được bán ra Phú Xuân để đổi lấy 
hàng Bắc như tơ lụa, trừu, quần áo, vải bô.” Cùng năm 1776, quân Tây Sơn
 chiếm vùng Cù Lao Phố và truy đuổi Nguyễn Ánh ra khỏi thành Gia Định. 
Vị Trí Của Vùng Đất Bến Nghé Khi Còn Mang Tên Kas Krobei: 
Sau khi đại quân Tây Sơn đã phá hủy toàn bộ vùng Cù Lao Phố vào năm 
1776, đa số những người Minh Hương còn sống sót đều kéo nhau chạy về 
vùng đất Bến Nghé. Vào thời đó tàn quân của Nguyễn Ánh cũng chạy theo 
nhóm người Minh Hương về đây. Đến năm 1778, sau khi củng cố lực lượng, 
Nguyễn Ánh đã cho xây đắp một lũy đất từ bờ sông Sài Gòn đến kinh Tàu Hủ
 ngày nay. Nguyễn Ánh lại cho thiết trí những cọc gỗ nhọn có bọc sắt tại
 các vàm sông rạch quanh vùng. Sau khi người Hoa đã rời bỏ vùng Cù Lao 
Phố để chạy về định cư tại vùng Bến Nghé, rồi đến khi Nguyễn Ánh xây đắp
 chiến lũy, có thể nói khu vực Bến Nghé thời đó bao gồm cả một vùng rộng
 lớn từ Gia Định, qua Sài Gòn, rồi chạy về phía Nam đến vùng Chợ Lớn 
ngày nay. Theo Sơn Nam trong “Bến Nghé Xưa”, Bến Nghé ở vào vị trí độc 
đáo: sát bờ biển, bên Khánh Hội là ranh giới của rừng Sác, chạy ra tới 
biển. Ở lằn ranh từ Tây Nguyên đổ xuống, có thể trồng cây cao su. Ranh 
giới của vùng đất thấp ăn đến Đồng Tháp Mười và chạy đến tận vùng đồng 
bằng sông Cửu Long. Nhờ vậy mà Bến Nghé liên lạc dễ dàng ra Trung và Bắc
 Phần, lên cao nguyên, lại có đường thủy lên Campuchia. Trên biển Đông, 
Bến Nghé được ca ngợi là bao lơn của Thái Bình Dương. Muốn vào cảng, tàu
 bè theo sông Lòng Tàu quanh co giữa rừng Sác, lạch nước sâu và rộng, 
không phải nạo vét thường xuyên, quanh năm không có sương mù(14). 
Ngày nay mỗi khi nhắc đến Bến Nghé, có người lầm tưởng đó là tên gọi xưa
 của Sài Gòn mà thôi. Như vậy cũng đúng, nhưng không đúng hoàn toàn, vì 
đối với cương giới của xứ Đàng Trong thời đó, vùng Bến Nghé là cả một 
vùng đất rộng lớn bao gồm các vùng Gia Định, Sài Gòn và Chợ Lớn ngày 
nay. Phía Bắc của Bến Nghé là vùng gò nỗng, đất cao chạy từ phía Gò Vấp 
xuống rạch Thọ Nghè, qua gò Tân Định, rồi theo bờ sông Sài Gòn đến cột 
cờ Thủ Ngữ và Bến Sỏi ngày trước(15). Tại đây có những vùng cao hơn 10 
mét so với mực nước biển, tức là khu vực thành Gia Định ngày trước, ngày
 nay là khu vực đường Đinh Tiên Hoàng. Phía Nam bờ vàm rạch Bến Nghé là 
vùng đất thấp. Về bên phải của bờ sông Sài Gòn, từ vàm rạch Thị Nghè ra 
đến Nhà Bè, từ lâu nay đã là một vị trí chiến lược quan trọng trong việc
 phòng thủ thành Gia Định. Dưới thời các chúa Nguyễn, vùng Bến Nghé đã 
có Đồn Dinh chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ cho cả vùng. 
Hết phần đầu
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
                                                                    ***

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét