Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

Thành Phố Sương Mù


Sương giăng phủ kín khắp nương đồi
Đà Lạt mơ màng năm tháng trôi
U  tịch Trúc Lâm lòng hướng Phật
Lang Biang vòi vọi núi ngang trời
Đồi thông Hai Mộ tình ai oán
Thung lũng Tình Yêu cảnh rạng ngời
Thành phố sương mù bao quyến rũ

Lâm Viên luôn mãi đẹp lòng người
                                        Quên Đi

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

Chinh Phu


Ba thước gươm hùng diệt sói lang
Lìa xa thê tử xót mềm gan
Ra đi chí cả gìn sông núi
Gác lại tình riêng biệt xóm làng
Nuốt lệ biên thuỳ mong tái hợp
Vùi thây chiến tuyến quyết không màng 
Tình nhà nợ nước đôi vai gánh 
Khói lửa lụn tàn ắt vĩnh khang 
                                Quên Đi

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ (Lý Bạch)

 

Nguyên tác chữ Hán:

    夜泊牛渚懷古
                           李白      
Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ
                              Lý Bạch
牛 渚 西 江 夜    
Ngưu chử Tây Giang dạ
青(*) 天 無 片 雲    
Thanh thiên vô phiến vân
登 舟 望 秋 月    
Đăng chu vọng thu nguyệt
空 憶 謝 將 軍     
Không ức Tạ tướng quân (**)
余 亦 能 高 詠    
Dư diệc năng cao vịnh
斯 人 不 可 聞      
Tư nhân bất khả văn
明 朝 挂 帆 席    
Minh triều quải phàm khứ
楓 葉 落 紛 紛       
Phong diệp lạc phân phân.    

(*) - "清 天" Trời Trong. mình nghĩ chữ Thanh này mới hợp tình hợp cảnh. 
Ban đêm trăng sáng làm sao thấy "Trời Xanh 青 天", có lẽ trời xanh ở đây có nghĩa là bầu trời?

(**) Tạ tướng quân là tướng Tạ Thượng, người thời Đông Tấn. Trong một đêm thu cùng tùy tùng đi dạo trên sông Tây ngắm trăng, ông chợt nghe tiếng người ngâm thơ và liền cho mời thi nhân đó lên thuyền. Hỏi ra thì được biết thi nhân đó tên Viên Hằng. Ông và thi nhân kết bạn tâm giao và cùng nhau đối thơ suốt đêm.
Viên Hằng là một quan chức triều Tấn, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng.
Ông để lại nhiều tác phẩm văn học, thơ ca có giá trị, được đánh giá cao trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Tài năng và ảnh hưởng của Viên Hằng đã góp phần định hình sự phát triển văn hóa và triết học thời Đông Tấn.

Dịch nghĩa:

Đêm neo thuyền bến Ngưu nhớ chuyện cũ

Nơi bến Ngưu bờ tây sông Trường Giang
Bầu trời xanh không một bóng mây
Lên thuyền ngắm trăng thu
Nhìn vào khoảng không thấy nhớ đến tướng quân Tạ Thượng
Bâng khuâng lại cất cao giọng ngâm thơ
Nhưng người xưa làm sao nghe được
Sáng sớm mai giương buồm ra khơi
Lá phong lả tả rụng rơi đầy.

Dịch thơ:

Đêm đậu bến Ngưu nhớ chuyện cũ

1/
Ngưu bến đêm bờ Tây   
Bầu trời chẳng gợn mây   
Trăng thu lên thuyền ngắm    
Nhớ Tạ tướng thuở nào   
Ngâm nga cất giọng cao   
Người xưa nào nghe thấy   
Giương buồm buổi ban mai   
Phong vàng lất phất bay.   

2/ 
           Bờ tây đêm đậu bến Ngưu
Trời xanh chẳng chút sương mù lẫn mây
      Thuyền thu ngắm dáng trăng đầy
   Tưởng về Tạ tướng lòng đây dạt dào
         Ngâm thơ nhớ cảnh thuở nao
 Nhưng người xưa chẳng thể nào nghe ta
          Sớm mai thuyền phài rời xa
      Lá phong theo gió la đà rụng rơi.
                                          Quên Đi
***     
Đêm Bến Ngưu Nhớ Chuyện Cũ
1/
Ngưu Chử đêm bờ Tây
Trời xanh chẳng gợn mây
Lên thuyền trăng thu ngắm
Nhớ Tạ quân vơi đầy
Thơ ngâm vút cao giọng
Biết người xưa có hay
Giương buồm rời một sớm
Xao xác lá bay bay

2/
          Đêm Ngưu Chử bến bờ Tây
Lưng trời xanh biếc chẳng mây mây mù
       Lên thuyền ngắm ánh trăng thu
      Nhớ sao Tạ tướng nỗi u sầu nầy
          Thơ ngâm cao giọng là đây
    Biết người năm cũ có hay chăng là
         Giương buồm mai sớm rời xa
         Lá phong tan tác là là rụng rơi
                                Kim Phượng
***
Đêm đậu Ngưu Chử Nhớ Chuyện Xưa

1-

Ngưu Chử sông Tây tối
Trời xanh chẳng chút mây
Trăng thu thuyền đứng ngắm
Nhớ Tạ tướng vơi đầy
Ta cũng ngâm cao giọng
Người ấy nghe được hay…?
Giăng buồm đi sáng sớm
Lất phất lá phong bay

2-
          Bến Ngưu tối đậu sông Tây
Trời cao chẳng gợn chút mây xanh viền
      Trăng thu ngắm vọng lên thuyền
 Vẩn vơ chợt nhớ Tạ Huyền tướng quân
         Thơ ngâm cao giọng có thần
   Người xưa xa lắc đâu cần lắng nghe
         Buồm giăng sáng sớm trở về
    Lá phong rơi rụng kết bè trôi theo!
                                     Lộc Bắc
                                      Sept25

***
* Xuất xứ bài thơ :

DẠ BẠC NGƯU CHỮ HOÀI CỔ là "Đêm ghé thuyền dưới núi Ngưu Chữ nhớ chuyện xưa", là bài thơ mà Thi Tiên Lý Bạch làm lúc còn chưa phát tích, tự cảm thương cho thân phận mình chưa gặp được người tri âm tri kỷ. Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời vua Đường Huyền Tông, sau mùa thu khi đã hoàn thành tác phẩm "Đông Thiệp Minh Hải" của mình, Lý Bạch đã nương theo dòng Trường giang mà vào Động Đình Hồ để điếu tang người bạn tên Ngô Chỉ Nam, khi đi ngang qua Ngưu Chử Sơn nhớ lại tích xưa ở đây mà làm nên bài thơ nầy.

夜泊牛渚懷古 DẠ BẠC NGƯU CHỬ HOÀI CỔ

牛渚西江夜, Ngưu Chử Tây giang dạ,
青天無片雲。 Thanh thiên vô phiến vân.
登舟望秋月, Đăng chu vọng thu nguyệt,
空憶謝將軍。 Không ức Tạ tướng quân.
余亦能高詠, Dư diệc năng cao vịnh,
斯人不可聞。 Tư nhân bất khả văn.
明朝掛帆席, Minh triêu quải phàm tịch,
楓葉落紛紛。 Phong diệp lạc phân phân.
李白 Lý Bạch

* Chú thích :
- NGƯU CHỬ 牛渚 : Tên một ngọn núi ở tây bắc của huyện Đương Đồ thuộc tỉnh An Huy. Nơi mà tướng Tạ Thượng nghe Viên Hoằng vịnh sử.
- TÂY GIANG 西江 : là một khúc của sông Trường Giang, chảy từ Nam Kinh cho đến bên trong tỉnh Giang Tây, tục gọi là TÂY GIANG. Núi NGƯU CHỬ nằm trong dòng chảy của TÂY GIANG trong lãnh địa của tỉnh Giang Tây
- KHÔNG ỨC 空憶 : Chợt nhớ tới; Bỗng nhớ đến...
- TẠ TƯỚNG QUÂN 謝將軍 : tức tướng quân Tạ Thượng 謝尚 của đời Đông Tấn, là người đất Thái Khang tỉnh Hà Nam, là anh họ chú bác của danh tướng Tạ An. Ông là người văn võ song toàn, giỏi cả cầm kỳ thi họa, được phong là Trấn Tây Tướng Quân trấn thủ vùng núi Ngưu Chử nầy. Trong một đêm thu khi ông cùng tuỳ tùng thả thuyền theo dòng Tây Giang để ngắm trăng, tình cờ nghe được trong một chiếc thuyền nan có một chàng thư sinh đang ngâm thơ vịnh sử; Ông bèn cho người đến mời lên thuyền của mình và hai người đã cùng đàm đạo với nhau suốt đêm rất là tương đắc. Người thư sinh đó chính là Viên Hoằng 袁宏, nhà nghèo lại mồ côi sớm, đang làm nghề đưa đò để độ nhật. Sau hôm gặp gỡ và cùng đàm đạo suốt đêm với Tướng Tạ Thượng, tiếng tăm tài giỏi của Viên Hoằng được đồn đại khắp nơi, và sau nầy phát tích làm quan đến chức Thái Thú của Đông Dương.
- DƯ 余 : là Phiếm xưng Đại từ ngôi thứ nhất là : Tôi, Ta, Tao...
- TƯ NHÂN 斯人 : là Người đó, Người ấy; Ở đây chỉ Tạ Thượng.
- QUẢI PHÀM TỊCH 掛帆席 : là Giương buồm ra đi. Có Dị Bản ghi là "ĐỘNG ĐÌNH KHỨ 洞庭去" là "Đi về hướng Động Đình Hồ".
- Chữ LẠC 落 là Rơi; Có dị bản ghi là "CHÍNH 正 có nghĩa là Đang lúc".
- PHÂN PHÂN 紛紛 : (rơi) Rào rào, Rạt rào, Rào rạt ...

* Nghĩa bài thơ :
ĐÊM GHÉ THUYỀN DƯỚI NÚI NGƯU CHỬ NHỚ CHUYỆN XƯA
Đêm xuống trên sông Tây Giang dưới chân núi Ngưu Chử; Bầu trời trong xanh ngát không gợn chút mây nào. Bước lên thuyền ngước nhìn vầng trăng thu sáng vằng vặc; Bỗng chợt nhớ đến câu chuyện của ông tướng quân họ Tạ (và Viên Hoằng). Ta cũng có thể cất cao giọng ngâm sử (như Viên Hoằng vậy), rất tiếc là đã không còn có người (như Tạ Tướng quân) để nghe lời ngâm của ta. Đến sáng mai nầy thì ta lại phải trương buồm ra đi (về phía Động Đình Hồ) rồi. Khi đó nơi đây chỉ còn có lá phong vàng rơi rào rạt mà thôi !

Vì đang lúc bất đắc chí, nên khi thuyền đậu dưới bến của Ngưu Chử Sơn. Lý Bạch chợt nhớ đến truyện của Tạ tướng quân khi xưa mà ước ao sao mình được như là Viên Hoằng thuở trước gặp được người tri kỷ như là Tạ Thượng để được thỏa chí bình sinh. Nhưng chuyện đời đâu phải muốn là được đâu, nên cũng đành cam chịu với số phận hẩm hiu của mình một cách thản nhiên nhưng cũng đượm chút... chua cay nhè nhẹ : Minh triêu quải phàm tịch, Phong diệp lạc phân phân. Mai ngày khi mình đã giương buồm ra đi rồi, thì nơi nầy chỉ còn lại có lá phong vàng rạt rào rơi rụng trước gió thu như ước mơ của mình cũng bay theo gió thu ở nơi đây vậy !

* Diễn Nôm :

DẠ BẠC NGƯU CHỬ HOÀI CỔ

Tây Giang bến Ngưu Chử,
Trời xanh chẳng gợn mây.
Lên thuyền nhìn trăng sáng,
Nhớ Tạ Tướng nơi nầy.
Ta cũng thừa ngâm vịnh,
Người xưa nào có hay ?!
Mai ngày thuyền xa bến,
Lá phong lại rơi đầy !

Lục bát :

         Tây Giang Ngưu Chử bến này,
Trời xanh chẳng gợn chút mây sương mù.
        Lên thuyển ngắm ánh trăng thu,
 Nhớ thay Tạ Tướng chuyện từ năm xưa.
            Ngâm nga ta cũng có thừa,
 Tiếc thay chẳng gặp người xưa luận bàn.
         Mai ngày buồm lại vượt sang,
   Rạt rào lá rụng mộng vàng bay theo !

                                                杜紹德
                                          Đỗ Chiêu Đức
***

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

Trung Thu Cảm Xúc

Cung Quế thênh thang chỉ bóng Hằng   
Đêm đêm nhìn xuống có buồn chăng
Nhìn sao thương quá hồng nhan bạc  
Quyết muốn tìm đường đến cõi trăng   

Một bước lên trời có được chăng  
Để tròn ước nguyện đến bên Hằng   
Hai nơi hai cảnh e rằng khó   
Chả lẽ giờ đây chỉ ngóng trăng.   

Những muốn mình ên với ả Hằng   
Đêm dài ủ giấc được hay chăng
Kẻ tiên người tục điều không tưởng   
Thôi vậy đành thôi vỡ mộng trăng.    
                                     Quên Đi     

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

Cảm Xúc Đêm Trăng


Đêm về nơi gác vắng
Mình ta với chị Hằng
Nghe gió dường than thở
Rượu sẵn thiếu hồn thơ

Thuyền câu trong đêm lạnh
Một tấm áo mong manh
Ông lão co ro đợi
Hy vọng chẳng hề vơi

Còn mình ngồi đối bóng
Lấy thơ tỏ nỗi lòng
Nhưng chữ dường như cạn
Nên bút chẳng thể đan

Thôi thì cùng trăng vậy
Kẻo bóng ngã về tây
Chén này thêm chén nữa
Chị Hằng đã say chưa

Rượu nồng giờ đã ngấm
Nàng thơ vẫn biệt tăm
Càng nghĩ càng thêm rối
Mình kém lão câu rồi.
                     Quên Đi

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

思邊 Tư Biên Lý Bạch


思邊 Tư Biên
                   Lý Bạch


去 年 何 時 君 別 妾
Khứ niên hà thời quân biệt thiếp
南 園 綠 草 飛 蝴 蝶
Nam viên lục thảo phi hồ điệp
今 歲 何 時 妾 憶 君
Kim tuế hà thời thiếp ức quân 
西 山 白 雪 暗 秦 雲
Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân
玉 關 去 此 三 千 里
Ngọc quan khứ thử tam thiên lý
欲 寄 音 書 那 可 聞。
Dục ký âm thư na khả văn.

Dịch nghĩa:

Nhớ Biên Cương


Năm rồi ngay giờ này, chàng và thiếp rời xa nhau
Khi đó ở vườn nam, cỏ xanh biếc những cánh bướm vờn bay
Năm nay cũng vào lúc chia xa ấy thiếp nhớ tới chàng
Tuyết trắng phủ kín núi Tây. Trời Tần mây xàm xịt
Ngọc quan nơi chàng đến đó cách xa ba ngàn dặm
Muốn nhắn nhủ mấy lời, không biết chàng có nghe thấy chăng.

Dịch Thơ
                Nhớ Biên Cương

          Giờ này năm trước chia tay    
Vườn Nam cỏ biếc bướm bay thành đàn
        Năm nay thiếp lại nhớ chàng   
   Mây Tần xám xịt tuyết tràn núi tây   
           Ba ngàn dặm cách đó đây    
    Đôi lời gửi gắm có hay hỡi chàng.
                                         Quên Đi
***

                  Nhớ Biên Cương

              Vừa tròn năm đã biệt ly
Vườn Nam bướm lượn xanh rì cỏ hoang
         Năm này lại tưởng nhớ chàng
 Mây Tần tuyết trắng ngút ngàn non Tây
             Ba ngàn dặm cách xa đây
     Thư lời nhắn nhủ có hay chăng là
                                           Kim Phượng
***
               NƠI BIÊN ẢI

Chàng Thiếp xa, giờ này năm trước 
 Nơi vườn Nam cỏ biếc bướm bay 
   Thương chàng lại nhớ năm này
Núi Tần tuyết trắng phủ đầy trời tây 
     Ba ngàn dậm đó đây cách biệt
  Gởi đôi lời chàng biết hay chăng ?
                              songquang 
                               20250904
***
Đây là bài thất ngôn cổ thi của Thi Tiên Lý Bạch, làm vào năm Thiên Bảo thứ 2 đời Đường Huyền Tông. Bài thơ gồm có 6 câu 42 chữ, tả lại lòng tưởng nhớ của một cô phụ đất Tần (Tràng An) nhớ về vùng biên tái xa xôi, nơi mà người chinh phu chinh chiến lâu ngày vẫn chưa trở lại. Nhớ thương trong nỗi niềm tuyệt vọng vì cũng tuyệt luôn cả đường giao thông và thư tín !

思邊 TƯ BIÊN
去 年 何 時 君 別 妾 ? Khứ niên hà thời quân biệt thiếp ?
南 園 綠 草 飛 蝴 蝶. Nam viên lục thảo phi hồ điệp.
今 歲 何 時 妾 憶 君 ? Kim tuế hà thời thiếp ức quân ?
西 山 白 雪 暗 秦 雲. Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân.
玉 關 去 此 三 千 里, Ngọc quan khứ thử tam thiên lý,
欲 寄 音 書 那 可 聞。 Dục ký âm thư nả khả văn.
                        李白                                              Lý Bạch

* Chú thích :
- HÀ THỜI 何 時 là Nghi vấn tự, có nghĩa :Khi nào, Lúc nào ?...
- NAM VIÊN 南 園 là từ phiếm chỉ, chỉ chung về các khu vườn cỏ, vườn hoa...
- LỤC THẢO PHI HỒ ĐIỆP 綠 草 飛 蝴 蝶 là Bướm bay trên thảm cỏ xanh; ý chỉ "Mùa Xuân".
- TÂY SƠN 西 山 là Núi Tây, chỉ vùng cao nguyên Thanh Tạng của nước Thổ Phồn ngày xưa, với quanh năm tuyết phủ.
- TẦN VÂN 秦 雲 là Mây ở đất Tần, Tần là đất của vùng Thiểm Tây, nơi có kinh đô Tràng An, mà cũng là nơi của người chinh phụ đang ở.
- NGỌC QUAN 玉 關 là Ngọc Môn Quan, cửa ải thông về hướng Tây bắc nằm ở biên tái tỉnh Cam Túc, là cửa ải nối liền với vùng Tây vực.
- Câu cuối : DỤC KÝ ÂM THƯ 欲 寄 音 書 là Muốn gởi thư hay nhắn tin...NẢ KHẢ VĂN 那 可 聞 là Điều đó làm sao mà nghe thấy được !? (Là Không thể có được!).

* Nghĩa Bài Thơ :

                    NHỚ VỀ VÙNG BIÊN TÁI
Năm trước, lúc nào thì chàng rời xa thiếp ? Đó là lúc bướm trong vườn đang bay lượn trên thảm cỏ xanh ! (là mùa xuân).
Năm nay, lúc nào thì thiếp đang nhớ chàng đây ? Chính là lúc mùa đông, khi tuyết trắng ở các dãy núi tây đang che mờ cả mây của đất Tần (là đất Tràng An mà thiếp đang ở đây).
Từ đây đến Ngọc Môn Quan phải mất ba ngàn dặm đường, nên muốn nhắn tin hay gởi thư đều không thể được gì cả ! (Vì có ai đi đến đó đâu mà gửi thư hay nhắn tin ! Cho nên đành nhớ thương trong đau buồn tuyệt vọng mà thôi !).

* Diễn Nôm :

                TƯ BIÊN


Năm trước khi nào chàng biệt thiếp ?
Vườn nam cỏ biếc bướm vờn bay.
Năm nay lúc nào thiếp nhớ chàng ?
Núi Tây tuyết trắng mờ Tràng An.
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm,
Thư từ tin nhắn chẳng ai kham !

Lục bát :

        Chia tay năm trước tiễn chàng,
Xuân tươi cỏ biếc bướm vàng lượn bay.
          Năm nay đông đến nhớ ai...
   Đất Tần mây phủ núi Tây lạnh lùng.
    Ngọc Môn Quan cách nghìn trùng,
  Tin thư vắng bặt não nùng lòng đây !
                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
***
          Nhớ Biên Cương

Nhớ chăng, chàng hỡi, lúc chia tay
Vườn cỏ xanh rờn, bướm lượn bay
Nay thiếp nhớ chàng khi tuyết phủ
Chập chùng trắng xóa đỉnh non tây
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặ
Tin gởi cho chàng sao nhắn đây ?
          Phương Hà phỏng dịch

***
         NHỚ BIÊN CƯƠNG

1-

Năm ngoái khi nao mình giã biệt?
Vườn nam bướm lượn cỏ xanh biếc
Năm nay đâu lúc thiếp nhớ chàng?
Núi tây tuyết trắng, xám mây Tần
Ngọc quan nơi đó xa ngàn dặm
Muốn gởi thư nhà nhận được chăng?

2-
Mùa năm trước, khi nao giã biệt?
Xuân bướm bay vườn biếc lang thang
Mùa nay, lúc thiếp nhớ chàng?
Núi tây tuyết trắng, che ngang mây Tần
Ngọc quan muôn dặm tử phần*
Tâm thư muốn gởi, khó khăn thôi đành!
                                    Lộc Bắc
                                     Sept25
*tử phần: ý nói quê hương
***
       NHỚ BIÊN TÁI
1/
Lúc nào năm ngoái xa nhau
Vườn xanh cỏ bướm tươi màu lượn bay
Độ rày thiếp nhớ chàng đây
Trời Tây Tần Lĩnh phủ đầy tuyết sương
Môn Quan ba ngàn dặm đường
Thư từ tin nhắn vô phương nỗi lòng…!

2/
Bữa nay năm ngoái thiếp xa chàng
Cỏ biếc vườn Nam bướm lượn sang
Độ ấy bao năm mình có thấy
Trời Tây Tần lĩnh tuyết giăng ngang
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm
Tin nhắn thơ từ vẫn bặt tăm…!
                      Mai Xuân Thanh
     Silicone Valley September 05, 2025
***
          Nhớ Biên Cương

Chàng và thiếp chia tay năm trước
Nơi vườn Nam cỏ mượt bướm bay
Chạnh lòng thương thiếp nhớ năm này
Mây Tần xám non tây trắng tuyết
​D​ặ​m ba ngàn cách biệt Ngọc Quan
​M​ong lờ​i thư ​thấ​u đến ta​i chàng?
                             Kim Oanh
***

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

Điều nên làm ngay

  


                 

Trong một khoá học chuyên tu ngành tâm lý học, vị giáo sư ra đề bài về nhà: “Trong vòng một tuần, anh chị hãy đến gặp người mà mình quan tâm và nói với họ rằng anh chị yêu mến họ.  Đó phải là người mà trước đây, hoặc đã lâu anh chị không nói những lời như vậy.”

Đề bài xem ra đơn giản.  Thế nhưng, hầu hết cánh đàn ông trong lớp đều đã trên 30 tuổi và cảm thấy vô cùng khó khăn khi thể hiện đề bài này vì họ hiếm khi thể hiện tình cảm của mình với một ai đó.
Đầu giờ học tuần sau, vị giáo sư hỏi có ai muốn kể lại cho cả lớp nghe câu chuyện của mình hay không.  Dường như ông chờ đợi một phụ nữ xung phong trả lời.  Thế nhưng, một cánh tay nam giới đã giơ lên.  Anh ta trông có vẻ xúc động lắm:
“Cách đây 5 năm, giữa tôi và ba có một bất đồng sâu sắc, và từ đó đến nay vẫn chưa giải quyết được.  Tôi tránh gặp mặt ông ngoại trừ những trường hợp chẳng đặng đừng khi phải họp mặt gia đình.  Nhưng ngay cả những lúc ấy, chúng tôi cũng hầu như không nói với nhau một lời nào.  Vì vậy, tôi đã tự thuyết phục bản thân đến để xin lỗi và nói với ba rằng tôi rất thương ông ấy.
 
Quyết định ấy dường như đã làm giảm đi phần nào áp lực nặng nề trong lòng tôi.  Đêm hôm đó, tôi hầu như chẳng chợp mắt được.  Ngày hôm sau, tôi đến nhà ba má và bấm chuông, lòng thầm mong ba sẽ mở cửa cho tôi.  Tôi lo sợ rằng nếu má mở cửa thì dự định của tôi sẽ không thành, tôi sẽ bày tỏ với má thay vì với ba.  Nhưng may quá, ba tôi đã ra mở cửa.
Tôi bước vào và nói: “Con không làm mất thời gian của ba đâu, con đến chỉ để nói với ba rằng ba hãy tha lỗi cho con và con thương ba”.
 
Có một sự chuyển biến trên khuôn mặt ba tôi.  Gương mặt ông dãn ra, những nếp nhăn dường như biến mất và ông bắt đầu khóc.  Ông bước đến, ôm chầm lấy tôi và nói:  “Ba cũng thương con lắm, con trai ạ.  Nhưng ba chưa biết làm thế nào để có thể nói với con điều đó”.
Đó là thời khắc quý báu nhất trong đời tôi.  Hai ngày sau, ba tôi đột ngột bị một cơn đau tim và vẫn còn nằm trong bệnh viện cho đến bây giờ.  "Nếu như tôi trì hoãn bộc lộ với bố, có lẽ tôi không bao giờ còn có cơ hội nào nữa”.

                                                     Theo Dennis E. Mannering
 
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm