Bá Đa Lộc
Hoàn Cảnh Nào Đã Đưa Đẩy Nguyễn Ánh Gặp Bá Đa Lộc? 
Đối với thế giới và dân Pháp, có lẽ cái tên Bá Đa Lộc đã chìm sâu vào 
quên lãng, nhưng đối với lịch sử và nhân dân Việt Nam, cái tên ấy nó vẫn
 còn in đậm trong tâm tưởng như một vết hằn đau đớn, một vết sẹo chưa 
lành, hay một vết thương vẫn còn rỉ máu... vì chính ông đã khiến cho cục
 diện Việt Nam thay đổi hoàn toàn. Thật tình mà nói, nếu thế giới nầy 
chưa từng có tên Bá Đa Lộc, có lẽ cục diện Việt Nam sẽ không như ngày 
hôm nay. Như trên đã nói, trong cuộc chinh chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn 
Ánh, phải thành thật mà nói, chưa một lần nào Nguyễn Ánh có thể đương 
đầu trực diện với Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, một mặt vì thù nghĩa quân Tây 
Sơn đã giết hại dòng họ của mình, mặt khác vì lúc nào cũng ôm mộng lấy 
lại cho bằng được chiếc ngai vàng, nên Nguyễn Ánh không từ nan bất cứ 
chuyện gì, ngay cả chuyện rước voi về dày mả tổ. Cũng chính vì vậy mà 
Nguyễn Ánh đã đặt quyền lợi đất nước sau chuyện trả thù và khôi phục lại
 chiếc ngai vàng cho dòng họ. Ông luôn nghĩ tới chuyện cầu cứu với ngoại
 quốc, hết Xiêm, tới Pháp, rồi tới Bồ Đào Nha và Hòa Lan. Ngay cả cái 
việc giao đứa con trai mới 4 tuổi của mình cho Bá Đa Lộc để làm con tin,
 Nguyễn Ánh cũng không từ, thì thử hỏi chuyện gì mà Nguyễn Ánh không làm
 được? Tệ hại hơn nữa, chính Nguyễn Ánh đã giao trọn quyền cho Bá Đa Lộc
 khi thương thuyết với chánh phủ Pháp trong việc ký kết hiệp ước 
Versaille vào năm 1787. Trong hiệp ước nầy, Nguyễn Ánh sẵn sàng dâng đất
 dâng biển cho Pháp, nhất là việc nhượng đứt cho Pháp phố cảng Hội An và
 quần đảo Côn Sơn, để được người Pháp giúp ông binh lính, vũ khí và quân
 trang quân dụng trong chiến tranh đối đầu với nghĩa quân Tây Sơn. Trong
 khi đó, về phía giám mục Bá Đa Lộc, động lực nào đã xui khiến vị giám 
mục nầy lại trở nên quá gắn bó với triều đình xứ Đàng Trong như vậy? 
Tưởng cũng nên nhắc lại, vào những thế kỷ thứ XV, XVI, XVII, XVIII, và 
XIX, Giáo Hội La Mã đã tung ra các đoàn truyền giáo Tây phương viễn du 
khắp nơi trên hoàn vũ với mục đích duy nhất là đem giáo lý đạo Ki Tô 
giáo hóa những người mà họ cho là hãy còn man di mọi rợ. Qua những đoàn 
truyền giáo nầy, họ muốn Ki Tô hóa toàn cầu, và sự xuất hiện của giám 
mục Bá Đa Lộc tại xứ Đàng Trong cũng nằm trong chương trình Ki Tô hóa 
toàn cầu nầy. Theo Việt Nam Giáo Sử của linh mục Phan Phát Huờn, năm 
1774, Bá Đa Lộc được tấn phong Giám mục tại Madras, Ấn Độ. Đến năm 1775,
 Tổng trấn Mạc Thiên Tứ mời ông về Hà Tiên (?) và nhường cho ông một khu
 đất khá rộng gần thành phố để có thể tiện việc truyền giáo. Các giáo 
hữu tụ họp ở đây rất đông đảo, vì giặc giã đói khát họ đã từ khắp các 
tỉnh Nam Việt đến Hà Tiên tỵ nạn. Các thừa sai ước lượng số tỵ nạn lên 
đến ngàn người. Bá Đa Lộc lập họ đạo Pigneau ở Hà Tiên. Chính lúc nầy 
ông gặp Nguyễn Ánh và đã cho Nguyễn Ánh trốn tại nhà. Sau một tháng trú 
ngụ trong nhà của Bá Đa Lộc, 
Nguyễn Ánh đem mẹ và những người nghĩa thiết trốn trên một cù lao hiu 
quạnh ở vịnh Thái Lan(12). Có lẽ từ đó Nguyễn Ánh đã để ý đến Bá Đa Lộc,
 vì sau những lúc đàm luận với vị giám mục nầy Nguyễn Ánh nghĩ rằng 
người nầy có thể là nhịp cầu nối liền Nguyễn Ánh với Pháp hoàng trong 
việc cầu viện sự giúp đỡ của Pháp về mặt quân sự để đánh lại với nghĩa 
binh Tây Sơn. 
Tháng 9 năm 1777, quân Tây Sơn bắt sống Thái Thượng Vương và Tân Chính 
Vương tại vùng Ba Vác và cả hai đều bị xử tử tại thành Gia Định vào 
tháng 10 năm 1777. Năm 1780, sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân Tây Sơn về 
Qui Nhơn, Nguyễn Ánh lại quay trở về tái chiếm Gia Định và cho lập ra 
Kinh Gia Định hay Tân Triều. Bá Đa Lộc chính là linh hồn của cuộc chiến 
đấu chống Tây Sơn của Nguyễn Ánh, vì ông vừa là quân sư, vừa là tham mưu
 hành quân, mà cũng vừa là người đã thảo ra những sách lược ngoại giao 
của ‘Kinh Gia Định’ trong khi Nguyễn Ánh còn bôn tẩu tại miền Nam. Và 
chính con người nầy đã giúp cho Nguyễn Ánh lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn 
về sau nầy. Kỳ thật, dầu trước đó Nguyễn Ánh đã có liên lạc với Bá Đa 
Lộc, nhưng sự thân thiện giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc chỉ thật sự xảy ra
 sau khi Nguyễn Ánh tái chiếm thành Gia Định vào năm 1780 và cho phép 
ông này hoạt động truyền giáo tự do tại các vùng do Nguyễn Ánh kiểm 
soát. Đến tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào đánh lấy lại 
thành Gia Định, thì Nguyễn Ánh phải bỏ trốn ra Phú Quốc, còn Bá Đa Lộc 
thì trốn sang Cao Miên. Đến tháng 10 năm 1782, sau khi Nguyễn Huệ rút 
quân về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc lại kéo quân về định chiếm 
thành Gia Định, nhưng không xong, nên sau đó, Bá Đa Lộc về vùng Mặc Bắc,
 thuộc huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh, để xây dựng giáo xứ Mặc Bắc. Đến 
đầu năm Quí Mão, 1783, Châu văn Tiếp mang quân từ Bình Thuận vào giúp 
Nguyễn Ánh đánh chiếm Gia Định, nhưng một tháng sau đó, vào tháng 2 năm 
1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại mang quân vào tái chiếm thành Gia 
Định, Nguyễn Ánh lại phải bỏ chạy ra Phú Quốc lần nữa. Lần nầy quân Tây 
Sơn ở lại lâu hơn để truy kích Nguyễn Ánh. Trong suốt khoảng thời gian 
từ năm 1771 đến năm 1799, Nguyễn Ánh đã từng cầu cứu với người Bồ Đào 
Nha và Hòa Lan, nhờ họ giúp đỡ về vũ khí và nhân lực nhằm lấy lại chiếc 
ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, nhưng giám mục Bá Đa Lộc đã tìm cách ngăn 
chặn và lôi kéo Nguyễn Ánh về phía nước Pháp, vẫn với hy vọng Ki Tô hóa 
ông chúa nhà Nguyễn nầy cũng như toàn bộ lãnh địa xứ Đàng Trong, nên ông
 đã không ngần ngại làm bất cứ điều gì để đạt được mục đích của mình. Về
 phía Nguyễn Ánh, khi bị quân Tây Sơn truy đuổi gắt gao trong khu vực 
các đảo quanh Phú Quốc vào cuối tháng 2 năm 1783, ông đã cho người đưa 
hoàng tử Cảnh(13) đi theo giám mục Bá Đa Lộc làm con tin để xin cầu viện
 với người Pháp. Trong vấn đề cầu viện với triều đình bên Pháp, Nguyễn 
Ánh chẳng những cử Bá Đa Lộc làm sứ giả của mình qua Pháp cầu viện, mà 
ông còn giao cho Bá Đa Lộc con trai của mình, và ấn tín của vương triều 
nhà Nguyễn, đồng thời ông còn cho Phó vệ úy Phạm văn Nhơn và Cai Cơ 
Nguyễn văn Liêm tháp tùng theo Bá Đa Lộc và Đông cung Cảnh. Thấy như thế
 cũng đủ biết mộng bá đồ vương của Nguyễn Ánh được đặt lên trên bất cứ 
thứ gì. 
Vào tháng 2 năm 1785, Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pondichéry, thuộc
 xứ Bengale, Ấn Độ, nhưng phải đợi đến năm 1786 ông mới bắt đầu đi Pháp 
được. Tháng 2 năm 1787, Bá Đa Lộc về đến Pháp, ông này ra sức tuyên 
truyền với triều đình Pháp về mối lợi tại Việt Nam khi nắm được con cờ 
Nguyễn Ánh trong tay. Sau đó, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh được vua Louis 
XVI tiếp kiến vào ngày 6 tháng 5 năm 1787. Trong buổi hội kiến nầy, Bá 
Đa Lộc đã báo cáo lên Pháp hoàng về những thuận lợi khi giúp Nguyễn Ánh 
lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, nhưng chính vua Louis XVI và
 hoàng hậu Marie-Antoinette cũng đang bị rắc rối với dân chúng Pháp, nên
 nhà vua và triều thần đã không chấp thuận cuộc viễn chinh nầy. Tuy 
nhiên, Pháp Hoàng lại đồng ý cho một vị Bộ trưởng của ông là Công tước 
Montmorin ký với Bá Đa Lộc một hiệp ước tại Versaille vào ngày 28 tháng 
11 năm 1787. Trong hiệp ước nầy, Bá Đa Lộc được toàn quyền quyết định 
mọi điều khoản thay cho Nguyễn Ánh. Hiệp ước gồm 10 khoản, trong đó Pháp
 sẽ gởi quân sang giúp Nguyễn Ánh để khôi phục lại chiếc ngai vàng cho 
nhà Nguyễn, gồm 4 tàu chiến, 1.200 quân, 200 khẩu pháo cùng trợ giúp vũ 
khí, quân trang và quân phí. Để đổi lại Nguyễn Ánh sẽ nhường đứt cho 
Pháp chủ quyền và sở hữu hải cảng Hội An và đảo Côn Lôn, người Pháp được
 độc quyền về thương mại trên toàn cõi Việt Nam, và hải quân Pháp cũng 
được phép sử dụng hải phận và các cảng khác của Việt Nam khi được hai 
bên thỏa thuận. Hiệp ước cũng cho phép các giáo sĩ Tây phương hoàn toàn 
tư do đi lại và truyền giáo trên khắp các miền đất nước Việt Nam. Bản 
hiệp ước được ký tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm 1787 thể hiện rõ 
ràng ý đồ bao vây và xâm lược Việt Nam của Pháp ngay hồi hậu bán thế kỷ 
thứ XVIII. 
Trong khi chờ đợi sự trợ giúp của quân Pháp theo như hiệp ước 
Versailles, Nguyễn Ánh vẫn sống lưu vong trên đất Xiêm và mặt khác cho 
người về Gia Định chiêu mộ quân sĩ để chuẩn bị cuộc chiến tranh lâu dài 
với Tây Sơn. Ngày 2 tháng 12 năm 1787, vua Louis XVI đã gửi cho viên 
tổng chỉ huy quân sự Pháp tại Ấn Độ, kiêm Toàn quyền Pháp tại Pondichéry
 là bá tước De Conway một bảng ghi nhớ mô tả tình trạng nguy ngập của 
Nguyễn Ánh và giao phó cho De Conway trách nhiệm thi hành hiệp ước 
Versaille. Mặc dầu theo ước tính của Bá Đa Lộc là chỉ tốn khoảng 100.000
 quan Pháp cho kinh phí chiến tranh với Tây Sơn, nhưng sau khi ký kết 
hiệp ước Versailles với Bá Đa Lộc, cũng cùng ngày 2 tháng 12 năm 1787, 
Bộ trưởng Montmorin đã gửi cho viên Toàn Quyền Pháp ở Pondichéry một lá 
thư với chỉ thị mật về tình trạng kiệt quệ tài chánh của triều đình Pháp
 lúc bấy giờ. Bộ trưởng Montmorin giao cho De Conway tùy nghi định đoạt 
trong việc thi hành hiệp ước Versaille. Tuy nhiên, theo Montmorin, nếu 
muốn thi hành hiệp ước, Pháp phải thiết lập một ngân quỹ đặc biệt lên 
tới 200 ngàn quan Pháp cho chiến tranh của Nguyễn Ánh với Tây Sơn. Đây 
là việc mà De Conway chống đối quyết liệt. Trong khi chờ đợi sự quyết 
định của bá tước De Conway, Bá Đa Lộc bèn tự mình đứng ra vận động một 
số tư bản Pháp cũng như quyên góp từ các giáo xứ và thương nhân giàu có 
một số tiền khoảng 15.000 quan Pháp thời đó, và ông đã đứng ra mua vũ 
khí, súng ống, đạn dược, chiến thuyền và quân trang quân dụng cho quân 
đội Nguyễn Ánh. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc và hoàng tử 
Cảnh lên đường trở lại Việt Nam trên chiến thuyền La Dryade. Tháng 9 năm
 1788, tàu Dryade chở 1000 khẩu súng đến Côn Lôn. Cuối năm 1788, tàu 
Garonne chở súng đại bác và nhiều quân trang quân dụng đến Gia Định. 
Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn chiêu mộ được một số người Pháp sang gia nhập 
quân đội của Nguyễn Ánh. Trong số đó có các ông Chaigneau và Vannier mà 
sau này được phong quan tước trong triều Gia Long. Theo ông Taboulet 
trong cuộc nói chuyện với Vannier thì vào năm 1789, quân đội của Nguyễn 
Ánh đã có 14 sĩ quan và 80 binh sĩ người Pháp. Trong khoảng thời gian 
nầy Bá Đa Lộc thường qua lại giữa xứ Đàng Trong và Pondichéry nhằm đốc 
thúc quyết định của bá tước De Conway, nhưng mối bất đồng giữa Bá Đa Lộc
 và De Conway ngày một gay gắt hơn. Sau thời gian chờ đợi sự quyết định 
của bá tước De Conway mà không thấy có kết quả, ngày 14 tháng 6 năm 
1788, Bá Đa Lộc bèn viết thư cho bá tước De Conway chỉ xin ông nầy trợ 
giúp chiếc tàu La Dryade mà thôi, nhưng đã bị De Conway thẳng thừng từ 
chối. Sau đó, ngày 15 tháng 6 năm 1789, Bá Đa Lộc lên tàu La Méduse cùng
 với bốn chiếc tàu khác trở lại xứ Đàng Trong. Khi đến nơi, một số sĩ 
quan trên tàu đã bỏ tàu tình nguyện ở lại giúp Nguyễn Ánh, trong đó có 
Jean Phillipe Vannier (Nguyễn văn Chấn), Olivier de Puymanel, Dayot, Le 
Brun, De ForVant, vân vân. Đây là những người được Bá Đa Lộc thuyết phục
 ở lại giúp cho Nguyễn Ánh sau khi hiệp ước Versaille không thi hành 
được. Sau đó, ngày 14 tháng 7, năm 1789, cách mạng Pháp bùng nổ, kéo 
theo bi kịch của nhiều người, trong đó có hoàng đế Louis XVI và hoàng 
hậu Marie Antoinette, và chánh phủ mới tại Pháp đã quyết định không thi 
hành hiệp ước này. 
Nói về sự cầu cứu với người Hòa Lan của Nguyễn Ánh, thì Bá Đa Lộc đã 
viết lại rất rõ trong một bức thư gởi về Paris đề ngày 6 tháng 7 năm 
1785 như sau: “Trước khi ra khỏi vịnh Thái Lan, tôi gặp vị vua đang chạy
 trốn mà tôi đã rời xa từ một năm rưỡi nay. Sau đủ chuyện với quân Thái 
Lan, ông quyết định đi sang với người Hà Lan đang hứa giúp ông. Nếu tôi 
không tới đó đúng lúc để ngăn chặn, thì cũng có lẽ ông đã ở Batavia.” Về
 phía người Bồ Đào Nha, Nguyễn Ánh đã ký với họ một thỏa ước ở Băng Cốc 
vào ngày 5 tháng 12 năm 1786, nhưng sau đó không được thi hành. Đến cuối
 năm 1788, trong khi quân Tây Sơn đang chuẩn bị kéo vào Nam tiêu diệt 
quân đội ngoại nhập của Nguyễn Ánh mới được Bá Đa Lộc thành lập với 
những vũ khí tối tân(14), nhưng Nguyễn Huệ lại được tin cấp báo là Lê 
Chiêu Thống đã chạy sang Tàu cầu viện với nhà Thanh, và vua Càng Long 
đang cho đại quân tiến vào Thăng Long. Thế là Nguyễn Huệ phải dồn hết nỗ
 lực để dẹp giặc phương Bắc. Chỉ trong vòng 6 ngày đầu xuân 1789, quân 
Tây Sơn đã đánh tan gần 30 vạn quân Thanh và tái chiếm Thăng Long. Sau 
khi dẹp tan giặc Thanh ở phương Bắc, vì không muốn nhân dân tiếp tục đồ 
thán vì các cuộc chiến tranh nên Nguyễn Huệ không muốn tiếp tục đánh vào
 Gia Định. Trong khi đó, Nguyễn Ánh và tàn quân của ông co cụm lại để 
đánh chiếm Gia Định vào năm 1788, và ngày 24 tháng 7 năm 1789, đoàn 
chiến thuyền Méduse của Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh cập bến Vũng Tàu với 
rất nhiều vũ khí và đạn dược, cùng 20 sĩ quan và 300 binh sĩ trong quân 
đội Pháp sẽ phục vụ trong quân đội của Nguyễn Ánh(15). Trong khi Nguyễn 
Ánh đang củng cố quân sự tại Kinh Gia Định thì Bá Đa Lộc cũng lập Trung 
Tâm Giáo Phận xứ Đàng Trong tại Lái Thiêu, nhưng đến tháng 6 năm 1792, 
ông ta cho di chuyển trung tâm nầy ra Kinh Gia Định, kinh đô của Nguyễn 
Ánh thời bấy giờ. Nguyễn Ánh ban cho Bá Đa Lộc một đội ngự lâm quân gồm 
200 người, lúc đó Bá Đa Lộc đang đảm nhiệm chức vụ Đặc Ủy viên của vua 
Pháp, Nguyễn Ánh lại phong cho Bá Đa Lộc làm cố vấn chiến tranh kiêm 
ngoại giao cho Nguyễn Ánh. Đến tháng 9 năm 1792, vua Quang Trung phát 
động chiến dịch ‘Nam Tiến’, nhưng vận nước đảo điên khiến cho vị hoàng 
đế bách chiến bách thắng nầy yểu mệnh, khiến cho chẳng những kế hoạch 
‘Nam Tiến’ không bao giờ trở thành hiện thực, mà những ước mơ cải cách 
đất nước của vua Quang Trung cũng không được thực hiện. Tưởng cũng nên 
nhắc lại, ngay khi vừa mới lên ngôi, ngoài việc chiêu hiền đãi sĩ, vua 
Quang Trung còn chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế, và cương quyết 
không ‘bế quan tỏa cảng’; tuy nhiên, chỉ tiếc rằng hoàng đế Quang 
Trung băng hà khi chưa thực hiện được ước mơ làm cho dân giàu nước mạnh 
của mình(16). Vua Quang Trung băng hà vào ngày 15 tháng 9 năm 1792. Kể 
từ giây phút đó, coi như thế cờ Việt Nam đã nghiên hẳn về phía Nguyễn 
Ánh và Bá Đa Lộc. Khi Bá Đa Lộc chết vào năm 1799, chính Nguyễn Ánh đã 
chủ tọa đọc điếu văn, và chính Nguyễn Ánh đã cho xây dựng một lăng mộ 
thật nguy nga trong khu vực Chí Hòa, thuộc tỉnh Gia Định, cách Kinh Gia 
Định thời bấy giờ khoảng 3 cây số, chứ không phải là vị trí của ngôi mộ 
‘Lăng Cha Cả’ mà chúng ta thấy sau nầy. 
Tại Sao Nhân Dân Nam Kỳ Không Hỗ Trợ Phong Trào Tây Sơn? 
Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng chỉ trong khoảng thời gian ngắn 
ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước. Tuy 
nhiên, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước 
Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Thêm vào đó, 
vận nước đã khiến xui cho vua Quang Trung băng hà khi ngài vừa tròn 40 
tuổi, cái tuổi hãy còn quá trẻ cho một đời người. Bên cạnh đó, những khó
 khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là 
phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên 
ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt 
quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ 
hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một 
số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là
 sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt 
những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như 
vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp 
phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một 
triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn 
lật đổ. 
Tưởng cũng nên nhắc lại một nguyên nhân khác đã góp phần không nhỏ trong
 việc sĩ phu xứ Nam Kỳ không hỗ trợ cho phong trào Tây Sơn, đó là tâm 
trạng ‘ăn trái nhớ kẻ trồng cây’ của người dân Nam Kỳ. Đối với nhân dân 
Việt Nam nói chung, và nói riêng với nhân dân miền Nam, không ai trong 
chúng ta có thể phủ nhận được công lao quá lớn của các chúa Nguyễn trong
 công cuộc mở cõi về phương Nam. Đa số những người dân miền Nam đều là 
những lưu dân nghèo khổ từ các vùng Thuận Hóa và Ngũ Quảng, bỏ xứ xuôi 
Nam tìm sinh lộ. Các chúa tiền triều nhà Nguyễn đã khéo léo, đã dày công
 mở cõi, cũng như đưa ra những chánh sách dễ dãi khiến cho họ được an cư
 lạc nghiệp. Chính vì lý do đó nên khi con cháu của các chúa lâm vào thế
 cùng sức cạn, bị Tây Sơn truy đuổi, phải trốn chạy vào miền Nam, không 
có người con dân miền Nam nào nỡ đành ngoảnh mặt làm ngơ với Nguyễn Ánh.
 Ngay cả các sĩ phu miền Nam, dầu họ biết triều đình chúa Nguyễn thời 
lộng thần Trương Phúc Loan là một triều đình thối nát, mặc dầu họ biết 
Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa vì chính nghĩa, vì lợi ích cho cả dân tộc, 
nhưng họ cũng không theo, mà ngược lại lúc nào họ cũng một lòng hỗ trợ 
Nguyễn Ánh. Những người Minh Hương cũng cùng có một tâm trạng với nhân 
dân miền Nam, tổ tiên họ đã mang ơn các chúa, nên tâm trạng của họ là 
phải ‘ăn trái nhớ kẻ trồng cây’. Chính vì thế mà họ không hỗ trợ Tây 
Sơn. Một lý do khác nữa khiến cho người Hoa tại miền Nam chẳng những 
không theo mà còn căm ghét Tây Sơn, đó là biến cố ‘Cù Lao Phố’ năm 
1776(17). 
Tại Sao Quân Tây Sơn Không Quyết Liệt Đánh Và Giữ Lấy Đất Nam Kỳ? 
Không phải Tây Sơn không quyết liệt trong việc đánh chiếm và giữ lấy đất
 Nam Kỳ, nhưng nhiều lý do đã khiến cho Tây Sơn cứ phải vào đánh Gia 
Định; đánh xong rồi lại phải rút về Qui Nhơn. Sau khi Tây Sơn rút quân 
về Qui Nhơn, thì Nguyễn Ánh lại kéo quân về tái chiếm Gia Định, rồi Tây 
Sơn vào đánh, rồi rút, rồi đánh... cứ thế mà Tây Sơn và Nguyễn Ánh phải 
giằng co với nhau trong xứ Gia Định đến năm lần, cho đến khi Nguyễn Huệ 
phải rút quân về chuẩn bị đánh quân Thanh vào năm 1789. Phải thành thật 
mà nói, phong trào Tây Sơn khởi đi từ Qui Nhơn trong lúc triều đình nhà 
Nguyễn xứ Đàng Trong đang trong tình trạng thối nát, lớp thì tham quan ô
 lại, lớp thì lộng thần Trương Phúc Loan nắm giữ hết mọi quyền bính 
trong tay. Chính vì thế mà khi Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa, ban đầu có 
rất nhiều tướng tài về theo. Đến khi quân Tây Sơn kéo ra xứ Bắc Hà, họ 
lấy danh nghĩa ‘Phù Lê Diệt Trịnh’, nên sĩ phu Bắc Hà dầu không theo 
cũng không chống đối một cách quyết liệt. Chính vì thế mà quân Tây Sơn 
có chánh nghĩa rõ ràng tại xứ Bắc Hà, và họ đã diệt nhà Trịnh không mấy 
khó khăn. Đến khi họ kéo quân vào Nam Kỳ đánh triều đình xứ Đàng Trong, 
đối với nhân dân miền Nam, ngoài việc đứng lên diệt lộng thần Trương 
Phúc Loan, phong trào Tây Sơn không tìm ra được một lý do nào khác có 
tánh thuyết phục được nhân dân miền Nam. Chính vì vậy mà sau khi Tây Sơn
 đã diệt xong được Trương Phúc Loan, người dân miền Nam coi như Tây Sơn 
đã làm xong bổn phận của ‘con dân’. Đối với họ, Tây Sơn không còn lý do 
chính đáng để tiếp tục đánh phá triều 
đình nhà Nguyễn nữa. Riêng việc tôn phù chính thống đối với dòng họ Nguyễn trong 
Nam, ban đầu Tây Sơn cũng lấy chiêu bài tôn phù Hoàng Tôn Dương, nhưng 
sau khi quân Tây Sơn tìm bắt Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương(18), 
và giết đi, thì ngay lập tức tướng Châu văn Tiếp rời bỏ hàng ngũ Tây Sơn
 để về với Nguyễn Ánh. Đó là những trở ngại lớn cho quân Tây Sơn ở miền 
đất Nam Kỳ 
Thêm vào đó, đối với Tây Sơn thời đó, như trên đã nói, vì phong trào Tây
 Sơn khởi lên từ một địa phương nhỏ tại vùng Qui Nhơn, nên rất có thể họ
 không xem vùng đất Nam Kỳ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, vì ý 
thức quốc gia đối với những người trong phong trào không vượt lên trên 
được tâm lý địa phương. Chính vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cũng chỉ an phận 
với vùng Qui Nhơn, nên luôn tìm mọi cách củng cố triều đình Qui Nhơn. 
Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rõ ràng mỗi khi phải kéo quân vào 
Nam, các tướng lãnh Tây Sơn chỉ xem đó như là những cuộc chinh phạt vì 
nhu cầu quân sự mà thôi. Với họ là phải đánh nhanh và đánh mạnh, lấy 
được thứ gì cho việc xây dựng quân đội và kinh thành (Qui Nhơn) thì lấy,
 xong rồi rút về Qui Nhơn, chứ không muốn ở lại vùng đất ấy. Chính vì 
thế mà mỗi lần Tây Sơn kéo quân vào Nam, họ đánh như vũ bão, bách chiến 
bách thắng, nhưng họ quên rằng trong chiến tranh, hạ được thành không 
hẳn là thắng, mà phải giữ cho được thành mới gọi là thắng. Việc nầy Tây 
Sơn không làm được ở miền đất Nam Kỳ nếu không có hoàng đế Quang Trung 
Nguyễn Huệ. Mà thật vậy, sau khi Nguyễn Huệ mất, chẳng những Tây Sơn 
không chiếm được Nam Kỳ, mà lần lượt những phần đất miền Trung, miền 
Bắc, và ngay cả Phú Xuân cũng phải rơi vào tay Nguyễn Ánh, và cuối cùng,
 ấu chúa Tây Sơn phải bị xử trảm dưới bàn tay của Nguyễn Ánh. 
Bên cạnh đó, trong một đất nước quân chủ phong kiến như Việt Nam, thì 
việc tạo dựng sự chính thống cho một vương triều vẫn là ưu tư hàng đầu 
cho những người khởi nghiệp. Riêng đối với triều đại Tây Sơn, dầu đã 
chiến thắng gần 30 vạn quân Thanh vào năm 1789, nghĩa quân Tây Sơn vẫn 
chưa tìm ra được một khẩu hiệu nào thích ứng cho sự khởi nghiệp chính 
đáng của triều đại, nhằm khả dĩ có thể đối đầu với một đối thủ như 
Nguyễn Ánh, một nhân vật vốn đã có truyền thống về sự khởi nghiệp của 
dòng họ mình gần 200 năm. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất của 
Tây Sơn mỗi lần cất quân vào đánh Gia Định. Tây Sơn phải dựa vào sự sai 
lầm nghiêm trọng của Nguyễn Ánh mới có thể bố cáo với thần dân Nam Kỳ về
 sự cất quân của mình một cách có chính nghĩa, điển hình là lần Nguyễn 
Ánh cầu viện quân Xiêm La mang quân sang dày xéo bờ cõi Việt Nam, lần đó
 Nguyễn Huệ đã mạnh dạn cáo tri với thần dân Nam Kỳ về sự cất quân đánh 
đuổi quân xâm lược của mình. Ngoài lần đó ra, dưới mắt thần dân Nam Kỳ, 
họ luôn xem Tây Sơn là một phong trào địa phương tại vùng Qui Nhơn, chỉ 
khởi lên nhằm soán đoạt ngôi vị của dòng họ Nguyễn, một dòng họ mà họ 
xem là chính thống từ gần 2 thế kỷ nay. 
Còn một lý do phát khởi từ sự chia rẽ trong nội bộ Tây Sơn cũng đóng một
 vai trò rất quan trọng trong việc Tây Sơn không quyết liệt đánh và giữ 
lấy đất Nam Kỳ. Sau năm 1785, Nguyễn Huệ vừa đánh chiếm Phú Xuân, theo 
lời cố vấn của Nguyễn Hữu Chỉnh, đem quân ra đánh Bắc Hà. Nguyễn Nhạc vì
 sợ Nguyễn Huệ chuyên quyền, nên vội vã mang quân ra Bắc và ép buộc 
Nguyễn Huệ phải rút quân về Phú Xuân. Từ đó đã có mâu thuẫn trong nội bộ
 giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, đến nỗi Nguyễn Huệ phải mang
 quân vào vây thành Qui Nhơn, nhưng rồi họ cũng tạm thời giảng hòa được 
với nhau. Tuy nhiên, kể từ đó, quyền bính đã được phân định rõ ràng: 
Nguyễn Nhạc làm Trung Ương Hoàng Đế, cai quản từ Quảng Ngãi đến Bình 
Thuận; Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cai quản từ Quảng Nam ra Bắc; và Đông 
Định Vương Nguyễn Lữ cai quản từ Bình Thuận vào Hà Tiên. Chính sự phân 
chia quyền hành nầy đã gây ra một lỗ hỏng quân sự lớn tại miền Nam, vì 
Đông Định Vương Nguyễn Lữ chưa bao giờ là đối thủ của Nguyễn Ánh, và có 
lẽ trong đời của Nguyễn Ánh, ông ta chỉ khiếp sợ mỗi một mình Nguyễn Huệ
 mà thôi. Cũng chính sự phân chia quyền hành nầy đã đẩy Nguyễn Huệ đi xa
 cái vùng cần sự có mặt của Nguyễn Huệ nhiều nhất, đó là vùng đất phía 
Nam, nơi có sự cát cứ của Nguyễn Ánh. Và có lẽ cũng chính sự phân chia 
quyền hành nầy đã cô lập các lực lượng thiện chiến của Tây Sơn và hậu 
quả cuối cùng là sự sụp đổ của Tây Sơn vào năm 1802. 
Nguyễn Ánh Cầu Viện Xiêm La Về Đánh Đất Nam Kỳ: 
Thấy binh lực của Nguyễn Ánh đã hoàn toàn kiệt quệ nên Nguyễn Lữ và 
Nguyễn Huệ rút quân về Qui Nhơn, để phò mã Trương văn Đa ở lại giữ thành
 Gia Định. Trong khi Nguyễn Ánh đang lẩn trốn trên đảo Thổ Châu thì tàn 
quân của ông ta vẫn tiếp tục hoạt động tại vùng Gia Định. Đầu năm Giáp 
Thìn 1784, phò mã Trương văn Đa mở cuộc hành quân tảo thanh tàn quân 
Nguyễn Ánh tại vùng Tân Hòa (Gia Định), các tướng của Nguyễn Ánh bị đại 
bại nên phải trốn sang Xiêm bằng đường bộ. Trong khi đó thì Châu văn 
Tiếp đã có mặt tại Xiêm để cầu cứu đến sự trợ giúp của Xiêm vương. Vua 
Rama I đồng ý gửi quân sang đánh Tây Sơn với điều kiện Nguyễn Ánh phải 
đích thân qua chầu vua Xiêm. Vừa được chiếu chỉ của Xiêm vương, Tiếp 
băng đường bộ về Việt Nam để báo tin cho Nguyễn Ánh. Đầu năm 1784, vua 
Xiêm lại sai tướng Thát Sỉ Đa đem thủy quân đến Hà Tiên, lấy cớ là để 
đưa Nguyễn Ánh sang Xiêm, nhưng thực chất là thị uy cái vương triều thối
 nát của Nguyễn Ánh, buộc Nguyễn Ánh phải sang chầu vua Xiêm như một 
nước chư hầu. Thấy không thể đương cự được với Tây Sơn, nên tháng 2 năm 
1784, Nguyễn Ánh đã đích thân trốn sang Xiêm để cầu viện với Xiêm vương,
 nhưng thực chất là để chầu vua Xiêm La như một nước chư hầu, mong được 
Xiêm vương chấp thuận đưa quân sang đánh Việt Nam. Tháng 6 năm 1784, 
Xiêm vương sai 2 tướng Chiêu Sương và Chiêu Tăng(19) đem 20.000 thủy 
binh với 300 chiến thuyền, cùng với 30.000 lính bộ binh sang đánh Tây 
Sơn với danh nghĩa là giúp Nguyễn Ánh, thực chất thời đó lúc nào Xiêm La
 cũng mong thôn tính trọn vẹn vùng đất Nam Kỳ mầu mỡ nầy. Nguyễn Ánh cử 
Châu văn Tiếp làm Bình Tây Đại Đô Đốc, chỉ huy các đạo quân của Nguyễn 
Ánh. Tháng 7 năm 1784, quân Xiêm tiến chiếm Rạch Giá, Trấn Giang, Ba 
Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Tuy nhiên, vừa đến Mân Thít thì Châu văn Tiếp tử 
trận. Quân Xiêm đến Việt Nam với thái độ trịch thượng của một mẫu quốc, 
chúng thẳng tay cướp bóc và tàn sát dân lành. Phò mã Trương văn Đa biết 
thế mình yếu hơn, không thể lấy 1 chọi 5, nên một mặt ông đã cho lui 
quân về Gia Định để bảo toàn lực lượng, một mặt cấp báo về Qui Nhơn. 
Tháng 12 năm 1784, Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ đem quân vào Nam 
cứu ứng. Vào đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785, dù quân số ít hơn một phần
 tư quân số của Xiêm La và Nguyễn Ánh, nhưng vị tướng bách chiến bách 
thắng này đã đánh phủ đầu quân Xiêm một trận để đời tại vùng Rạch Gầm 
Xoài Mút, thuộc tỉnh Mỹ Tho bây giờ. Trong trận này, quân Xiêm chết trên
 một vạn rưỡi. Chiêu Sương và Chiêu Tăng phải thu góp tàn quân chạy theo
 đường bộ về Xiêm La, còn Nguyễn Ánh phải trốn chạy về vùng Trấn Giang 
(vùng Cần Thơ ngày nay). Trận chiến thắng vẻ vang của quân Tây Sơn tại 
Rạch Gầm Xoài Mút như thế ấy mà sử thần triều Nguyễn lại chép rằng: “Khi
 tới nơi, Huệ đánh vài trận không được, có ý muốn lui binh, nhưng nhờ có
 phản thần bày kế, Huệ mới mai phục tại Sầm Giang và ở Xoài Mút, rồi dụ 
quân Xiêm tới đánh. Quân Xiêm do không rành địa thế, lại ỷ thắng trận 
nên bị lọt vào vòng phục kích của hai đạo quân thủy bộ của Nguyễn Huệ. 
Chiêu Tăng và Chiêu Sương gom quân sống sót còn được vài ngàn, nhắm nẻo 
Chân lạp mà chạy.” Tuy nhiên, chính sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện 
cũng phải thừa nhận về vị anh hùng Nguyễn Huệ như sau: “Nguyễn Huệ bốn 
lần vào đánh Gia 
Định, mỗi khi ra trận đều dẫn đầu các sĩ tốt, hiệu lệnh rất nghiêm, quân binh đều nể phục.”(20) 
Sau khi tàn quân Xiêm La bỏ chạy về nước, Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh cũng 
phải chạy trốn ra các đảo nhỏ trong vịnh Xiêm La. Trong cơn tuyệt vọng, 
Nguyễn Ánh đã thúc giục Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp với nhiều 
điều kiện thuận lợi cho cả Pháp lẫn Bá Đa Lộc trong việc truyền đạo tại 
Việt Nam. Sau trận Rạch Gầm-Xoài Mút, nghĩa quân Tây Sơn truy kích tàn 
quân Nguyễn Ánh một cách ráo riết, nên Nguyễn Ánh lại phải bỏ chạy ra 
đảo Thổ Châu, nhưng rồi cũng bị quân Tây Sơn truy nã quá gắt, phải chạy 
sang đảo Cổ Cốt. Tháng 3 năm 1785, tên Cai Cơ Trung đem 200 quân cùng 5 
chiếc thuyền của giặc Xiêm đến đón Nguyễn Ánh sang chầu Xiêm vương tại 
Vọng Các. Xiêm vương Rama I, không cho Nguyễn Ánh vào thành nên Ánh và 
đoàn tùy tùng phải trú ngụ ở Long Kỳ, ngoại ô thành Vọng Các. 
Nguyễn Ánh Tái Chiếm Nam Kỳ: 
Tháng 4 năm 1785, Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ rút quân về Qui 
Nhơn, giao Gia Định lại cho Đô Úy Đặng văn Trấn. Tháng 5 năm 1786, Long 
Nhượng Tướng Quân chiếm thành Phú Xuân, rồi tiến thẳng ra Thăng Long 
tiêu diệt họ Trịnh. Vua Thái Đức phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình 
Vương. Kể từ khi họ Trịnh ở phương Bắc đã bị tiễu trừ, Bắc Bình Vương 
vẫn để cho vua Lê trị vì phương Bắc, nhưng vua Lê Chiêu Thống lại sợ 
cảnh chúa Trịnh tái diễn nên đã sang Tàu cầu cứu với nhà Thanh. Trong 
khi về mặt Bắc, quân Tây Sơn phải dồn hết nỗ lực đánh bại quân Trịnh, 
rồi lại phải đương đầu với giặc Mãn Thanh, nên không còn lực lượng đâu 
nữa để mà trấn giữ thành Gia Định. Tuy vậy vua Thái Đức vẫn phong cho 
Tiết Chế Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương và giao cho trấn thủ thành Gia 
Định với một số quân khiêm nhường(21). 
Sau hơn một năm trời chầu chực mà vẫn không được sự trợ giúp của Xiêm 
vương, nên tháng 7 năm 1787, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng của ông đang 
đêm bỏ trốn về nước. Khi về nước, Nguyễn Ánh lại gặp dịp may là quan 
Chưởng Cơ của Tây Sơn ở Long Xuyên là Nguyễn văn Trương đem quân về qui 
thuận với Nguyễn Ánh. Như vậy, không đánh mà đã chiếm được vùng Long 
Xuyên. Sau đó chính Nguyễn văn Trương dẫn quân đi đánh Tây Sơn tại các 
vùng Trà Ôn, Cần Giờ... Đông Định Vương nghe tin các tướng của mình làm 
phản theo về với Nguyễn Ánh nên rút quân về Trấn Biên, rồi sau đó rút 
lui về Qui Nhơn. Trong ba anh em nhà Tây Sơn, thì Đông Định Vương Nguyễn
 Lữ không có khiếu về quân sự. Ông chỉ có cốt cách của một nhà tu, không
 chủ trương sát hại sinh linh, nên ông không tha thiết mấy với việc 
tranh hùng với Nguyễn Ánh. Chính vì thế mà Nguyễn Ánh mới có đất dụng võ
 ở phương Nam. Nếu tài năng của Nguyễn Lữ chỉ cần bằng phân nửa của 
Nguyễn Huệ thì có lẽ cục diện thành Gia Định đã khác. Dù Bắc Bình Vương 
Nguyễn Huệ biết rõ nguy cơ phục hồi của Nguyễn Ánh cũng như những việc 
làm bất kể hậu quả lâu dài cho dân tộc Việt Nam về sau này của Nguyễn 
Ánh, nhưng hiện tình ngoài Bắc bấy giờ cần sự lo lắng của vua Quang 
Trung hơn, nên ngài không còn đủ nhân lực vật lực để tiêu diệt Nguyễn 
Ánh trong giai đoạn này. 
Năm 1788, Nguyễn Ánh gả công chúa Ngọc Du cho Võ Tánh khi ông này mang 
theo hơn một vạn quân đến với Nguyễn Ánh. Tháng 2 năm 1788, Nguyễn Ánh 
đánh chiếm 4 đồn tại vùng Vĩnh Trấn, rồi tháng 8 năm 1788, Nguyễn Ánh 
chiếm lại thành Gia Định. Như vậy, tính đến năm 1789, trong khi quân đội
 Tây Sơn đang ráo riết chuẩn bị chống ngoại xâm từ phương Bắc, thì 
Nguyễn Ánh đã nhân cơ hội này cầu viện với Xiêm và với Pháp để mua vũ 
khí và huấn luyện quân đội đánh chiếm thành Gia Định. Nguyễn Ánh muốn 
nhân cơ hội này củng cố và biến thành Gia Định thành một căn cứ hậu cần 
vững chắc cho cuộc chiến với Tây Sơn. Hơn thế nữa, đầu năm 1789, khi hay
 tin quân Thanh đang tràn sang xâm chiếm nước ta theo lời cầu viện của 
Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh bèn sai sứ thần Phan văn Trọng và Lâm Đề mang
 quốc thư cùng 50 vạn cân gạo sang trợ giúp cho quân xâm lăng. Lại một 
lần nữa, trời bất dung gian, chưa tới nơi thì đoàn chở lương cho giặc 
Thanh bị bão đánh chìm. Thế là Nguyễn Ánh không được Thanh triều ghi 
công trong cuộc xâm lăng này. Đã vậy, sau khi bại trận, Thanh triều 
chẳng những không phục thù mà còn tỏ ra hòa hoãn với Tây Sơn bằng cách 
phong vương cho Nguyễn Huệ. 
Vào ngày 14 tháng 7, năm 1789, trong chuyến trở lại Việt Nam, Bá Đa Lộc 
dẫn đường cho một số võ quan Pháp qua đầu quân với Nguyễn Ánh theo sự 
sắp xếp của Bá Đa Lộc và bộ Viễn Chinh Pháp. Thành Sài Gòn do Nguyễn Ánh
 ra lịnh xây vào năm 1790 là do Olivier de Puymanuel đứng chỉ huy xây 
dựng, với chiều cao khoảng 4.80 mét, toàn bằng đá ong Biên Hòa, có hình 
lục lăng. Tuy nhiên, đến năm 1835, sau khi đánh dẹp được nghĩa binh Lê 
văn Khôi, vua Minh Mạng đã cho san bằng thành này. Như vậy một cái thành
 kiên cố và tốn kém như vậy chỉ được xử dụng có 45 năm mà thôi. Không 
biết vua Minh Mạng nghĩ gì khi ngài giận cá chém thớt như vậy, chỉ vì 
giận “giặc Khôi,” mà ngài nỡ phá bỏ thành lũy phòng thủ của vùng đất mà 
mới vài chục năm trước chính cha của ngài đã được người dân tại đây che 
dấu và bảo vệ. Sau khi phá bỏ thành Gia Định thỉ ngài chỉ xây lại một 
cái thành gọi là “lấy có”, chứ quy mô thì nhỏ hơn thành Gia Định trước 
nhiều. Chính vì thế mà khi quân 
Pháp tiến đánh Gia Định, chúng không bị một trở ngại nào trong việc đánh
 chiếm ngôi thành mới này. Theo Trương Vĩnh Ký thì trung tâm phế thành 
Gia Định là khoảng khu nhà thờ Đức Bà vì khi đào móng xây nhà thờ Đức 
Bà, người ta bắt gặp một lớp tro, cây, gạch và đá cháy lụn vụn có bề dày
 trên 3 tấc, có lẽ đây là kho lương thực của nghĩa binh Lê văn Khôi bị 
quân của vua Minh Mạng đốt vào năm 1835. Trong đống tro vụn này có rất 
nhiều tiền điếu, tiền kẽm bị lửa cháy quyện lại thành khối, nhưng vẫn 
còn thấy nhiều đồng tiền chưa bị tan chảy hoàn toàn. Vào năm 1926, thợ 
đào móng xây nhà lầu ở đường Catinat (đường Tự Do bây giờ), có gặp dưới 
bề sâu khoảng 5 hay 6 thước, một nền đá ong hình lục lăng. Vào năm 1935,
 thợ xây cất đào thấy ở nhà thương Đồn Đất, góc đường La Grandière 
(đường Gia Long sau này) và đường Lafont (đường Chu Mạnh Trinh), mớ đá 
ong hình lục lăng. Theo nhà khảo cổ Charles Lemire thì đường Lagrandière
 chính là con đường đắp trên hào của phế thành Gia Định ngày trước. Hiện
 những tảng đá ong lục lăng này vẫn còn được lưu trữ trong Bảo Tàng Viện
 trong vườn Bách Thảo Thị Nghè. 
Hết Phần 2 
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét