Tình Hình Xứ Đàng Trong Dưới Thời Các Chúa Nguyễn:
Dầu lịch sử vùng Nam Kỳ hãy còn quá mới mẻ so với chiều dài lịch sử của
dân tộc Việt Nam đã trải qua gần 5.000 năm dựng nước và giữ nước. Tuy
nhiên, mảnh đất mang tên Nam Kỳ Lục Tỉnh, miền cực Nam tổ quốc, vựa lúa
nuôi sống nhân dân cả nước trong nhiều thế kỷ nay đã đến với Việt Nam
chỉ qua một biến cố lịch sử thật tình cờ trong gia đoạn cuối cùng của
nhà Hậu Lê. Đó là sự xuất hiện của Nguyễn Hoàng, một nhân vật lịch sử đã
làm thay đổi cục diện lịch sử Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XVII. Nguyễn
Hoàng, một truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Sau
khi cha là Nguyễn Kim qua đời và anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm bức
hại, Nguyễn Hoàng đã phải xuôi Nam tỵ nạn, rồi do sự tình cờ của lịch
sử, Nguyễn Hoàng đã phải chống lại áp lực của chúa Trịnh bằng cách củng
cố thế lực của mình qua sách lược Nam Tiến. Chính sự phát triển lực
lượng của Nguyễn Hoàng từ năm 1611 đến năm 1653 đã là một sức ép mãnh
liệt khiến cho vương quốc Champa đã phải co cụm lại trong một phạm vi
nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Các chúa Nguyễn đã không dừng lại tại
vùng Nha Trang hay Phan Thiết, mà các ngài còn dòm ngó đến vùng Thủy
Chân Lạp ngay từ đầu thế kỷ thứ XVII, vì vào thời kỳ nầy vương triều
Chân Lạp đã bước vào giai đoạn suy yếu trầm trọng. Kỳ thật, giai đoạn
suy yếu của vương triều Khmer đã kéo dài từ thế kỷ thứ XIII, sau hơn 10
thế kỷ cực thịnh(1) dưới ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo. Trong suốt 10 thế kỷ
nầy vương quốc Chân Lạp đã mất rất nhiều đất đai vào tay người Xiêm La.
Và trong 2 thế kỷ, XVII và XVIII, Chân Lạp lại để mất vùng Thủy Chân Lạp
vào tay xứ Đàng Trong qua hình thức dâng hiến để đền ơn đáp nghĩa.
Lịch sử triều Nguyễn đã sang trang trên nửa thế kỷ nay, đáng lý ra tôi
không cần phải đề cập gì đến tên của người đã khai sinh ra một triều đại
mà theo tôi là triều đại đã mang lại một tương lai đen tối nhất cho dân
tộc Việt Nam thời đó, và hệ quả tai hại của nó vẫn còn âm ỉ cho đến
ngày nay. Là con dân Nam Kỳ, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận
được công lao của các chúa Nguyễn. Chén cơm chúng ta đang ăn, nguồn nước
chúng ta đang uống, mảnh vườn đang cho chúng ta cây trái xum xuê...
không có thứ nào là không bàng bạc công ơn của các chúa nhà Nguyễn.
Chính những kế hoạch khôn ngoan và sự hy sinh của các chúa tiên triều
nhà Nguyễn đã đem về cho đất nước chúng ta một vùng đất bao la trù phú
miền Nam, vựa lúa lớn nhất cho dân chúng cả nước. Tuy nhiên, đã nói đến
Nam Kỳ, đã nhắc nhiều đến công lao của các chúa nhà Nguyễn trong công
cuộc mở đất về phương Nam, mà không nói đến Nguyễn Ánh và những di hại
mà vị vua ấy đã mang đến cho dân tộc Việt Nam thì cũng là một thiếu sót.
Thật tình mà nói, thiết tưởng tưởng không cần phải nói nhiều, có lẽ ai
trong chúng ta cũng đều biết thực trạng của đất nước Việt Nam trong suốt
153 năm vương triều nhà Nguyễn, tính từ năm 1802 sau khi Nguyễn Ánh lên
ngôi và lấy hiệu là Gia Long cho đến khi Bảo Đại bị truất phế vào năm
1955.
Phải nói lịch sử Việt Nam vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII quả là rối ren và
phức tạp nhất trong suốt tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam, vì
trong thời kỳ này trong khi bên trời Âu đang nổ ra cuộc cách mạng Pháp,
thì ngay tại đất nước Việt Nam cũng đang xuất hiện một phong trào cách
mạng. Đó là cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn, một trong những cuộc khởi nghĩa
thần kỳ nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của Việt
Nam. Vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII, dù vẫn còn vua Lê, nhưng đất nước
chúng ta đã phải trải qua hàng trăm năm bị xâu xé bởi hai dòng họ lớn là
Trịnh và Nguyễn. Bên cạnh đó, dòng họ Mạc ở Cao Bằng vẫn còn manh nha
muốn làm một cuộc quật khởi mong lấy lại những gì mà họ cho là của họ.
Thử hỏi đất nước Việt Nam chúng ta đã đi về đâu nếu không có sự xuất
hiện của vị anh hùng áo vải đất Qui Nhơn? Không cần phải đưa ra câu trả
lời cho câu hỏi này, ai trong chúng ta cũng dư biết vào hậu bán thế kỷ
thứ XVIII, không có lực lượng nào có thể đối đầu với đại quân nhà Thanh
khi họ tràn qua Việt Nam như nước vỡ bờ. Họ Trịnh hay họ Mạc ở phương
Bắc có thể cầm cự được với quân Thanh hay không? Chắc chắn là không rồi,
vì trong suốt hàng mấy trăm năm, quân đội nhà Trịnh chưa từng tỏ ra
được khả năng chống ngoại xâm, quân nhà Mạc thì đã tan tác từ lâu lắm
rồi. Trong khi đó ở phương Nam, quân nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh chỉ huy,
ngoài việc ra lệnh gửi quân lương ra giúp cho giặc Thanh, Nguyễn Ánh
chưa hề thảo ra kế hoạch nào, hoặc chưa từng đề cập đến việc đưa quân
chống lại nhà Thanh. Sự xuất hiện của vị anh hùng áo vải đất Qui Nhơn và
phong trào khởi nghĩa Tây Sơn dù thoạt kỳ thủy mang tính địa phương,
nhưng sau đó, nó bộc phát khắp nơi như một cuộc tổng khởi nghĩa của dân
tộc Việt Nam.
Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã nghiền nát 2 dòng họ phong kiến đã từng thống trị lâu đời trên 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã đào thải chiếc ngai vàng không ngai của thời Lê Mạt. Và cũng chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã mang lại khí thế ngất trời cho toàn dân Việt Nam trong chiến thắng Đống Đa. Phong trào Tây Sơn khởi lên từ một địa phương hẻo lánh tại đất Qui Nhơn, với một lực lượng thật khiêm nhường, thế mà chẳng bao lâu sau đó, họ đập tan quân chúa Nguyễn ở Nam Hà. Rồi từ Nam họ đã kéo quân ra Bắc phá tan thành quách của phong kiến nhà Trịnh. Tuy nhiên, họ không thẳng tay với chiếc ngai vàng không ngai của vua Lê, có thể vì ngay sau khi đánh đổ quân chúa Trịnh, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã trở thành con rể của vua Lê, mà cũng có thể họ lưỡng lự vì sự ủng hộ vua Lê vẫn còn đó với thành kiến địa phương. Trong khi người anh hùng áo vải đất Qui Nhơn đang phải trăm bề thọ địch thì Nguyễn Ánh ở phương Nam đã nhân cơ hội này bám chặt lấy gót giày của Xiêm vương và một số giáo sĩ Tây phương nhằm tạo thanh thế cho cuộc khôi phục lại chiếc ngai vàng mà ông ta cho rằng thuộc về dòng họ nhà Nguyễn. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Những khó khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn lật đổ.
Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã nghiền nát 2 dòng họ phong kiến đã từng thống trị lâu đời trên 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã đào thải chiếc ngai vàng không ngai của thời Lê Mạt. Và cũng chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã mang lại khí thế ngất trời cho toàn dân Việt Nam trong chiến thắng Đống Đa. Phong trào Tây Sơn khởi lên từ một địa phương hẻo lánh tại đất Qui Nhơn, với một lực lượng thật khiêm nhường, thế mà chẳng bao lâu sau đó, họ đập tan quân chúa Nguyễn ở Nam Hà. Rồi từ Nam họ đã kéo quân ra Bắc phá tan thành quách của phong kiến nhà Trịnh. Tuy nhiên, họ không thẳng tay với chiếc ngai vàng không ngai của vua Lê, có thể vì ngay sau khi đánh đổ quân chúa Trịnh, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã trở thành con rể của vua Lê, mà cũng có thể họ lưỡng lự vì sự ủng hộ vua Lê vẫn còn đó với thành kiến địa phương. Trong khi người anh hùng áo vải đất Qui Nhơn đang phải trăm bề thọ địch thì Nguyễn Ánh ở phương Nam đã nhân cơ hội này bám chặt lấy gót giày của Xiêm vương và một số giáo sĩ Tây phương nhằm tạo thanh thế cho cuộc khôi phục lại chiếc ngai vàng mà ông ta cho rằng thuộc về dòng họ nhà Nguyễn. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Những khó khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn lật đổ.
Nguyễn Ánh Là Ai? Tại Sao Ông Lại Căm Thù Tây Sơn Đến Tận Xương Tủy Và
Tại Sao Ông Được Làm Truyền Nhân Chính Thống Của Dòng Họ Nguyễn?
Nguyễn Ánh, tức Nguyễn Phúc Ánh, còn có tên là Noãn và Chủng, sanh năm
1762, con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân(2) với Hiếu Khang hoàng hậu.
Lúc chúa Võ Vương còn ở ngôi chúa, có ý nhường ngôi lại cho người con
thứ chín là Phúc Hạo, nhưng Phúc Hạo chết năm 1760. Vì thế Võ Vương muốn
truyền ngôi lại cho Phúc Luân. Tuy nhiên, sau khi Võ Vương mất vào năm
1765, Trương Phúc Loan chuyên quyền, giả mạo di chúc của Võ Vương, lập
người con thứ 16 của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa. Theo
sử quan triều Nguyễn thì Phúc Luân vì buồn mà mang bệnh rồi chết, nhưng
có một số tài liệu ngoại sử thì nói Trương Phúc Loan đã giam Nguyễn Phúc
Luân cho đến chết. Lúc ấy Nguyễn Ánh mới 3 tuổi đầu. Dầu Phúc Luân vì
buồn hay bị giam mà chết, thì Nguyễn Ánh cũng phải chịu tang cha lúc
tuổi còn quá nhỏ. Sau khi cha mất, Nguyễn Ánh đã phải trải qua những năm
tháng rong ruổi trong tủi nhục từ Trung vô Nam, rồi từ Nam ra các đảo
ngoài khơi vịnh Xiêm La, rồi qua Xiêm... với biết bao nhiêu hiểm nguy
chực chờ. Tuy nhiên, Nguyễn Ánh rất được Duệ Tông Phúc Thuần yêu thương,
nhờ vậy mà ông đã theo Duệ Tông chạy vào Nam để lánh quân Tây Sơn đang
truy đuổi. Chính nhờ những năm tháng lưu vong với Phúc Thuần, mà Nguyễn
Ánh đã lấy lòng Phúc Thuần, nên về sau nầy khi quần thần nhà Nguyễn ngỏ ý
muốn Duệ Tông nhường ngôi cho Đông cung Phúc Dương, lúc đầu Duệ Tông có
ý muốn từ chối, vì ông không thấy ở Phúc Dương những tài năng và đức độ
của một vì vua. Ngược lại, những thứ đó ông thấy được nơi Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, khi bị Lý Tài ép gắt thì Duệ Tông mới chịu nhường ngôi cho
Phúc Dương. Từ đó Duệ Tông lên làm Thái Thượng Vương và Phước Dương làm
Tân Chính Vương. Nguyễn Ánh có 5 anh em trai, thì 4 người kia đã chết
trong các trận chiến với Tây Sơn. Người anh lớn nhất tên Hạo, làm đến
chức Cai Cơ, bị quân Tây Sơn giết chết. Người anh thứ hai tên Đồng, làm
chức Đội trưởng, cũng bị Tây Sơn bắt giết tại Long Xuyên cùng một lượt
với Nguyễn Phúc Thuần vào năm 1777. Người em kế của Nguyễn Ánh thì chết
lúc còn nhỏ. Người em kế nữa tên Mân, chết đuối khi bị quân Tây Sơn chặt
đứt cầu phao trong trận Đồn Cá Trê vào năm 1783. Người em trai nữa của
Nguyễn Ánh tên là Nguyễn Điển(3) bị quân Tây Sơn bắt giết ở Hòn Đá Chồng
vào năm 1783. Nguyễn Ánh có bốn chị em gái. Chị lớn là công chúa Long
Thành Ngọc Tú(4), được gả cho Cai Cơ Lê Phước Điển(5). Người chị thứ hai
là công chúa Phước Lộc Ngọc Du, được gả cho Võ Tánh(6) vào năm 1779.
Người em kế Nguyễn Ánh là công chúa Minh Nghĩa Ngọc Tuyền, năm 1779 được
gả cho Cai cơ Nguyễn Hữu Thoại, năm 1782 khi Hữu Thoại qua Xiêm cầu
viện cho Nguyễn Ánh, bà bị Tây Sơn bắt ở vùng Đồng Nai, trên đường giải
về Sài Gòn, bà đã nhảy xuống sông tự tử, lúc mới 19 tuổi. Em gái út của
Nguyễn Ánh là công chúa Ngọc Uyển(7). Năm 1774, lưu lạc ra vùng Thanh
Hóa vì chiến tranh. Bao nhiêu người trong gia đình dòng họ của Nguyễn
Ánh đã chết về tay Tây Sơn, nên bản thân ông, ông rất căm thù Tây Sơn.
Và cũng chính vì thế mà cuộc chiến do ông khởi động với Tây Sơn mang đậm
nét thù hằn hơn là ý thức chính trị của một người yêu nước. Tuy nhiên,
phải công tâm mà nói, để đạt được mục đích là chiếm lại chiếc ngai vàng
cho dòng họ Nguyễn, ngoài lòng căm hận Tây Sơn, ngoài tài năng và trí
năng thiên bẩm, phải thành thật mà nói, chắc chắn Nguyễn Ánh phải là một
con người có nhiều nghị lực, và cũng phải là một con người biết ‘dụng
nhân như dụng mộc’ lắm mới lôi kéo về phía mình quá nhiều tướng tài
trong cuộc chiến với Tây Sơn.
Như trên đã nói, trước khi Nguyễn Ánh được tôn xưng, triều đình xứ Đàng
Trong đã trải qua một chuỗi dài khủng hoảng và tranh chấp về việc phế
lập trong triều. Lộng thần Trương Phúc Loan không theo di chúc của chúa
Võ Vương, không chịu lập Phúc Luân lên ngôi, mà lại lập Duệ Tông Phúc
Thuần lên ngôi. Tuy nhiên, sau đó bị quân Tây Sơn truy đuổi quá gắt,
Nguyễn Ánh đã theo Duệ Tông chạy vào Nam để lánh quân Tây Sơn đang truy
đuổi. Nhờ được theo sát bên cạnh Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần, nên nhờ đó
mà quần thần lưu vong nhà Nguyễn ai cũng đều biết Nguyễn Ánh, dầu lúc ấy
dòng họ Nguyễn vẫn còn một số thất lạc ra Thuận Hóa trong cuộc chiến
tranh với quân Tây Sơn. Cũng chính nhờ được theo sát bên Duệ Tông mà vào
năm 1777, khi Duệ Tông và Đông cung Phúc Dương bị Tây Sơn bắt giết, thì
Nguyễn Ánh nghiễm nhiên trở thành người kế thừa hợp pháp và hợp tình
nhất, vì trước tiên Nguyễn Ánh cũng là dòng đích của họ Nguyễn, mặc dầu
dòng họ Nguyễn cũng còn những người lưu lạc khác, nhưng biết đâu mà tìm,
trong khi hoàng gia trong miền Nam chỉ còn có Nguyễn Ánh sống sót, nên
sẵn đó tôn Nguyễn Ánh lên làm ‘Đại Nguyên Soái Nhiếp Quốc Chính’ là tiện
đôi bề. Năm 1780, Nguyễn Ánh tự xưng là Nguyễn Vương. Từ đó Nguyễn Ánh
trở thành người kế nghiệp các chúa Nguyễn một cách hợp pháp và không còn
bất cứ sự tranh chấp nào nữa.
Tây Sơn Truy Kích Nguyễn Ánh Trên Vùng Đất Nam Kỳ:
Năm 1774, khi quân của chúa Trịnh kéo vào đánh Phú Xuân thì Nguyễn Ánh
mới 13 tuổi, theo chân Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định, rồi sau đó
phải bỏ chạy về vùng Ba Giồng ở Định Tường để dựa lưng vào quân Đông Sơn
của Đỗ Thành Nhân. Phải nói đất Gia Định là nơi mà Nguyễn Ánh dùng làm
căn cứ địa an toàn để lẩn trốn Tây Sơn trong suốt thời gian ông bôn tẩu.
Sở dĩ Nguyễn Ánh có thể dung thân được nơi miền đất xa lạ này là vì
vùng đất này được các chúa tiên triều nhà Nguyễn cho phép các nhóm di
thần nhà Minh đến Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XVII đến khai phá. Ở vùng
Đông Phố (Biên Hòa) có Trần Thượng Xuyên, ở Mỹ Tho có Dương Ngạn Địch,
và ở vùng Hà Tiên có Mạc Cửu. Họ là những con người mang nặng lễ giáo
Khổng Mạnh, nên lúc nào họ cũng tự xem mình mang nặng ơn mưa mốc từ các
chúa nhà Nguyễn. May mắn hơn Tây Sơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định có những
điều kiện để lôi kéo thương nhân người Hoa, vì họ là hậu duệ của những
người đã từng chịu ơn của các chúa Nguyễn, nên khi Nguyễn Ánh cần gì và
nói gì họ đều hưởng ứng. Bên cạnh đó, các giáo sĩ Tây phương với ý đồ
biến Việt Nam thành một quốc gia Thiên Chúa giáo nên họ đã không từ bỏ
bất cứ hành động nào để đạt được mục tiêu của họ, ngay cả việc can dự
vào chánh trị của xứ Đàng Trong. Chính giám mục D’Adran đã cho chúng ta
thấy rõ ý đồ của các giáo sĩ trong một bức thư đề ngày 26 tháng 7 năm
1779 như sau: “Hai chiếc tàu từ Macau đến Bassac trong năm nay để buôn
bán... Một người Trung hoa đưa ý kiến với ông lớn của xứ Cochinchine,
cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm, tiêu, lưu quỳnh và các
thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức
cần các thứ hàng hóa này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu
yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp
xứ Cochinchine, đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi
khác.” Chính vì thế mà tại vùng Gia Định, dù xa lạ với Nguyễn Ánh,
nhưng đi đâu đến đâu, ông cũng được sự che chở và giúp đỡ của quan, quân
và dân địa phương.
Năm 1777, khi Nguyễn Huệ mang quân vào đánh Gia Định và bắt được Nguyễn
Phúc Thuần thì Nguyễn Ánh bỏ chạy ra đảo Thổ Châu. Có thể nói cả dòng họ
nhà Nguyễn sau biến cố Ba Vác và Long Xuyên, nghĩa là sau khi Nguyễn
Phúc Thuần bị Tây Sơn truy đuổi và bắt, thì hầu như không còn ai có thể
đứng lên hoạt động chống lại Tây Sơn, ngoại trừ Nguyễn Ánh. Những người
chú khác còn lại của Nguyễn Ánh như Tôn thất Chất thì chết năm 1777, Tôn
thất Xuân chạy sang Xiêm với Mạc Thiên Tứ, còn Tôn thất Thăng thì lẩn
trốn tại Phú Xuân. Như vậy phải nói nếu sau biến cố năm 1777 mà Nguyễn
Ánh không còn, có lẽ cục diện Việt Nam cũng đã khác đi, vì sau cuộc càn
quét này của quân Tây Sơn, lực lượng duy nhất còn lại tại Nam Kỳ là quân
Đông Sơn của Đỗ thành Nhân mà thôi. Sau khi Gia Định tạm ổn định,
Nguyễn Huệ phải kéo quân về Thuận Hóa để bình định tình hình bất ổn tại
miền Bắc cũng như đối phó với Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của nhà
Lê, lúc nào cũng chực chờ cho sứ thần sang cầu viện với nhà Thanh. Nghĩa
là lúc đó Nguyễn Huệ không thể ở lại miền Nam để tiêu diệt toàn bộ vây
cánh của Nguyễn Ánh, dù ngài biết rằng Nguyễn Ánh luôn là một di họa cho
đất nước. Sau khi kéo quân về Phú Xuân, Nguyễn Huệ phải chiêu mộ thêm
quân sĩ để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra với quân Thanh
bất cứ lúc nào. Chính vì thế mà Nguyễn Huệ chỉ cho lưu lại vùng Gia Định
một lực lượng thật nhỏ để duy trì an ninh trật tự trong vùng mà thôi,
và cũng chính vì vậy mà Nguyễn Ánh đã nhân cơ hội này từ đảo Thổ Châu
trở về Long Xuyên chiêu mộ quân sĩ để tiến đánh vùng Sa Đéc. Sau đó
Nguyễn Ánh lại hợp cùng với Chưởng Dinh Đỗ Thành Nhân, Cai Đội Lê văn
Quân, Thống Nhung Nguyễn văn Hoằng, Chưởng dinh Tống Phước Khuông, Tống
Phước Lương, Điều Khiển Dương Công Trừng, và Cai Cơ Hồ văn Lân tiến quân
đánh dinh Long Hồ, rồi tiến đánh Sài Gòn. Trong khi ngoài Bắc thì Lê
Chiêu Thống đang chuẩn bị cầu viện với nhà Thanh nhằm tiến đánh quân Tây
Sơn ở Thăng Long, thì trong Nam Nguyễn Ánh cùng các tướng sĩ của ông ta
đang mưu đồ chiêu quân hầu lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ nhà
Nguyễn. Đầu năm 1778, ở Gia Định, Đỗ thành Nhân hợp các tướng khác suy
tôn Nguyễn Ánh làm Đại Nguyên Soái Nhiếp Quốc Chánh, năm ấy Nguyễn Ánh
mới 17 tuổi, cai trị toàn vùng Nam Kỳ. Năm 1779, trong khi triều đình
Chân Lạp có cuộc âm mưu soán ngôi Nặc Vinh, nên Đỗ Thành Nhân cùng Hồ
văn Lân theo lệnh của Nguyễn Ánh đem quân tiến đánh Chân Lạp, sau đó lưu
Hồ văn Lân ở lại làm quan Bảo Hộ xứ này. Nguyễn Ánh ra lệnh vơ vét hầu
hết tài nguyên của xứ Chân Lạp đem về tích trữ tại thành Gia Định.
Nguyễn Ánh cho xây thành đắp lũy ở các vùng Sài Côn, Gia Định, Trấn
Biên, Phiên Trấn, và Long Hồ để chiêu mộ quân sĩ và tích trữ lương thực,
chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lâu dài với quân Tây Sơn. Đồng thời,
Nguyễn Ánh cũng cho tiến hành chánh sách thông hiếu với Xiêm La, những
mong nước nầy sẽ giúp mình trong việc chiến tranh với nhà Tây Sơn. Về
mặt hành chánh, Nguyễn Ánh cho tổ chức lại việc cai trị đất Gia Định.
Sau khi bình định miền Nam, Đại Nguyên Soái Nguyễn Ánh chia vùng Nam Kỳ
ra làm 3 dinh: dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, và dinh Long Hồ. Sau đó
Nguyễn Ánh lại cho nâng Đạo Trường Đồn, thuộc tỉnh Định Tường, Mỹ Tho
hay Tiền Giang ngày nay, lên làm Dinh Trường Đồn vì địa điểm trọng yếu
của nó. Dinh Trường Đồn có một huyện là Kiến An với 3 tổng là Kiến Đăng,
Kiến Hưng và Kiến Hòa.
Đến năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương, nhưng vẫn giữ niên hiệu nhà Lê
trong các chiếu chỉ của triều đình, và dùng chiếc ấn mang tên “Đại Việt
Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu.” Mùa hè năm 1781, Bá Đa Lộc đã cùng
Nguyễn Ánh tổ chức một cuộc duyệt binh tại Gia Định với hơn 30.000 quân,
80 thuyền đi biển, 3 chiến thuyền loại lớn. Cùng năm đó, để dễ bề cai
trị, dinh Trường Đồn được đổi ra làm dinh Trấn Định. Mỗi dinh đều đặt
chức Lưu Thủ cai trị, và các quan Lưu Thủ có nhiệm vụ chiêu mộ quân sĩ
cũng như tích trữ lương thực theo quy định nuôi quân của Nguyễn Ánh. Có
thể nói trong lịch sử Nam tiến của Việt Nam, chưa có thời kỳ nào mà nhân
dân ta phải đồ thán như thời kỳ Nguyễn Ánh cai trị đất Nam Kỳ, vì một
phần do chiến tranh với Tây Sơn, phần khác Nguyễn Ánh đặt sưu thuế rất
nặng hầu có đủ lương thực và vũ khí cho cuộc chiến tranh với Tây Sơn.
Cùng năm đó, vì nghi kỵ sức mạnh và ý đồ của Đỗ Thành Nhân mà Nguyễn Ánh
đã sát hại công thần vào bậc nhất của mình ngay khi còn đang chiến
tranh với nhà Tây Sơn. Nguyên Đỗ thành Nhân là thủ lãnh nhóm Đông Sơn,
đã theo phục vụ Nguyễn Ánh từ hồi Nguyễn Ánh còn bôn ba lẩn trốn nhà Tây
Sơn. Thành Nhân được Nguyễn Ánh cho nắm giữ những chức vụ rất cao trong
triều đình ở Gia Định, nhưng sau bị Tống Phước Thiêm mật bẩm với Nguyễn
Ánh xin giết Nhân để trừ hậu họa về sau này(9).
Sau khi Đỗ Thành Nhân đã bị Nguyễn Ánh sát hại, tháng 3 năm 1782, vua
Thái Đức Nguyễn Nhạc cùng Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ cất binh vào
đánh Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ đem quân vào cửa Cần Giờ, rất nhiều binh
tướng Đông Sơn theo về với quân Tây Sơn. Trước khí thế của quân Tây Sơn,
quân Nguyễn Ánh chưa đánh đã bỏ chạy, nên Nguyễn Ánh phải lui về vùng
Tam Phụ, nhưng sau đó lại bị quân Tây Sơn truy nã quá gắt nên Nguyễn Ánh
phải trốn về vùng Hậu Giang. Khi tới Trấn Giang, nay là vùng Cái Răng,
thuộc tỉnh Cần Thơ, Nguyễn Ánh bèn sai Nguyễn hữu Thụy(10) và Trần xuân
Trạch theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu cứu, nhưng trời bất dung gian,
nhóm Hữu Thụy bị người Chân Lạp chận đánh tan tác và giết hại gần hết.
Nguyễn Ánh bỏ Hậu Giang, băng tắt đường rừng đến Rạch Giá. Tại đây
Nguyễn Ánh lại bị 30 chiến thuyền của người Chân Lạp đuổi bắt, may nhờ
một viên tướng hết lòng phò tá đã giúp cho Ánh chạy thoát ra đảo Phú
Quốc. Sau khi dẹp tan quân của Nguyễn Ánh, vua Thái Đức giao cho tướng
Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá cùng 3.000 quân ở lại giữ thành Gia
Định, và triệu Nguyễn Huệ về Qui Nhơn. Tháng 7 năm 1782, Châu văn Tiếp
cùng Thiếu Phó Nguyễn Phước Mân đem quân từ Phú Yên vào đánh Đỗ Nhàn
Trập. Sau khi chiếm thành Gia Định, Châu văn Tiếp cho thỉnh Nguyễn Ánh
về Sài Côn. Trên đường trở về Sài Côn, Nguyễn Ánh cho người sang Xiêm
cầu cứu vì biết thế nào quân Tây Sơn cũng sẽ vào đánh lấy lại Gia Định.
Như sự dự đoán của Nguyễn Ánh, tháng 2 năm 1783, Tiết Chế Nguyễn Lữ và
Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ đem quân vào cửa Cần Giờ, tiến đánh
Gia Định. Quân Nguyễn Ánh đại bại, Nguyễn Phước Mân tử trận, Dương Công
Trừng bị bắt, Châu văn Tiếp đưa Nguyễn Ánh chạy về vùng Tầm Bôn (nay là
Tân An). Nguyễn Huệ tiếp tục truy kích tàn quân Nguyễn Ánh. Quân của Ánh
phải bỏ chạy về trốn trong vùng Ba Giồng, Đại Phố Mỹ Tho, rồi họp binh
lại ở Đồng Tuyên định tiếp tục chống cự với Tây Sơn, nhưng Nguyễn Huệ
lại đập nát cánh quân ở Đồng Tuyên. Sau đó quân Tây Sơn lại tiếp tục
truy kích gắt hơn, nên Nguyễn Ánh phải cho quân đưa hoàng gia ra đảo Phú
Quốc trước, còn tự mình thì trốn ở Hòn Chông (Điệp Thạch), rồi trốn ra
Côn Sơn, nhưng cũng bị quân Tây Sơn bao vây quá gắt, nên Ánh phải chạy
ra đảo Cổ Long, sau đó lại di chuyển qua Cổ Cốt. Trong khi ấy quân của
phò mã Trương văn Đa tiếp tục truy kích Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, nhờ một
cơn bão lớn nên quân Tây Sơn phải rút về Rạch Giá. Nhờ đó mà Nguyễn Ánh
thoát nạn.
Bá Đa Lộc, Ông Là Ai?
Trong bối cảnh lịch sử của thế giới kể từ thế kỷ thứ XVI đến cuối thế kỷ
thứ XVIII, các xứ kỹ nghệ tiên tiến bên Âu châu đang tìm kiếm thị
trường và lúc nào cũng mong chiếm đoạt tài nguyên của các quốc gia chậm
tiến khác trên thế giới. Trong khi đó bán đảo Đông Dương nói chung, và
Đại Việt nói riêng đang là những mục tiêu nóng của thực dân châu Âu. Tuy
nhiên, hồi nầy một số vua chúa và quan lại xứ Đàng Trong vẫn nhắm mắt
làm ngơ trước những động thái rất đáng nghi ngờ của các vị Tây dương đạo
trưởng, nên thay vì mở cửa cho tất cả các quốc gia tiên tiến vào làm ăn
buôn bán để tự họ làm những đối trọng với nhau mà không dám lăm le xâm
lấn người bản xứ như ở Nhật Bản và Thái Lan, thì thời đó Nguyễn Ánh lại
ngả hẳn về với Pháp qua trung gian của những Tây dương đạo trưởng để
mong được nước nầy trợ giúp trong chiến tranh với Tây Sơn. Thậm chí
Nguyễn Ánh đã để cho Bá Đa Lộc thay mình toàn quyền quyết định trong
việc ký kết những hiệp ước với nước Pháp. Làm như vậy có khác nào Nguyễn
Ánh tự mở cửa nhà mình cho giặc tự do muốn vào ra thế nào cũng được.
Qua những tài liệu trong văn khố Pháp, chúng ta thấy không chỉ Bá Đa Lộc
khuyên Pháp hoàng nên đánh lấy các xứ Đông Dương, mà hầu như Tây dương
đạo trưởng nào cũng muốn Âu châu chiếm lấy các xứ mà họ đang truyền
giảng đạo Ki Tô, có thể việc trước mắt là làm cho họ được dễ dàng truyền
đạo. Một thí dụ điển hình là giáo sĩ Huc, một tay du lịch bốn phương
trời, đã không ngần ngại viết thơ cho Napoléon III để nhắc hoàng đế nhớ
rằng nước Pháp cần chiếm đóng Việt Nam. Một điều cần chú ý là ông giáo
sĩ nầy chưa hề đặt chân lên đất Việt Nam bao giờ, không biết một chút gì
về xứ sở nầy. Nhưng với ông thì có sao đâu, không những ông ta tự coi
mình là kẻ có đủ tư cách bàn bạc chuyện đó, mà bởi ông ta là giáo sĩ cho
nên cuộc vận động của ông ta đã được hoàng đế xem như một đề nghị tối
quan trọng; nếu đề nghị ấy do một người khác đưa ra thì chắc chắn là
chẳng bao giờ được chuyển đến tay hoàng đế(11).
Trong cuộc chinh chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, phải thành thật mà
nói, chưa một lần nào Nguyễn Ánh có thể đương đầu trực diện với Nguyễn
Huệ. Chính vì luôn thất bại trước Tây Sơn mà Nguyễn Ánh đã tự để cho
mình rơi vào sợi dây thòng lọng của các Tây dương đạo trưởng như vừa mới
nói ở phần trên bằng cách luôn nghĩ tới chuyện cầu cứu với ngoại bang,
hết Xiêm, tới Pháp, rồi tới ngay cả Bồ Đào Nha và Hòa Lan. Tuy nhiên, vì
chuyện Nguyễn Ánh đưa con trai lớn của mình là hoàng tử Cảnh cho Bá Đa
Lộc làm con tin đưa sang Pháp quá nổi bật đã làm lu mờ đi những sự kiện
quan trọng khác trong giai đoạn nầy. Vậy Bá Đa Lộc là ai mà được Nguyễn
Ánh tin tưởng đến như vậy? Phải thật lòng mà nói, lúc đó dầu bất cứ
người ngoại quốc nào đến và nói với Nguyễn Ánh rằng ‘tôi sẽ giúp ông về
nhân lực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, tàu chiến, vân vân,
để đánh đổ nhà Tây Sơn’ là lập tức Nguyễn Ánh sẽ ngã vào vòng tay của
người đó, chứ không nhất thiết phải là Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc là tên Việt
Nam của vị giám mục người Pháp tên Monseigneur Pigneau de Béhaine, còn
có tên là Pierre Pigneau, sanh ngày 2 tháng 9, năm 1741, tại làng
Origny-en-Thiérache, thuộc địa phận Aisne, vùng Picardie, phía Bắc nước
Pháp. Bá Đa Lộc Monseigneur Pigneau de Béhaine là con của ông Georges
Pigneau và bà Marie-Louise Nicaut, là con trưởng trong một gia đình có
19 người con. Sau khi học xong bậc sơ học tại quê nhà, ông tòng học tại
một chủng viện tại Paris, đến năm 1765, tức là năm ông 24 tuổi, thì ông
rời Paris để đi truyền đạo tại Cochinchine. Riêng theo thiển ý, tôi
không bao giờ tin rằng giám mục Bá Đa Lộc đã từng làm gián điệp cho Tòa
Thánh, nước Pháp, hay bất cứ quốc gia Âu châu nào, ông chỉ phục vụ cho
lý tưởng Ki Tô hóa toàn cầu của giáo hội La Mã mà thôi. Vì dầu là giám
mục, ông lại rất giỏi về múa gươm và bắn súng, và rất giỏi về quân sự,
nhất là việc tuyển mộ binh lính, thương lượng mua bán vũ khí... để giúp
cho những lãnh chúa nào chịu Ki Tô hóa lãnh địa của họ. Ông đến xứ Đàng
Trong tại vùng Mang Khảm vào năm 1767, tuy nhiên, đến năm 1768 thì ông
bị Mạc Thiên Tứ bắt giam vì tội che chở cho một hoàng thân Xiêm La, hai
tháng sau đó ông được thả ra. Năm 1769, ông trở thành linh mục giám đốc
chủng viện Hòn Đất. Khi chủng viện Hòn Đất bị đốt cháy, ông và linh mục
Morvan cùng 13 người khác rời bỏ Việt Nam để đi Malacca bên Mã Lai, sau
đó vào năm 1770, ông đi đến Pondichéry bên Bengale thuộc Ấn Độ. Năm
1771, ông được giáo hoàng Clément XIV tấn phong giám mục Adran, làm phụ
tá cho giám mục Guillaume Piguel. Năm 1774, ông được tấn phong làm giám
mục tông tòa Đàng Trong. Tháng 3 năm 1776, Bá Đa Lộc được Đô đốc Mạc
Thiên Tứ cấp cho một lô đất ở vùng Cây Quao, phía Nam Hà Tiên để lập họ
đạo Pigneau và giao cho linh mục Morvan điều khiển. Trong khi đó triều
đình chúa Nguyễn của xứ Đàng Trong đang bị lung lay tận gốc rễ sau những
cuộc càn quét quyết liệt của đại quân Tây Sơn. Đầu năm 1775, sau khi
quân Tây Sơn bắt được hoàng thân Dương, chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần
phải cùng Nguyễn Ánh và hoàng gia bỏ chạy vào Gia Định. Đến năm 1776,
hoàng thân Dương trốn thoát cũng chạy theo vào Gia Định. Nguyễn Phúc
Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân Chính Vương, còn mình
thì làm Thái Thượng Vương.
Hết Phần 1
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét