XV. VỢ LẺ
Phận lấy lẽ
- Người giàu có hoặc người hiếm hoi thường có vợ lẽ. Người chịu lấy lẽ
là người: một là vì nghèo hèn, hai là vì sa cơ thất thế, ba là vì tham
giàu, tham danh giá, bốn là vì tuổi trẻ góa chồng, chưa có con, phải
bước đi bước nữa thì mới chịu lấy, chớ con nhà tử tế không mây người
chịu.
Lấy vợ lẽ không mây người cưới xin như khi lấy vợ cả, chỉ dùng lễ cưới sơ sài, đưa ít tiền bạc và nộp cheo cho làng mà thôi.
Người
phú quý có khi lấy năm, lấy bảy vợ lẽ, mỗi người có riêng một dinh cơ,
phận ai người nấy. Người bình thường vì hiếm hoi mà lấy, hoặc là vợ cả
lấy cho, hoặc là tự mình lấy, nhưng cũng phải nói cho vợ cả bằng lòng
mới được. Có khi vợ cả ghen tuông không cho lấy thì chồng lại lấy giấu
mà để ở riêng một nơi.
Đối với chồng - Vợ lẽ đối với chồng
thì trọng về sự nâng khăn sửa túi, hoặc người thì trọng về sự kế tự,
chớ không có trách nhiệm đảm đang công việc nhà chồng như người vợ cả.
Khi nào người vợ cả hèn yếu, không cáng đáng nổi công kia việc nọ, thì cũng cậy về vợ lẽ nhiều.
Vợ
lẽ ở vối chồng, cũng nhiều người rất trọng hậu, hết lòng lo cho chồng,
biết chiều chuộng chồng, biết phân trách nhiệm cho vợ cả. Có người chỉ
cốt lấy chỗ nương nhò, chẳng biết lo lắng cho nhà chồng một tí gì.
Đối với vợ cả -
Vợ lẽ không có quyền bằng người vợ cả, phải phục tòng vợ cả như là
chồng. Được người vợ cả có lượng khoan dung, thì coi vợ lẽ 'như chị em
một nhà. Nếu phải người vợ cả cay nghiệt, thì sai bảo hành hạ như kẻ ăn
người ở, vợ lẽ cũng phải chịu.
Nhiều khi vợ lẽ can cường, không chịu
người vợ cả áp chế thì thường sinh ra sự cãi nhau. Đàn ông thì có người ở
công bình, mà phần nhiều thì hay bênh vực vợ bé. Có khi vợ lẽ cậy được
thế chồng yêu mà lăng ngược người vợ cả, có khi vợ lẽ cậy giàu có của,
lo được cho chồng nên danh phận thì lại khinh bỉ vợ cả mà tranh lấy
quyền trên.
Đôi với con chồng - Con chồng gọi vợ lẽ của
cha là dì ghẻ nếu mẹ mất rồi, phải nương nhờ dì ghẻ, thì người vợ lẽ ấy
có quyền làm kế mẫu, coi được con chồng như con mình, thì con chồng cũng
phải coi mình như mẹ đẻ. Nhưng ít được hiền hậu, nhiều người không
thương đến con chồng.
Tục vợ lẽ cũng là một tục trái với cách
văn minh đời nay, vì là làm cho loài người mất tự do, mất bình đẳng, thì
là trái với đạo công bằng của tạo hóa, tức là không hợp cách văn minh,
vả lại vợ cả vợ lẽ, ít người biết lấy cách hòa thuận ở với nhau, còn
phần nhiều thường hay ghen tuông nhau.
Người chồng cũng ít người khéo khu xử, mà cũng rất khó khu xử cho vừa lòng cả đôi bên. Có câu rằng: "Cai trăm quân không khó bằng cai bốn vó đàn bà".
Vì thế trong nhà hay sinh ra lục đục, chồng ở giữa thật là khó nghĩ,
bênh vợ cả thì vợ lẽ oán, bênh vực vợ lẽ thì vợ cả giận, thành ra gia
đình giảm thất sự vui vẻ. Mà lắm khi người vợ cả ác nghiệt, thì vại dấm
chua cũng khá chê thay! Hoặc gặp phải ngưòi vợ lẽ tai ngược thì cũng khó
chịu! Cầu lấy lớn ra phận lớn, nhỏ ra phận nhỏ, hồ dễ đã được mấy
người.
Song cứ suy cái tình thế trong phong tục ta thì chưa có thể bỏ
được. Ta trọng nhất là việc thừa tự, nếu người vợ cả không có con mà
không lấy vợ lẽ thì không nghĩ đến việc thừa tự, tục cho là bất hiếu, vả
người nước ta, đàn bà thì nhiều mà lại lắm người nghèo khó vất vả. Có
cái tục lấy vợ lẽ cũng giúp được cho nhiều người có chỗ nương nhờ.
Cứ
như thế thì lấy vợ lẽ cũng là phải. Song thiết tưởng có ngươi nên lấy,
có ngưòi không nên lấy. Ai mà lượng cái sức mình có thể bao dung được vợ
lẽ và đàn con của vợ lẽ hãy nên lấy, chớ lấy mà đê cho ngưòi ta khổ sở
và để cho đàn con nheo nhóc thì đừng. Ai mà tin cái tài mình có thế giữ
được hòa mục trong gia đình hãy lấy, chứ lấy mà nay tiếng này mai tiếng
khác, sinh ra tan cửa nát nhà thì đừng. Mà lấy thì phải coi người ta là
một ngưòi vợ khác của mình, chớ đừng coi là kẻ sai khiến của nhà mình,
đừng đê cho vợ lẽ đê tiện, mà cũng đừng đê cho vợ cả mất lòng.
Sau
nữa là cái đạo vợ lẽ ở với chồng, ở với vợ cả, cũng phải giữ hai chữ
kính thuận mới được. Mình đã chẳng may sa cơ thất thế, phận hẩm duyên
hôi, thân cát đằng đà phải nương đến bóng tùng quân thì đừng có nên cậy
nhan sắc, cậy có con, cậy chồng vêu mà hoành hành với người vợ cả, dẫu ở
chung ở riêng mặc lòng', phải cho trên thuận dưới hòa thì mới vui vẻ.
Người vợ cả ở với vợ lẽ, nên giữ lấy lượng bao dong chớ đừng giữ thói ghen tuông mà mang tiếng nhỏ nhen làm bia cho miệng cười.
XVI. CẦU TỰ
Nhà
nào hiếm muộn thì cầu tự. cầu tự có nhiều cách: Người thì uống thuốc
cho bổ huyết, người thì cho tại đất tuyệt đinh, nhờ thầy địa lý dịch mả,
người thì đi lễ bái chùa này miếu nọ để cầu Phật, Thánh độ cho có con.
Về
tháng giêng, tháng hai, vợ chồng thiên hạ thường dắt díu nhau vào lễ
chừa Hương Tích (thuộc phủ Mỹ Đức tỉnh Hà Nội) cầu tự. Trong chùa có một
hang đá, thạch nhũ mọc lổm chổm hai bên, tục gọi là núi Cô, núi Cậu.
Các ngưòi cầu tự đem vàng hương oản lễ đến chùa, rồi thì đem quà bánh
đến chỗ hang thạch nhũ ấy, coi hòn nào thích mắt thì xoa tay vào đầu mà
khấn: Cậu về ở với vợ chồng nhà tôi nhá. Ai nhiều con trai rồi muôn cầu
con gái thì sang dãy núi Cô cũng nói như vậy. Khấn xong lúc trở ra về,
ăn thì thêm bát thêm đũa, đi đò thì trả thêm một xuất tiền cho người lái
đò, làm như đã có một ngưòi đi theo vậy.
Nếu về nhà mà sau vợ có mang sinh con thì mỗi năm phải đem con về chùa lễ tạ ơn Phật.
Có
người về lễ đền Kiếp Bạc (đền thờ ông Trần Hưng Đạo, thuộc tỉnh Hải
Đương) cầu tự. Hạng ngươi này thì phần nhiều là người sinh con khó nuôi,
cho là có tiền oan nghiệp chướng, cho nên đến lễ bái trừ tà thì về sau
đẻ con mối nuôi được. '
Xét cái tục cầu tự của ta, cũng bởi
tin sự quỷ thần mà ra. Tục này từ thượng cổ đã có, như vua Đế Cốc cầu tự
ồ đền Cao Môi mà sinh ra ông Hậu Tắc, ông Thúc Lương Ngột cầu tự ở núi
Ni Sơn mà sinh ra Đức Khổng Tử. Nhưng thiết tưởng toàn là do bụng tin
tưởng mà ra, chớ không có lẽ gì cho đích đáng tin được.
Cứ lấy sự
hiển nhiên mà nói thì người không có con hay là đẻ con mà không nuôi
được, hoặc là vì người đàn ông hay đàn bà có tật bệnh gì, hoặc là vì đẻ
con ra tiên thiên suy nhược khó nuôi, hay là nuôi trái phép vệ sinh thì
không nuôi được. Còn như người chỉ sinh con gái mà không sinh con trai,
cũng bởi có một lẽ riêng nào đó, quyết không có thần thánh nào chủ
trương về việc sinh con đẻ cái gì đâu.
Có người nói rằng: Sự cầu tự
cũng nhiều khi linh nghiệm, xem như các người vợ chồng đã ngoài bốn mươi
tuổi chưa có con, đi cầu tự rồi mới có, mà cũng nhiều khi người con ấy
làm nên thế này thế khác, nếu không nghiệm thì sao thế được.
Thiết
tưởng sự ấy cũng là sự ngẫu nhiên, dẫu chẳng cầu đâu cũng có. vả lại
muôn sự thường hay nên ở lòng người tin tưởng. Cái bụng người ta đã tin
mê ở điểu gì thì lại hay cố’ sức làm cho điều ấy phải nghiệm, vậy thì
lại có một lẽ chắc được, chớ cũng không phải có chi lạ hết.
Còn như
con hay con dở, bởi ở cách dạy dỗ, con thọ con yểu, bởi ở cách dưỡng
sinh, không nên cho là con trời, con Phật mà nhảm quá.
XVII. NUÔI NGHĨA TỬ
Người không có con, thường nuôi con nhà anh em hay là người ngoài
làm nghĩa tử. Nghĩa tử ấy cũng như con đẻ ra.
Cha
mẹ nuôi con phải vun trồng dạy dỗ, con nuôi ở với cha mẹ, ọũng phải
hiếu kính phụng dưỡng, coi như cha mẹ đẻ, mai sau cũng được thừa hưởng
gia tài.
Người phú quý có nhiều con rồi, thường cũng có nuôi nghĩa
tử. Nghĩa tử này, một là vì ngưòi nuôi thương kẻ cơ hàn mà nuôi, hai là
vì người muốn nương thân vào cửa quyền quý mà tình nguyện làm con nuôi.
Những con nuôi ấy có người ở hết lòng trung nghĩa, như Quan Bình ở với
Quan Công, có người ở phản trắc bất nhân như Lộc Sơn ồ với Đường Minh
Hoàng.
Nhiều người nuôi con nuôi từ khi đứa trẻ còn thơ bé, hoặc vì
cha mẹ nó mất sớm, thấy trẻ mồ côi mà nuôi, hoặc vì cha mẹ nó nghèo khó
đem bán, người hiếm hoi thì nuôi cho nó đứng đầu đứng số. Đứa con ấy lớn
lên, nhiều khi không nhớ đến bản thân phụ mẫu là đâu. Mà dẫu cò nhớ
cũng không có phép coi cha mẹ đẻ trọng hơn cha mẹ nuôi được vì cha sinh
không bằng mẹ dưỡng, nếu quên ơn người nuôi thì bất nghĩa.
Ta
trọng nhất là việc kế tự, nếu không có người kế tự cho mình, thì mình
tức là người bất hiếu với tổ phụ. Cho nên không có con, thì phải nuôi,
chủ ý là để mai sau có người giữ hương hỏa cho nhà mình.
Cái bổn tâm
đối với tổ tiên như thế thì cũng phải, nhưng xét cho kỹ thì cũng có điều
nên bàn: Giả thử người bất hạnh mà không có con, nuôi được con anh em
hoặc con nuôi đồng họ, để mà nối dõi tông đường, thì dẫu là con nuôi,
nhưng cũng là huyết mạch, trong một nhà, chẳng hại gì. Còn những người
nuôi con người ngoài, mà thường lại yêu thương quý trọng hơn con anh em,
thì tưởng cũng là không phải.
Về phần người con nuôi, người ta đã có
công nuôi dạy dỗ mình như con, thì mình cũng phải nên mong mà đền báo
cái ơn ấy, chớ đừng nên nghĩ người ta không phải là người sinh ra mình,
mà ăn ở phụ bạc.
Còn như những người thấy người ta có quyền thế mà hạ
cái mình quý báu để xin vào làm con nuôi người ta thì là một thói du mị
nịnh đời, để cầu lấy các sự ước ao của mình, ấy là một cách rất đê
tiện.