Những Mốc Lịch Sử Quan Trọng Của Đồng Bằng Miền Đông:
Ngay từ khi Nguyễn Hoàng được cử vào cai quản vùng đất Thuận Hóa vào năm
1558, ắt hẳn đã có lưu dân người Việt phiêu lưu tìm đất sống ở vùng
miền Đông Nam Kỳ rồi. Đến khi quân Đại Việt chiếm Phú Yên vào năm 1611,
con đường tiến vào đất Thủy Chân Lạp đã được rút lại thật ngắn. Đến năm
1693, vương quốc Champa coi như không còn nữa, biên giới giữa Đại Việt
và Thủy Chân Lạp đã đến vùng Bình Thuận. Tuy nhiên, ngay những năm từ
năm 1620 đến năm 1623, sau khi chúa Nguyễn Phúc Nguyễn gả công nữ Ngọc
Vạn cho vua Chei Chetta II và xứ Đàng Trong đã đặt xong 2 trạm thu thuế ở
các vùng Chợ Lớn và Sài Gòn ngày nay, đã có rất nhiều người Việt đến
khẩn hoang lập ấp ở đồng bằng Miền Đông rồi.
Thật ra, vùng đất Thủy Chân Lạp chỉ trực thuộc vương quốc Chân Lạp trên
danh nghĩa mà thôi, trên thực tế hầu như vùng đất nầy là một hoang địa
kể từ khi vương quốc Phù Nam bị triệt tiêu. Người Khmer, nếu có, chỉ
sống rải rác ở các vùng gò cao. Còn lại những bộ tộc cư dân cổ như Mạ,
Stiêng, Cho-Ro, Cơ Ho, vân vân, cũng sống thưa thớt ở những vùng đồi núi
mà thôi. Khi người Việt đến đây, hình như họ đang đi vào một vùng đất
không người, vùng đất vô chủ, vùng đất không ai muốn tranh chấp với ai.
Lúc đó cù lao Phố, tức vùng Biên Hòa bây giờ là ải địa đầu với đường bộ
lên Cao Miên và ra Trung, cũng như đường thủy xuống Sài Gòn.
Chính vì thế mà chúa Nguyễn đã cho phép Trần Thượng Xuyên lên khai khẩn
vùng này trước tiên, và chẳng bao lâu sau đó vùng Đông Phố đã nghiễm
nhiên trở thành thương cảng lớn bật nhất của xứ Đàng Trong. Trần Thượng
Xuyên đã chiêu tập lưu dân khai khẩn đất hoang, đồng thời ông đã tạo
điều kiện dễ dãi cho thương nhân đến đây trao đổi buôn bán... Vào thời
đó các vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, Giồng Ông Tố, Thủ
Thiêm, Nhà Bè, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu... là những vùng đông cư dân và
kinh tế rất phồn thịnh. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống Suất Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Công việc của Nguyễn Hữu
Cảnh là định danh, phân ranh và đăng ký vào sổ bộ của Việt Nam những đất
đai nào đã trực thuộc Việt Nam vào thời này. Trịnh Hoài Đức đã ghi lại
trong Gia Định Thành Thông Chí như sau: “Quan Kinh Lược Nguyễn Hữu Cảnh
lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước
Long, dựng dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh
Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị.” Như
vậy chính Nguyễn Hữu Cảnh đã xác lập và tuyên bố chủ quyền xứ Đàng
Trong trên vùng đất Nam Kỳ này. Thời đó huyện Tân Bình, tức Sài Gòn bây
giờ trực thuộc phủ Gia Định và Sài Gòn là lỵ sở của Gia Định.
Sự Thành Lập Các Cộng Đồng Cư Dân Tại Miền Đông Nam Phần:
Theo các di tích khảo cổ từ thời Pháp thuộc thì vùng Sài Gòn Gia Định đã
có nhiều bộ tộc cổ sinh sống tại đây từ rất xa xưa. Những tư liệu
nghiên cứu về nhân chủng học ở thời kỳ văn hóa kim khí tại Đồng Bằng
Miền Đông cho thấy cư dân của trung tâm kim khí nầy thuộc nhân chủng
Mongoloid có nét nổi trội của các bộ tộc trong vùng Đông Nam Á
(Indo-Melanésien), chứ không giống như người Mongoloid ở vùng Thái Bình
Dương (Indonesien). Đây là những bộ tộc thiểu số vẫn còn tồn tại đến
ngày nay như người Mạ, Stiêng và Khmer ở vùng biên giới Tây Ninh chạy
dài xuống Mỹ Tho. Như vậy, ngay từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch, vùng mà
bây giờ chúng ta gọi là Sài Gòn Gia Định đã từng là một nơi quan trọng
trong vùng, đã từng là mặt tiền của lưu vực của hai con sông Đồng Nai và
Vàm Cỏ. Có lẽ chính những cư dân vùng nầy vào thời đó đã góp phần xây
dựng nên nền văn hóa Óc Eo cũng không chừng. Tính đến nay, dầu chưa có
bằng chứng xác đáng về mối quan hệ giữa các nền văn hóa miền Đông Nam Kỳ
với các nền văn hóa khác tại Đông Nam Á, nhưng những dấu ấn của nền văn
minh Ấn Độ mà chúng ta tìm thấy qua các di chỉ khảo cổ Óc Eo cũng đủ
cho chúng ta thấy rằng vào những thế kỷ trước Tây lịch, các cư dân cổ
trong vùng Đông Nam Phần có liên hệ với các cộng đồng cư dân khác chẳng
những trong vùng Đông Nam Á, mà còn với các xứ Miến Điện, Tích Lan và Ấn
Độ nữa.
Vào giữa thế kỷ thứ XVII, người Việt bắt đầu tràn xuống sống chung đụng
hài hòa với các bộ tộc bản địa tại đây. Tuy nhiên, ít lâu sau đó vì sự
khác biệt về phong tục tập quán nên đa số người Khmer trong vùng này rút
dần về phía Tây Ninh, gần vùng biên giới Việt Miên, trong khi đó người
Khmer trong vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Châu Đốc vẫn tiếp tục
sống hài hòa với người Việt và người Hoa. Người Mạ ở vùng Mô Xoài, mà
người Việt chúng ta thường gọi họ là “Mọi Bà Rịa,” họ có tục cà răng
căng tai, rất thạo nghề dệt vải có hoa văn rất đẹp. Theo nhà văn Bình
Nguyên Lộc, trước khi người Chân Lạp làm chủ phần đất Nam Kỳ thì người
Mạ sống trong vương quốc Phù Nam từ các vùng Đồng Nai xuống đến Mỹ Tho.
Sau khi Chân Lạp sáp nhập vùng Thủy Chân Lạp vào lãnh thổ của họ, tuy
phải triều cống Cao Miên mỗi năm, người Mạ vẫn là một kiểu tiểu quốc tự
do, có tiểu vương Chê Mạ cai trị khắp vùng Tây Nam, trên lưu vực sông La
Ngà, và về phía Bắc trên cao nguyên Di Linh và vùng Lâm Đồng. Người Mạ
rất hiền lành nên thường bị người Khmer và người Stiêng bắt đem bán làm
nô lệ khắp các nơi. Người Stiêng sinh sống tại các vùng Tây Ninh, Thủ
Dầu Một, Biên Hòa... Họ để tóc rất dài, bới đàng sau gáy, đeo bông tai,
xăm mặt và xăm mình, đàn bà thường mặc váy, còn đàn ông đóng khố. Theo
“Địa Chí Thủ Dầu Một” ấn hành năm 1910, người Pháp gọi người Stiêng bằng
nhiều cái tên khác nhau như “Mọi Hoang,” hay “Mọi Cà Răng,” hay “Mọi
Đồng Nai,” vân vân. Hiện tại bộ tộc Stiêng còn khoảng trên dưới 50 ngàn
người, trong đó có khoảng 40 ngàn người sống rải rác trên các vùng Tây
Ninh, Bình Dương, và Đồng Nai; số còn lại sống trên vùng phía nam cao
nguyên Trung Phần. Trước thế kỷ thứ XVII, vùng Đồng Nai và Mô Xoài là
vùng biên địa giữa hai vương quốc Chân Lạp và Chiêm Thành nên ngoại trừ
hai dân tộc Mạ và Stiêng, vùng này hầu như không có dân cư Chiêm Thành
hay Chân Lạp. Phần lớn đất đai ở vùng này là rừng rậm và đầm lầy hoang
vu với vô số muông thú. Khi người Việt bắt đầu vào khai thác đất Thủy
Chân Lạp thì các bộ tộc Mạ và Stiêng từ từ lui dần về phía Bắc với những
vùng đất cao hơn.
Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm được chứng cớ lịch sử cho thấy lưu
dân người Việt bắt đầu đi vào đất Đồng Nai-Mô Xoài từ lúc nào, có lẽ họ
đã dong buồm xuôi Nam từ khi Nguyễn Hoàng mới vào trấn nhậm đất Thuận
Hóa, hay có lẽ họ đã vào đây từ khi triều đại nhà Trần mới lên thay nhà
Lý vào thế kỷ thứ XII, vì vào thời kỳ này, Trần Thủ Độ tìm cách tiêu
diệt hết di thần nhà Lý, nên một số theo hoàng tử Lý Long Tường dong
buồm về Bắc đến Cao Ly, còn một số khác dong buồm xuôi Nam, nhưng không
thấy sách sử nào nói đến số di thần nhà Lý dong buồm xuôi Nam rồi đi về
đâu. Tuy nhiên, theo Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông Chí,” từ
đời “tiên hoàng đế,” tức là từ thời các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn
Phước Nguyên, người Việt đã đến khai khẩn vùng Mô Xoài. Theo Đại Nam
Nhất Thống Chí thì Mô Xoài là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là vùng
lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân đến để khai phá và mở mang nước
Việt về phương Nam. Tuy nhiên, mãi đến khi vua Miên là Chey Chetta II
cưới nàng công nữ Ngọc Vạn, người Miên gọi là hoàng hậu Sam Đát vào năm
1620, thì lưu dân người Việt mới ào ạt tiến về phương Nam lập nghiệp.
Theo hồi ký của giáo sĩ Christofo Borri, một giáo sĩ người Ý đã sống gần
vùng Qui Nhơn từ năm 1618 đến năm 1622, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã
viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại quân
Xiêm La. Borri cũng diễn tả về phái đoàn của công nữ Ngọc Vạn đi Oudong
như sau: “Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở
trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi
sứ bộ tới Oudong thì dân chúng Khmer, thương nhân người Bồ, Nhật, Trung
Hoa, đã tụ tập đông đảo để tiếp đón và hoan nghênh.”
Vào hậu bán thế kỷ thứ XVII, cộng đồng người Hoa bài Thanh phục Minh
theo chân Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, được chúa Nguyễn cho vào
vùng đất phương Nam khai khẩn các miền Đông Phố và Mỹ Tho. Tại đây
những người Minh Hương nầy đã thành lập những cộng đồng người Hoa hết
sức đặc sắc với những phố sá sầm uất. Tuy nhiên, sau khi quân Tây Sơn
tảo thanh tàn quân Nguyễn Ánh năm 1776, vùng Đại Phố bị tàn phá vì thời
đó người Hoa vùng này yểm trợ Nguyễn Ánh rất đắc lực. Sau khi Đông Phố
bị đốt sạch, người Hoa chạy về vùng Bến Nghé và lập nên vùng Sài Gòn Chợ
Lớn ngày nay. Đây là vùng đất cao nằm hai bên bờ sông Sài Gòn với nhiều
sông rạch nối liền Thị Nghè (rạch Thị Nghè), Hóc Môn, Gò Vấp, Chợ
Lớn... xuống tận Bình Điền, Bình Chánh, Gò Đen, Cần Đước, Cần Giuộc...
Thổ Sản Trên Những Cánh Đồng Miền Đông:
Miền Đông Nam Kỳ là một vùng đồi núi thấp, chạy dài từ biên giới Cam Bốt
đến biển Đông, bắt đầu từ Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Long Khánh
qua vùng Bình Dương, Đồng Nai, cho đến Bà Rịa, Vũng Tàu, có các con sông
Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Bé chảy qua. Miền Đông đất đỏ mang một
nét đặc sắc riêng biệt, vì đây là vùng chuyển tiếp từ vùng rừng núi của
cao nguyên Nam Trung Phần sang vùng đồng bằng sông nước miền Nam. Trên
mười ngàn năm nay, vùng này được bồi đắp bởi phù sa đất đỏ của sông Đồng
Nai lên vùng nham thạch cổ của một vùng núi lửa đã ngưng hoạt động từ
lâu. Đây là vùng bạt ngàn những rừng cao su và những núi đồi ngút ngàn,
bên cạnh những dòng sông đỏ ngầu phù sa. Vùng đất đỏ bụi mù về mùa nắng,
và lầy lội về mùa mưa. Tuy đồng bằng Miền Đông không màu mỡ như đồng
bằng Miền Tây nhưng so với các vùng Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa...
thì vùng này vẫn phì nhiêu mầu mỡ hơn nhiều. Tại đây có rất nhiều nông
sản nổi tiếng như lúa cuống chim, tám thơm, nàng yên, nàng thơm; các
loại nếp thơm, nếp than cũng nổi tiếng không kém. Ngoài ra, miền Đông
còn nổi tiếng với những vườn cây ăn trái như bưởi Biên Hòa, xoài, vú
sữa, chuối, mít, đu đủ, ổi, chôm chôm, măng cụt, sầu riêng... ở các vùng
Bún, Lái Thiêu, Bình Dương. Trái cây và rất nhiều nông sản được sản
xuất lên Sài Gòn và các tỉnh miền Trung. Ngoài việc tưới tẩm ruộng vườn
miền Đông, sông Đồng Nai còn là nguồn nước tiêu xài chính yếu cho cả
miền Đồng Bằng Miền Đông, thủy đạo quan trọng trong việc vận chuyển hàng
hóa khắp các tỉnh miền Đông. Dưới thời Pháp thuộc, miền Đông trở thành
miền đất nổi tiếng với nhiều đồn điền, là vùng đất hứa cho nhiều lưu dân
từ các miền khác của đất nước. Chẳng những trong thời Pháp thuộc, mà
ngay từ lúc đầu mở cõi, vùng đất Đồng Nai và Gia Định là điểm tập trung
lưu dân, trước khi bung ra các miền khác. Ngay từ thời kỳ đầu của cuộc
Nam Tiến, vùng đồng bằng miền Đông là hậu phương lớn cho dân quân đi
khai khẩn miền Tây. Ngoài nông sản, lâm sản, thủy và hải sản, miền Đông
còn một nguồn tài nguyên dồi dào nhất miền Nam, đó là khoáng sản. Từ khi
mở cõi về phương Nam, cả miền Nam chỉ trông mong vào khoáng sản của
miền Đông cung cấp cho toàn bộ công tác kiến trúc và xây dựng. Bên cạnh
nguồn đá xanh (granite) từ các núi Bà Đen, Chứa Chan, và Bà Rá, miền
Đông còn là nơi sản xuất đủ các loại gạch ngói, cát, cũng như các vật
liệu bằng đá ong.
Sự Phân Bố Dân Số Tại Miền Đông Trong Thời Cận Đại:
Về dân số, khi những lưu dân Việt Nam mới đặt chân vào đất Đồng Nai thì
cư dân ở đây chỉ có khoảng vài ngàn người thuộc các sắc dân thiểu số.
Sau khi tướng Trần Thượng Xuyên thành lập xong vùng Cù Lao Phố, thì
khoảng 92 phần trăm là người Việt, người Hoa khoảng 6 phần trăm, còn lại
khoảng 20 dân tộc thiểu số chiếm 2 phần trăm. Trong đó người Chơro có
khoảng 10.000, người Chàm khoảng 6.500, người Khmer khoảng 5.000, người
Gia Ray khoảng 2.500, nhưng người É đê chỉ khoảng non 100 người mà thôi.
Có người cho rằng đợt người Hoa di cư trong đợt “Bài Thanh phục Minh” cùng thời với Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch
thuở nào đã cưới vợ hay lấy chồng Việt Nam và đã bị đồng hóa thành
người Việt hết rồi. Nói như vậy là không hiểu gì về bản chất sinh hoạt
văn hóa của người Hoa. Cộng đồng người Hoa ở hải ngoại tự thuở giờ vẫn
vậy, đàn ông có thể lấy vợ Việt Nam, chứ đàn bà ít khi nào chịu lấy
chồng người Việt lắm. Hơn thế nữa, họ chỉ nói tiếng Việt khi phải giao
tiếp với người Việt Nam mà thôi, còn tại nhà hay nói chuyện với nhau họ
đều dùng tiếng mẹ đẻ mà nói. Hầu như địa phương nào có người Hoa là có
các trường dạy tiếng Hoa mọc lên, mà thường thì các trường dạy tiếng Hoa
lại lớn hơn các trường Việt. Chính vì thế mà người viết bài này dám
đoan chắc rằng những người Hoa ở vùng Biên Hòa, Sài Gòn và Chợ Lớn hiện
tại, đa phần là hậu duệ của các nhóm di thần nhà Minh chạy theo Trần
Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch năm xưa. Đến năm 1776, Cai Bộ phủ Gia
Định là Hiến Đức Hầu Nguyễn Khoa Thuyên đã làm tờ cáo về triều về dân số
vùng Nông Nại như sau: huyện Phước Long thuộc vùng Biên Trấn có hơn 250
thôn với tổng dân số lên tới 8.000 người, và huyện Tân Bình có hơn 350
thôn với tổng dân số hơn 15.000 người. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, theo thống kê năm 1865, dân đinh tại ba
tỉnh miền Đông là 35.778 người; đến năm 1866 tăng lên 39.369 người. Tuy
nhiên, trong lúc người Pháp làm những thống kê nầy thì đa số cư dân
Việt Nam đã tản cư về 3 tỉnh miền Tây, nên mãi đến khi người Pháp chiếm
xong miền Nam vào năm 1867, thì thống kê toàn miền Nam có trên 477.000
người.
Về tôn giáo thì người miền Nam nói chung, người dân ở vùng Đồng Bằng
Miền Đông nói riêng, rất hòa đồng với nhau bất kể niềm tin hay tín
ngưỡng. Chính vì thế mà ở vùng này có sự hiện diện của rất nhiều tôn
giáo từ Phật giáo, chiếm trên 80 phần trăm, Thiên chúa giáo, Cao đài,
Hòa Hảo, vân vân. Đặc biệt, Tây Ninh là nơi sản sanh ra đạo Cao Đài.
Hiện tại Thánh Thất Cao Đài Tây Ninh với một lối kiến trúc hoành tráng
là biểu hiện thiêng liêng nhất cho các tín hữu Cao Đài khắp miền Nam.
Riêng Thiên chúa giáo, dù đã được các cha cố người Bồ truyền bá vào Việt
Nam từ thế kỷ XV, nhưng chỉ mới được du nhập vào miền Đông sau thời kỳ
Pháp chiếm Nam Kỳ. Đặc biệt số tín đồ tại đây tăng lên đáng kể khi 2
triệu người di cư từ Bắc vào Nam trong năm 1954, với chánh sách của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, đặc biệt nâng đỡ cho người theo đạo Gia Tô. Đạo
Tin Lành phát triển mạnh sau thập niên 1960s.
Chú Thích:
(1) Vùng Bà Rịa và Vũng Tàu ngày nay.
(2) Đất đỏ.
(3) Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì vương quốc Bà Lợi có lẽ là một
vương quốc nhỏ nằm trong vùng Đồng Nai và Bà Rịa hiện nay.
(4) Nay là miền Tây Nam Việt.
(5) Vùng Đồng Nai và Bà Rịa ngày nay.
(6) Vùng Bà Rịa và Biên Hòa ngày nay.
(7) Cù lao Thạnh Hội.
(8) Lãnh thổ Việt Nam bao gồm một phần lớn lãnh thổ Hoa Nam, tức
Quảng Đông và Quảng Tây, miền Bắc, và Bắc Trung Việt tới đèo Ngang.
(9) Lãnh thổ Chiêm Thành từ đèo Ngang đến đèo Cù Mông.
(10) Lãnh thổ Phù Nam trên phần đất Việt Nam ngày nay chạy dài từ đèo
Cù Mông đến Kompong Som (Vũng Thơm, ngày nay thuộc Cao Miên). Tuy nhiên,
về phía Tây, nó chạy dài đến Thái Lan và phía tây nam đến eo biển
Malacca (ngày nay thuộc Mã Lai).
(11) Theo một bia ký tại làng Võ Cạnh gần Nha Trang.
(12) Vùng Sài Gòn-Chợ Lớn ngày nay.
(13) Nay thuộc tỉnh Svayrieng.
(14) Chưởi sau lưng người khác.
(15) Diện tích gấp hai lần diện tích vùng châu thổ sông Hồng, nhưng
dân số lại chỉ bằng phân nửa, nên đây vẫn còn là một vùng đầy hứa hẹn
trong công cuộc phát triển của đất nước.
(16) Đà Lạt.
(17) Khoảng 85 mét khối một giây.
(18) Nằm về phía Bắc tỉnh Bà Rịa.
(19) Thuộc vùng Hóc Môn.
(20) Cao hơn mực nước biển.
(21) Chùa Phụng Sơn, trong địa phận Sài Gòn.
Hết Phần Đồng Bằng Miền Đông.
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
***