Dựa
vào các thi phẩm của Tiền Nhân Tàu cũng như Việt, các học giả Việt Nam
đã đưa ra 8 dạng đặc biệt của Đường Luật Thi. Nhưng có lẽ độc đáo nhất
của Việt Nam chính là "Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn".
Đây là một dạng thơ Thất Ngôn Đường Luật, do các thi nhân Việt Nam sửa hai câu Thực hoặc hai Luận từ 7 chữ còn lại 6 chữ.
Đây là một dạng thơ Thất Ngôn Đường Luật, do các thi nhân Việt Nam sửa hai câu Thực hoặc hai Luận từ 7 chữ còn lại 6 chữ.
Dạng thơ này xuất hiện từ thời này? Do ai khởi xướng?
A - Nguồn Gốc và Thời Kỳ Xuất Hiện
Kể
từ khi Nguyễn Thuyên viết bài "Văn Tế Cá Sấu" bằng chữ Nôm, được ca tụng,
đã khiến các thi nhân của ta có thêm động lực, bắt đầu sáng tác thơ Nôm
theo Luật Đường. Thơ Nôm viết theo luật thơ Đường, lần đầu tiên mang tên gọi là
thơ "Hàn Luật" được ghi chép trong " Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" triều Nguyễn do Phan Thanh Giản chủ biên.
Vào Thời Trần,Thơ Nôm phát triển rất mạnh, nhưng hầu hết là các dạng thơ Đường Luật, Lục Bát..., riêng
thơ Nôm Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn không hề xuất hiện trong
triều đại Nhà Trần. Mãi đến thời kỳ đầu của Nhà Hậu Lê, ta mới thấy xuất
hiện trong "Quốc Âm Thi Tập "của Nguyễn Trãi. Từ đó dạng thơ này được
thi nhân các triều Hậu Lê, Nguyễn tiếp tục sáng tác.
Theo bài biên khảo của Nguyễn Phạm Hùng trong hopluu.net :
[Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn (TNXLN))]
"...nó được đánh dấu bởi tên tuổi những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi (1380-1442) với Quốc âm thi tập (trong đó có 186 bài TNXLN trên tổng số 254 bài), Lê Thánh Tông (1442-1497) và các thi sĩ thời Hồng Đức với Hồng Đức quốc âm thi tập (trong đó có 135 bài TNXLN trên tổng số 328 bài), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với Bạch Vân quốc ngữ thi tập y (trong đó có 97 bài TNXLN trên tổng số 161 bài), Trịnh Căn (1633-1709) với Ngự đề Thiên Hoà doanh bách vịnh (trong đó có 10 bài TNXLN), Nguyễn Hữu Chỉnh ( ? - 1787) với Ngôn ẩn thi tập (trong đó có 5 bài TNXLN)...
...Có người cho rằng, thơ
TNXLN xuất phát từ thơ Nôm Đường luật, trải qua những thử nghiệm sáng
tạo mới nhưng bất thành, cuối cùng lại quay trở về với thơ Nôm Đường
luật. Chúng tôi lại nghĩ khác, nó xuất phát từ Đường luật, trải qua
những thử nghiệm sáng tạo với mong muốn "hoán cốt đột thai" để tạo ra
thể thơ mới, "tồn tại song song" với thơ Nôm Đường luật (ngay trong cùng
một tập thơ Nôm của các nhà thơ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm… cùng tồn tại song song hai lối thơ này), nhưng do không tạo được
một thi luật ổn định và vững chắc, nên cuối cùng đã tự tiêu vong. Đến
thế kỷ XVII, XVIII(*), thể thơ này không còn thích hợp nữa ..."
Theo bài Biên Khảo của Trần Trọng Dương trong nguvan.hnue.edu.vn
"...Quãng vài chục thập
kỷ trở lại đây, giới nghiên cứu văn học đã bỏ ra nhiều công sức để đi
tìm lời giải mã cho hiện tượng câu thơ Nôm sáu chữ của nhiều tác giả nổi
tiếng từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Có thể kể đến các ý kiến của Dương
Quảng Hàm, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Ngọc San, Lê Hoài
Nam, Nguyễn Hữu Sơn, Ngô Văn Phú, Phạm Luận, Phạm Thị Phương Thái… Kết
luận hiện nay dễ được chấp nhận hơn cả, là giả thuyết coi đây là một thể
loại mới - một sáng tạo độc đáo của Việt Nam mà người đi đầu là Nguyễn
Trãi. Thể loại mới ấy được định danh là thể “thất ngôn xen lục ngôn”
[Nguyễn Phạm Hùng 2006]. Nguồn gốc của thể thơ này chính là thất ngôn
Đường luật, một thể thơ đồng thời xuất hiện trong hàng loạt thi tập nổi
tiếng và cổ kính như Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân Am thi tập,…
Một số nhà nghiên cứu khẳng định như vậy đã ngầm thực hiện một phương
trình khá bất tiện, rằng Nguyễn Trãi đã “sáng tạo thể loại thất ngôn xen
lục ngôn” bằng cách “cải tạo thất ngôn Đường luật”; ở khía cạnh thi
luật học cổ điển thì “các câu lục ngôn thất luật” ấy là sự phát triển từ
thể thơ gò bó có nguồn gốc Trung Hoa. Sự “sáng tạo/ cải tạo” ấy được
chứng minh bằng cách: các câu lục ngôn/ ngũ ngôn là sự sáng tạo về mặt
số lượng âm thanh và nhịp điệu. Và những nhịp điệu lạ lẫm (thực ra là
thất luật ấy) lại là những đóng góp lớn của Nguyễn Trãi cho văn hóa Việt
Nam..."
Như
thế, chúng ta có thể khẳng định dạng thơ này do cụ Ức Trai khởi xướng và
được các thi nhân đời sau tiếp tục dùng trong sáng tác.
B - Các bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn
Trần Tình Số 9
Bảy tám mươi bằng một bát tay,
Người sinh ở thế mấy nhàn thay.
Lan đình tiệc họp mây ảo,
Kim cốc vườn hoang dế cày.
Nhật nguyệt soi đòi chốn hiện,
Đông hè trãi đã xưa hay.
Ta còn lãng đãng làm chi nữa,
Cây Đánh ĐuNgười sinh ở thế mấy nhàn thay.
Lan đình tiệc họp mây ảo,
Kim cốc vườn hoang dế cày.
Nhật nguyệt soi đòi chốn hiện,
Đông hè trãi đã xưa hay.
Ta còn lãng đãng làm chi nữa,
Tượng có trời bày đặt vay.
Nguyễn Trãi
-----
Bốn cột lang nha cắm để chồng,
Ả thì đánh cái ả còn ngong.
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.
Tám bức quần hồng bay phới phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
Nhổ cọc đem về để lỗ không.
Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Cầu may cuốc nguyệt gánh yên hà
Nào của nào chăng phải của ta
Đêm đợi trăng lồng bóng trúc
Ngày chờ gió thổi tin hoa
Thấy cơ doanh mãn (*) cho hay chửa
Phải đạo trung thường chớ có qua
Dẫu lấy thánh kinh noi thửa học
Ví chưng xuất xử đạo thờ cha
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hầm chớ mó tay
Hồ Xuân Hương
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.
Tám bức quần hồng bay phới phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
Nhổ cọc đem về để lỗ không.
Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
(Nữ sĩ Hồ Xuân Hương sửa bài thơ "Cây Đánh Đu" thành bài Thơ "Đánh Đu" mà chúng ta từng biết)
-----
Đêm thu vô nguyệt
Lề la vặc vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ sao?
Nhân bởi hắc vân ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ hèn sao.
Hằng nga chiếm lấy làm song viết
Thục đế tuồng ni dám ước ao,
Mựa dắng (*) đêm nay trăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế càng cao.
Nguyễn Toàn An
(*) Mựa dắng: Tiếng cổ có nghĩa là “chớ nên bảo rằng”.
Sách Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề ghi chép về Bảng nhãn Nguyễn Toàn An, có đoạn viết:
Ông người làng Thời Cử, huyện Đường An (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh
Hải Hưng), thuở hàn vi phải sung làm lính cắt cỏ nuôi ngựa trong cấm
cung.
Một
đêm trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng quần thần hội họp trước sân điện
đón trăng. Chẳng ngờ đêm ấy trăng thu không tỏ, nhà vua bèn ra đề: “Đêm
Thu Vô Nguyệt” (Đêm trung thu không trăng), sai các quan ngâm vịnh. Bữa
ấy Nguyễn Toàn An đến phiên hầu tiệc, ông cảm xúc nảy nở ra tứ thơ, bèn
mạnh dạn dâng lên.
Nhờ
bài thơ này Nguyễn Toàn An được vua ban thưởng cho rất hậu, lại cho
giải ngũ về nhà theo việc đèn sách. Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ
3 (1472) ông thi đỗ Bảng nhãn.
-----
Nhân Tình Thế Thái 12
Nào của nào chăng phải của ta
Đêm đợi trăng lồng bóng trúc
Ngày chờ gió thổi tin hoa
Thấy cơ doanh mãn (*) cho hay chửa
Phải đạo trung thường chớ có qua
Dẫu lấy thánh kinh noi thửa học
Ví chưng xuất xử đạo thờ cha
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(*) Doanh mãn : Đầy đủ
----
Trách Chiêu HổAnh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hầm chớ mó tay
Hồ Xuân Hương
Nhìn vào các câu 6 chữ, chỉ có bài "Cây Đánh Đu" là phá cách ở luật Bằng Trắc. Các bài còn lại đều giữ đúng Luật Đường Thi. Theo các nhà nghiên cứu, chưa đến 10%
là phá cách Bằng Trắc. Vì thế, mọi người đều đồng ý rằng: Khi làm thơ Đường Luật Thất Ngôn Xen Lục Ngôn, bắt buộc phải giữ đúng Niêm Luật của
Đường Thi.
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn.
Thank you very much
Trả lờiXóaBài viết Tổng quát Phép Họa Thơ Đường Luật Rất rỏ ràng, chi tiết, đầy đủ, trân trọng cảm ơn.
Trả lờiXóaHay
Trả lờiXóahay quá
Trả lờiXóaMình Cảm ơn rất nhiều ạ
Trả lờiXóa