Nói gì thì nói, dù sử Việt hay sử Miên không hề đá động gì đến sự nghiệp
lớn lao của công nữ Ngọc Vạn. Nếu công tâm mà xét về mặt lịch sử, nếu
vua Chey Chetta II không tiến hành cuộc hôn nhân với công nữ Ngọc Vạn
vào năm 1620, nghĩa là Chân Lạp không có sự trợ giúp của xứ Đàng Trong
thì chẳng những xứ nầy không chiến thắng quân Xiêm La trong hai trân
chiến 1621 và 1623, mà rất có thể nó đã bị xóa sổ ngay từ đó. Như vậy,
đối với đất nước và thần dân Chân Lạp, công nữ Ngọc Vạn đáng được ghi
công hay đáng bị oán hận? Riêng đối với Việt Nam, có thể công nữ Ngọc
Vạn đã thực hiện được hơn những gì mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã căn dặn
khi ngài gả nàng về cho Miên vương. Có thể ngày đó chúa chỉ cần có sự
giao hảo tốt với Miên vương để rảnh tay phía Nam mà lo đối đầu với chúa
Trịnh về phương Bắc. Nhưng công nữ Ngọc Vạn đã thực sự khơi nguồn cho
lịch sử Nam Tiến của dân tộc Việt Nam về vùng đất Thủy Chân Lạp. Nhứt
thời nàng đã đem lại mối giao hảo với Chân Lạp và đem về cho xứ Đàng
Trong cả một phần đất bao la đầy hứa hẹn. Chẳng những thế, nàng đã bắt
được một nhịp cầu thật vững chắc cho công cuộc Nam Tiến sau nầy. Chính
nhờ cuộc hôn nhân ấy, chẳng những vua Chey Chetta II phải đền ơn các
chúa bằng cách thật dễ dãi với lưu dân người Việt, mà còn cho quan Việt
Nam vào Prey-Nokor đặt trạm thâu thuế (năm 1623), rồi liên tiếp những vị
vua Miên sau này lại đền ơn sự trợ giúp của các chúa bằng cách dâng
đất. Cứ mỗi lần quân chúa Nguyễn tiến qua Miên giúp Miên vương chống lại
Xiêm La, là mỗi lần triều đình Chân Lạp dâng hiến một số phủ huyện
trong vùng Thủy Chân Lạp cho xứ Đàng Trong. Hết Meso, Longhor, Tầm Bôn,
rồi Lôi Lạp, Trapeang, Bassac, rồi đến Tầm Phong Long... để rồi cuối
cùng non sông Việt Nam liền một dãy từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Nhưng
rất tiếc, do quan điểm hẹp hòi khi chép sử của triều đình các chúa
Nguyễn, nên công lao to lớn của công nữ Ngọc Vạn trong công cuộc mở cõi
và khai khẩn đất phương Nam không được ghi chép lại để lưu truyền cho
hậu thế. Do đó mà ngày nay trên toàn cõi Nam Phần, chúng ta không thấy
có một dấu tích tưởng niệm nào về bà, ngoài ngôi phế tháp Phổ Đồng ở
chùa Kim Cang, nay thuộc ấp Bình Thảo, xã Tân Phước, thị xã Vĩnh An,
tỉnh Đồng Nai. Người viết bài nầy cũng xin đê đầu dâng lên một nén hương
tưởng niệm và cáo trình với “Cô Chín Xinh” hay công nữ Ngọc Vạn và công
nữ Ngọc Khoa rằng công ơn của các ngài sẽ được dân tộc Việt Nam đời đời
tưởng nhớ. Xin hồn thiêng của các ngài hãy tiếp tục phò trợ cho dân tộc
Việt Nam luôn được vững mạnh và sáng suốt như các ngài, từ đó biết đặt
quyền lợi “Tổ Quốc Trên Hết”, trên cả quyền lợi gia đình và đoàn thể để
có thể giữ vững toàn cõi đất đai mà một thời cũng là tâm nguyện dựng
nước và giữ nước của các ngài!
Sông nước miền Nam 4 thế kỷ sau ngày Công nữ Ngọc Vạn về làm Hoàng hậu cho vương quốc Chân Lạp vào năm 1620
Người Long Hồ
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
(3) Theo cuốn Royaume du Cambodge (Vương Quốc Cao Miên) của Moura, có đoạn viết: “Nhà vua mới lên ngôi Chey Chetta II, liền xây một cung điện ở Oudong, nơi ông long trọng cử hành lễ cưới một công chúa , con vua An Nam. Bà này rất đẹp, chẳng bao lâu ảnh hưởng đến nhà vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được phép Chey Chetta II đến lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn... Cũng từ đó, Chân Lạp mất dần lãnh thổ cho người Việt bằng cách dâng tặng, đền ơn đáp nghĩa. Cuộc Nam tiến hoàn thành kể từ lúc người Việt tới Đồng Nai cho đến khi tới Hà Tiên, kéo dài khoảng một thế kỷ rưỡi. Khi về Chân Lạp và trở thành Hoàng Hậu, bà Ngọc Vạn có đem theo một đám tùy nữ để phục dịch trong nội cung. Bà dạy chúng gọi bà bằng ‘Cô Chín’ thay vì hoàng hậu. Từ đó dân Miên cũng theo thói quen ấy gọi bà bằng ‘Cô Chín’. Dân Miên oán hận chúa của họ vì mê ‘Cô Chín’ mà tạo ra đầu dây mối nhợ mất lần lần cả Thủy Chân Lạp. Đối với họ ‘Cô Chín’ tượng trưng cho đất Thủy Chân Lạp.” (4) Có lẽ vua Norodom muốn dùng chữ “Cochin” cũng không chừng? Tuy nhiên, hồi Tây mới qua chiếm Cao Miên (1862), vua Norodom làm gì biết được từ “Cochin” của tiếng Pháp; vì vậy giả thuyết cho rằng ông cũng gọi tên của vùng đất nầy theo kiểu mà dân gian hai vùng Prei Nokor và Kas Krobei đã gọi hồi giữa thế kỷ thứ XVIII có lẽ hợp lý hơn. (5) Christoforo Borri là một giáo sĩ người Ý đã sống gần vùng Qui Nhơn từ năm 1618 đến năm 1622. Trong cuốn hồi ký được xuất bản năm 1631, ông đã diễn tả về phái đoàn của công nữ Ngọc Vạn đi Oudong như sau: “Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới Oudong thì dân chúng Khmer, thương nhân người Bồ, Nhật, Trung Hoa, đã tụ tập đông đảo để tiếp đón và hoan nghênh.” Nghĩa là phái đoàn của công nữ Ngọc Vạn đã được thần dân xứ Chân Lạp đã tiếp rước nàng một cách linh đình và trọng thể, và ngay sau đó nàng được Miên vương phong làm hoàng hậu.” (6) Bây giờ vẫn còn dấu tích của xưởng đóng tàu bên kia sông đối diện với thành Nam Vang.
(7) Có sách nói vua vua Chey Chetta II băng hà vào năm 1628. (8) Bây giờ là Sài Gòn-Chợ Lớn. (9) Nhiều người ngoại quốc lầm tưởng bà là Cô Chín Tàu (Cochinchine). (10) Tên Khmer là Ang Saur, em của Ông Đài. (11) Hai xứ Prei Nokor và Kas Kobei là vùng Chợ Lớn và Sài Gòn ngày nay.
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét