Về sau này đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần thì triều đình nhà nguyễn đã
quá bệ rạc. Ngoài biên cương thì cây cột trụ Nguyễn Cư Trinh cũng vừa
qua đời năm 1767, ngoài ra không còn tướng giỏi, trong triều thì Trương
Phúc Loan lộng quyền, gây nên cảnh sinh linh đồ thán và đưa đến cuộc
khởi nghĩa của nhà Tây Sơn vào năm 1774. Nói về những sự kiện hiển
nhiên về sự vong quốc của Champa và Thủy Chân Lạp, các sử gia ngoại
quốc thường đề cập đến sự kiện xâm lăng và tiêu diệt từ phía Việt Nam.
Tuy nhiên, theo thiển ý, lập luận như vậy e rằng có phần quá khích. Họ
chỉ dựa trên lập luận rằng những phần đất nầy đã từng là của Champa và
Chân Lạp, nếu không bằng vũ lực thì Việt Nam làm sao có thể chiếm được
cả một dãy đất chạy dài từ Thuận Hóa vào đến tận Mũi Cà Mau? Nhưng tại
sao lại có một số người muốn làm sai lệch sự thật lịch sử như vậy? Tất
cả mọi chuyện đều xảy ra kể từ sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt
Nam, Cao Miên và Lào.
Vì muốn gây chia rẽ giữa ba dân tộc chính trên bán đảo Đông Dương để dễ
bề cai trị, nên thực dân Pháp đã tuyên truyền sai sự thật về những diễn
biến lịch sử đã xảy ra tại vùng đất Thủy Chân Lạp. Bên cạnh đó, một số
người Cao Miên quá khích, nhất là những người trong hoàng tộc Cao Miên,
vì thiên kiến cũng như quá khích nên họ đã chẳng những cố tình hiểu sai
sự thật, mà còn tuyên truyền sai sự thật trong quần chúng Cao Miên,
khiến cho họ ngày càng căm thù người Việt.
Nhiều sách sử Cao Miên như quyển ‘Chroniques Royale du Cambodge’ của Mak
Phoen, xuất bản tại Paris vào năm 1981, và quyển ‘Le Cambodge entre le
Siam et le VN de 1775 à 1860’ của Khin Sok, cũng xuất bản tại Paris vào
năm 1991, mặc dầu không nói đến chuyện Việt Nam đánh chiếm đất Cao Miên,
nhưng họ lại cho rằng Việt Nam đã lường gạt Cao Miên mà chiếm đất. Họ
chỉ nói suông chứ không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào chứng minh
được lập luận vô căn cứ của họ. Thiết nghĩ, những người Cao Miên quá
khích nầy cần phải bình tâm nhìn lại lịch sử của toàn vùng, nhất là quá
trình lịch sử của họ với xứ Xiêm La(63). Những người Cao Miên nầy nên
thấy rằng vương quốc Xiêm La chưa có đến một lần thật tình với vương
quốc Cao Miên. Trong quá trình lập quốc, vương quốc Xiêm La đã chiếm của
vương quốc Cao Miên không biết bao nhiêu là đất đai mà kể. Cả một lãnh
thổ rộng lớn của họ ngày nay, chỗ nào không phải là đất của Cao Miên và
Miến Điện?
Bên cạnh đó, nếu nói về việc dâng hiến đất đai, thì không riêng gì Việt
Nam được dâng đất, mà vương quốc Xiêm La cũng được Cao Miên tặng đất, và
được tặng rất nhiều nữa là đằng khác. Thử quay về quá khứ của những thế
kỷ trước thế kỷ thứ XIII, chúng ta sẽ thấy tất cả những tỉnh
Chantaburi, Prachinburi, Xurin, Xixaket, vân vân của Thái Lan ngày nay,
đã từng là đất của Cao Miên. Hãy còn một yếu tố khách quan nhưng không
kém phần quan trọng trong việc chiếm hữu đất đai ở miền Nam của các chúa
Nguyễn, đó là việc các di thần nhà Minh đã tự nguyện xin đến đây khai
khẩn hoang địa rồi xin nội thuộc vào Việt Nam,nhứt là trường hợp của Mạc
Cửu. Còn riêng về yếu tố ‘công pháp quốc tế’ thì những đất đai ở vùng
Thủy Chân Lạp không hẳn là của Chân Lạp, vì kể từ sau khi vương quốc Phù
Nam tan rã, Cao Miên chưa bao giờ kiểm soát hay đặt bộ máy chánh quyền
tại vùng đất nầy. Như vậy, tại vùng đất Thủy Chân Lạp, vương quốc Cao
Miên không hội đủ ba yếu tố chính: lãnh thổ, dân tộc, và chánh quyền.
Khách quan mà nói, nếu nói về kế sách thu phục Champa và Thủy Chân
Lạp của các chúa tiên triều nhà Nguyễn, chúng ta phải thành thực mà nói
rằng các chúa không hề có kế hoạch tiêu diệt các dân tộc này. Từ khi
lập quốc, Champa thường mang quân đi chinh phạt khắp nơi. Về phía Tây
Nam, họ luôn gây chiến với các nước Chân Lạp, và Mã Lai.
Về phía Đông Nam, họ luôn dong buồm chinh phạt các đảo quốc ở biển Nam.
Chính những cuộc chinh phạt này đã làm cho Champa bị kiệt quệ về nhân
lực và tài nguyên, vì họ phải tận dụng vàng bạc để mua sắm vũ khí cũng
như nuôi quân. Và hầu như sau các cuộc chinh phạt họ đều bị các nước đối
phương đánh trả lại và vì thế mà họ phải tốn một thời gian rất dài tái
thiết đất nước của chính họ. Bên cạnh đó, những lần các vua Champa tự
nguyện dâng đất. Nếu nhìn lại lịch sử giao thương giữa 2 nước Việt
Champa chúng ta sẽ thấy, năm 1069 vua Lý Thánh Tông đem quân chinh phạt
Champa là để ổn định biên giới phương Nam chứ không có ý định chiếm đất,
vì vua tôi nhà Lý chỉ bắt vua Champa là Chế Củ về Thăng Long để trừng
phạt thôi, chứ không ép người Chăm phải nhượng đất. Về sau, đến đời vua
Chế Mân, nhà vua dâng đất một cách tự nguyện để đổi lấy nàng công chúa
Huyền Trân. Đây không phải là kế sách của Đại Việt, vì vào thời đó có
rất nhiều quan trong triều cực lực phản đối việc gả Huyền Trân công chúa
cho Chế Mân.
Đến thời các chúa tiên triều nhà Nguyễn, các ngài luôn quan ngại đến sự
quấy nhiễu của Champa do kinh nghiệm lịch sử qua bản chất hiếu chiến của
quân đội Champa. Thêm vào đó, vào cuối thế kỷ thứ XVI khi vương quốc
Champa đang đẩy mạnh việc giao thương với người Bồ Đào Nha làm cho mối
quan ngại của xứ Đàng Trong ngày càng rõ rệt hơn, vì nếu không khéo các
chúa Nguyễn sẽ phải “lưỡng bề thọ địch,” phía Bắc phải đối đầu với quân
nhà Trịnh, còn phía Nam phải đối địch với vương quốc Chiêm Thành đang có
mối giao hảo rất tốt với Bồ Đào Nha. Chính vì thế mà vào năm 1620, chúa
Nguyễn phước Nguyên gả con gái thứ chín là công nữ Ngọc Vạn cho vua
Miên, và liền sau đó năm 1631, chúa lại gả luôn công nữ Ngọc Khoa cho
Chiêm vương là Pô Ro Mê, nhằm tạo sự yên ổn lâu dài cho vùng này.
Có lẽ chính vì lý do này mà những năm sau đó, người ta không còn thấy
người Champa giao hảo với người Bồ Đào Nha nữa. Như vậy, phải công tâm
mà nói, người Champa không bị người Việt tiêu diệt, và người Việt cũng
không chủ trương xóa sổ toàn bộ văn hóa của dân tộc Champa, bằng chứng
là người Việt chưa bao giờ tàn phá những đền đài thánh tích của người
Champa khi các vùng đất này thay ngôi đổi chủ. Dù dưới thời các chúa
không có chánh sách ưu đãi người Champa, cũng không có chánh sách bạc
đãi nào.
Đến thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975), miền Nam đặc biệt dành nhiều ưu
đãi cho người Champa hay các dân tộc thiểu số khác. Phải nói nguyên nhân
đưa đến sự tan rã của vương quốc Champa nằm ngay trong nội bộ của các
vương triều Champa, chứ không phải do bị Đại Việt đánh chiếm. Tuy nhiên,
chính những mối chia rẽ và suy thoát trong nội bộ Champa đã làm cho
cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam nhanh hơn và dễ dàng hơn. Đến
khi Việt Nam bắt đầu tiến vào đất Thủy Chân Lạp thì các chúa tiền triều
nhà Nguyễn cũng dùng một sách lược đã được áp dụng với Champa để rồi
cuối cùng các vua Miên phải tuần tự cắt đi phần đất Thủy Chân Lạp giao
cho Việt Nam. Kỳ thật, phần đất Thủy Chân Lạp không phải là bản địa của
người Miên, mà là bản địa của vương quốc Phù Nam đã bị Cao Miên lấn
chiếm hồi cuối thế kỷ thứ VI, nhưng vì cả một vùng đất bao la bạt ngàn
này luôn bị chìm ngập dưới làn nước phù sa của sông Cửu Long, nên hầu
như toàn vùng không có cư dân người Chân Lạp. Đến khi lưu dân Việt Nam
tràn vào định cư tại đây thì một số người Chân Lạp mới theo chân các
người Việt này mà định cư tại các giồng đất cao thuộc các tỉnh Trà Vinh,
Sóc, Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá và Châu Đốc. Bên cạnh đó, trong
quá trình dựng nước và giữ nước, cha anh chúng ta đã hy sinh quá nhiều
xương máu mới để lại cho chúng ta một dãy giang sơn gấm vóc như ngày hôm
nay.
Tuy nhiên, trong tiến trình Nam tiến, dân tộc Việt Nam đã gặp rất nhiều
thuận lợi trong việc thu phục Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp. Biên giới
phương Nam thời kỳ nhà Ngô thu hồi nền độc lập là vùng núi non tỉnh
Thanh Hóa, đến năm 1069, vua Lê Đại Hành đã thu phục các vùng Hà Tĩnh,
Quảng Bình và phía Bắc Quảng Trị, đến năm 1306 Đại Việt làm chủ phần đất
Quảng Nam và Quảng Ngãi, năm 1402 làm chủ Qui Nhơn, năm 1471 làm chủ
Phú Yên, 1611 làm chủ Khánh Hòa, 1653 làm chủ Phan Rang, 1693 làm chủ
Phan Thiết, và cuối cùng năm 1757, xác lập chủ quyền trên toàn cõi Nam
Kỳ.
Đặc biệt nhất là với chánh sách khôn khéo và mềm dẻo mà chỉ trong vòng
chưa đầy một thế kỷ rưởi, các chúa tiền triều nhà Nguyễn đã thu phục
toàn bộ đất Thủy Chân Lạp. Tóm lại, phải khách quan mà
nói, trên bước đường Nam Tiến về miền đất hoang vu nầy, cha anh chúng ta
đã phải đương đầu với quá nhiều thử thách từ đất đai đến thiên nhiên và
sơn lam chướng khí. Vào thế kỷ thứ XVII, miền đất Thủy Chân Lạp hãy còn
là một miền đất hoang vu, đầy muỗi mòng, rắn rít, hùm beo, và cá
sấu...Trên từng tấc đất ngọn cỏ, cha anh chúng ta đã phải đương đầu với
không biết bao nhiêu là bất trắc của đất đai và thiên nhiên. Người Việt
Nam chúng ta đã phải can đảm lắm, phải sáng tạo lắm mới có thể vượt qua
được những tình huống khắc nghiệt của thiên nhiên, để cuối cùng được
sống đồng điệu với thiên nhiên, và đồng điệu ngay cả với dân chúng bản
địa tại những vùng đất mới nầy. Chính nhờ vậy mà trong suốt cuộc Nam
Tiến, dân tộc chúng ta luôn có sự kính trọng của cư dân bản địa, cũng
như những dân tộc khác như Lào, Minh Hương, Champa, và Chân Lạp... Và
cũng chính nhờ vậy mà trên dãy đất hình cong như chữ ‘S’ dài trên 2.000
cây số nầy mới có được một dân tộc gần như thuần nhứt, thuần nhứt ngoài
sức tưởng tượng của mọi người, đến độ ngày nay nếu chúng ta đi đến những
vùng đất đã từng mang tên Champa hay Thủy Chân Lạp, ngoài những ngôi
tháp cổ của Champa hay Chân Lạp, người ta không thể không tin rằng đây
không phải là vùng đất của Việt Nam.
Tuy nhiên, để có được một dãy non sông gấm vóc như ngày hôm nay, cha anh
chúng ta đã phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu và mồ hôi nước mắt.
Từng tấc đất, từng tấc núi, từng tấc sông, tấc biển... là từng tấc xương
máu và mồ hôi nước mắt của tiền nhân. Có ai biết được cha anh chúng ta
đã phải hy sinh biết bao nhiêu sinh mạng khi trao lại cho chúng ta một
vùng đất phương Nam phồn thịnh? Chúng ta phải luôn nhớ như vậy, để thấy
rằng tại vùng đất Thủy Chân Lạp nầy, cha anh chúng ta chưa hề xâm lăng
và chiếm lãnh đất đai của Thủy Chân Lạp. Ngược lại, người Việt chúng ta
đã đổ ra không biết bao nhiêu xương máu mà người Chân Lạp không dám đổ
ra, người Việt chúng ta chỉ tiếp tục khai phá vùng đất mà Chân Lạp thừa
hưởng của người Phù Nam nhưng chưa từng có kế hoạch khai phá và định cư,
cũng như chưa từng xác lập chánh quyền trên vùng đất này. Thấy như vậy
để biết được những hy sinh cao cả của tiền nhân. Thấy như vậy để những
người hậu bối chúng ta phải luôn đặt quyền lợi của ‘Tổ Quốc Trên Hết’,
trên tất cả mọi quyền lợi của gia đình hay đoàn thể. Ngày trước có tên
bán nước Trần Ích Tắc sang Tàu cầu cứu, sẵn sàng dân đất dâng biển để
được nắm quyền cai trị về mình; rồi sau nầy có Lê Chiêu Thống cũng lăm
le rước ngoại bang về dày xéo quê hương. Dưới thời Tây Sơn hưng khởi,
chỉ vì muốn nắm quyền cai trị cho dòng họ mình mà vào năm 1787 Nguyễn
Ánh đã sẵn sàng đưa hoàng tử Cảnh làm con tin theo Bá Đa Lộc sang Pháp
ký hiệp ước Versailles, dâng hải cảng Hội An và đảo Côn Sơn, cũng như
cho Pháp nhiều quyền lợi về kinh tế để được sự trợ giúp về quân sự.
Trong thời cận đại cũng không thiếu gì những đảng phái sẵn sàng dâng đất
dâng biển cho giặc phương Bắc chỉ mong được chúng cho làm Thái Thú để
tiếp tục đè đầu đè cổ chính dân tộc mình. Nói tóm lại, tất cả những hành
động dâng đất dâng biển cho ngoại bang, dù chỉ là một tấc đất hay một
ngọn cỏ của tiền nhân để lại, hay dù do bất cứ lý do gì, đều là những
hành động bán nước không thể tha thứ được. Những người kế thừa chúng ta
phải luôn thấy như vậy để chúng ta luôn có nhiệm vụ phải bảo vệ và phát
triển từng tấc đất ngọn cây, không để mất đi tấc đất tấc biển nào vào
tay bất cứ ai!
Chú Thích:
(1) Từ Kambuja có nghĩa là những đứa con của Kambu, tên của một thủ
lãnh của bộ tộc nầy. Sau nầy người Pháp đã lấy tên nầy để gọi nước
Chenla, tức Chân Lạp ngày trước. Theo Phan Huy Xu & Mai Phú Thanh
trong “Địa Lý Đông Nam Á”, Hà Giang: NXB Giáo Dục, 1999, tr. 61, ngày
nay Campuchia nằm ở tây nam bán đảo Đông Dương, giáp Thái Lan, Lào và
vịnh Thái Lan. Campuchia có diện tích khoảng 181.000 cây số vuông. Trong
đó đồng bằng chiếm ¾ và núi đồi chiếm ¼ diện tích toàn quốc. Dãy núi
Dangrek dài khoảng 300 cây số chạy theo hướng tây-đông. Cư dân của
Campuchia đa số là tộc người Khmer, một nhánh của người Indonésien. Vào
thế kỷ thứ VI sau tây lịch, Bhavavarman I đem quân đánh và thu phục toàn
bộ lãnh thổ của vương quốc Phù Nam. Đến thế kỷ thứ VIII Chân Lạp bị
khủng hoảng và rối ren về chính trị nên bị người Java sang đánh chiếm,
đến đầu thế kỷ thứ IX vua Jayavarman II giành được độc lập và thành lập
vương triều Angkor rực rỡ với đỉnh cao là nền văn minh Angkor từ thế kỷ
thứ IX đến thế kỷ thứ XV. Từ năm 1473 đến cuối thế kỷ thứ XVI, Campuchia
bị người Xiêm La lấn chiếm toàn bộ khu vực sông Ménam và vùng
cao nguyên Korat, khiến cho diện tích Campuchia bị thu nhỏ lại như ngày
nay. Năm 1859 vương triều Norodom bắt đầu và năm 1863 Campuchia bị Pháp
bảo hộ, mãi đến năm 1945 mới giành lại được độc lập.
(2) Phía bắc Campuchia và Nam Lào ngày nay.
(3) Ngày nay thuộc Thái Lan.
(4) Thuộc Nam Dương ngày nay.
(5) Theo Encyclopédie Encarta 2001, article sur le Cambodge, cả hai
thành Angkor Wat và Angkor Thom đều nằm trong tỉnh Siemreap ngày nay.
Trong số các đền đài trong tỉnh Siemreap còn xót lại thì Angkor Wat và
Angkor Thom, được xây dựng vào thế kỷ thứ XII là vĩ đại nhất. Angkor Wat
có chiều dài khoảng 1.000 mét, rộng khoảng 850 mét; tuy nhiên, diện
tích tổng thể của toàn vùng lên đến khoảng 100km2. Năm 1431, người Xiêm
kéo đến tàn phá cả vùng Angkor, vương triều phải dời về Phnom Penh vào
năm 1434. Đến thế kỷ thứ XVI, kinh đô lại phải dời về Oudong, rồi sau đó
mới thiên di trở lại Phnom Penh lần nữa vào năm 1866 dưới thời vua
Norodom I. Từ khi người Chân Lạp rời bỏ vùng Angkor, đế đô nầy bị chìm
ngập trong hoang vắng cho đến năm 1851, nó mới được một nhà côn trùng
học người Pháp tên Mouhot phát hiện. Năm 1880, thực dân Pháp cho trùng
tu lại đế đô nầy.
(6) Người xứ Nam Dương ngày nay.
(7) Lục Chân Lạp là địa phận của nước Cao Miên, Hạ Lào và Trung Lào ngày nay; và Thủy Chân Lạp là miền Nam Việt Nam ngày nay.
(8) Ponhea Yat tức Soryopor (1432-1467), người kế thừa hợp pháp của Chân Lạp thời bấy giờ.
(9) Tưởng cũng nên nhắc lại, nguồn gốc của người sáng lập nên triều
đại Ayutthaya của Xiêm La; tuy nhiên, theo truyền thuyết kể lại thì có
một vị vua tên Traitrung tại một vương quốc nhỏ thuộc một trong những bộ
tộc Thái, nằm về phía Nam tỉnh Vân Nam, cảm thấy rất buồn nản vì tình
trạng của một cô công chúa không chồng mà lại có con, vì lở ăn trái cà
do Saen Pom, một tên làm vườn tưới bằng nước tiểu của hắn. Sau đó nhà
vua quyết định tống khứ cô công chúa cùng con nàng đi theo tên Saen Pom
ra khỏi kinh thành. Trời Đế Thích thấu hiểu nỗi khổ của ba người đang
lang thang trong rừng thẳm, nên đã ban cho Saen Pom ba điều ước, và Saen
Pom đã ước sao cho thân thể biến đi những mục cốc xấu xí, ước có được
một vương quốc để trị vì, và ước được có một cái nôi bằng vàng cho đứa
con của mình. Tất cả ba điều ước đều được Trời Đế Thích cho Saen Pom
toại nguyện. Từ đó đứa bé được gọi là vị hoàng tử có chiếc nôi vàng, hay
Chao-U-Thong. Từ đó Saen Pom trở thành vị vua đầu tiên, và ông đặt tên
cho vương quốc mình là U-Thong, ngày nay nằm trong địa phận tỉnh Suphan
Buri. Đến đời vua Phya U-Thong, một trận dịch hạch khiếp đảm đã khiến
cho vương quốc U-Thong phải di chuyển xuống vùng Ayodhya hay Ayutthaya.
Đây là chỗ hội tụ của ba dòng sông lớn: sông Chao Phya, sông Lop Buri,
và sông Pasak, lại không xa bờ Ấn Độ Dương là mấy, nên vương quốc
Ayutthaya phất lên từ đó. Sau ba năm chuẩn bị, vua Phya U-Thong đã lập
nên kinh đô vào năm 1350 và đổi danh hiệu là Ramathibodi I. Chính vua
Ramathibodi I là người đã mở mang bờ cõi khiến vương quốc Ayutthaya bao
gồm cả xứ Sukhothai, miền Nam Miến Điện, bán đảo Mã Lai, xứ Chiang Mai
và xứ Chenla, tức Chân Lạp. Vào thời kỳ nầy, tuy chính vương quốc
Ayutthaya đã làm cho Angkor suy tàn, nhưng ảnh hưởng của Angkor lại rất
mạnh mẽ trong đời sống hàng ngày của nhân dân trong vương quốc
Ayutthaya, nhất là quan niệm ‘Thiên Vương’, nghĩa là vừa là vua, mà cũng
là một vị trời của nền văn hóa Angkor đã khiến cho vị quốc vương Thái
Lan trở thành vị đứng đầu triều đình mà cũng đứng đầu giáo hội. Ngôn ngữ
của Xiêm La cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi ngôn ngữ Khmer, chẳng những
trong các nghi lễ tôn giáo hay triều đình, mà còn trong cuộc sống hàng
ngày nữa. Chính vua Ramathibodi I là vị quốc vương đầu tiên đã thiết lập
nên chế độ phân quyền tại vương quốc Xiêm La ra làm bốn phần: hoàng
gia, nội vụ, tài chánh và nông nghiệp. Năm 1390, vua Ramesuen đánh chiếm
Chiang Mai; sang năm 1393 lại tấn công thẳng vào Angkor. Tuy nhiên, mãi
đến năm 1431, vua Boromaraja II mới xâm chiếm hoàn toàn đế đô Angkor
của vương quốc Khmer. Cũng vào thời kỳ nầy, vương quốc Ayutthaya và
Chiang Mai lại tách ra làm hai vương quốc với hai kinh đô khác
biệt, nghĩa là vương quốc Xiêm La đang lâm vào cảnh nội chiến xảy ra
trong suốt hai thế kỷ. Đến đời vua Boroma Trailokanath, hay còn gọi là
vua Trailok, trị vì từ năm 1448 đến năm 1488. Chính vị vua nầy đã cải tổ
toàn bộ nền hành chánh quân chủ của Xiêm La, và ảnh hưởng của sự cải tổ
nầy vẫn kéo dài đến thế kỷ thứ XIX. Nhà vua đã tập trung quyền hành vào
tay triều đình trung ương, qui định lại về sở hữu ruộng đất, bổng lộc
cho quan quân, cũng như công việc lao động của thường dân. Trong đạo
luật triều đình, tức Palace Laws, nhà vua đã ấn định lại thứ hạng của
hoàng tộc và nhiệm vụ của quan lại. Đến năm 1511, vua Ramathibodi II đã
cho phép người Bồ buôn bán trên đất Thái để đổi lấy súng đạn và nhiều
loại vũ khí khác. Chính các quân nhân Bồ Đào Nha đã góp phần không nhỏ
trong việc giúp vua Ramathibodi II đánh chiếm Chiang Mai. Trong khi
Ayutthaya và Chiang Mai liên tục đánh nhau thì vua Tabinshweti của xứ
Pegu, tức Miến Điện ngày nay, đã cất quân đánh vua Mahachakrapat của xứ
Ayutthaya, nhưng nhờ lòng dũng cảm của hoàng hậu xứ nầy mà quân Miến
Điện không chiếm được xứ Ayutthaya. Năm 1569, quân Miến lại tấn công
vương quốc Ayutthaya, lúc nầy vua Mahachakrapat quyết định cầu viện đến
sự giúp đỡ của người Bồ, nhưng cuối cùng vua Mahachakrapat cũng bị người
Miến bắt giữ. Miến Điện cho phép phó vương Thamaraja tiếp tục cai trị
xứ Ayutthaya như một chư hầu của Miến Điện. Đến năm 1584, con trai lớn
của vua Mahachakrapat là Naresuen cùng với em trai là Ekatotsarot nổi
lên đánh đuổi quân Miến ra khỏi bờ cõi và gianh lại độc lập cho vương
quốc Ayutthaya. Năm 1590, Naresuen lên ngôi vua và phát triển kinh đô
Ayutthaya đến chỗ cực thịnh. Năm 1605, em trai của Naresuen là
Ekatotsarot lên ngôi vua, ông chăm lo phát triển kinh tế, nhất là trong
việc giao thương với các quốc gia Tây phương. Đến năm 1610, vua Songtham
lên ngôi, cũng tiếp tục chánh sách mở cửa của các vua Naresuen và
Ekatotsarot. Đến năm 1655, người Nhật đã trợ giúp cho vị nhiếp chính là
Prasat Thong soán ngôi vua Ekatotsarot, và triều đình mới nầy vẫn tiếp
tục mở cửa buôn bán giao thương với các nước Tây phương. Tuy nhiên, sau
khi con trai của vua Prasat Thong là Narai qua đời, các vị vua kế nghiệp
đã chấm dứt chính sách mở cửa và Thái Lan rơi vào vị thế cô lập trong
suốt 150 năm. Mãi đến năm 1782, tướng Chao Phya Chakri đứng lên đảo
chánh, vua Taksin phải thoái vị trong cơn bệnh hoạn, và tướng Chao Phya
Chakri lên ngôi lập nên triều đại Chakri, lấy niên hiệu là Ramathibodi
mà sau nầy người Thái gọi là vua Rama I, nhà vua dời kinh đô xuống
Bangkok cho tới ngày nay.
(10) Cư dân trong các đồn điền nầy vừa là lính bảo vệ mà cũng vừa là nhân khẩu canh tác và sản xuất lúa gạo cho triều đình.
(11) Vùng Sa Huỳnh ngày nay.
(12) Không rõ họ, đang làm chủ sự đạo Quảng Nam.
(13) Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, nxb Tân Việt, 1964, tr. 327.
(14) Chúa Nguyễn Phúc Nguyên trị vì xứ Đàng Trong từ năm 1613 đến năm 1635.
(15) Nghĩa là lúc đó lưu dân và quân đội xứ của Đàng Trong đã vượt
qua các vùng đất từ Phan Thiết đến Biên Hòa để tiến thẳng về vùng Thủy
Chân Lạp, tức Nam Kỳ ngày nay.
(16) Trong tỉnh Kompong Luông của Campuchia ngày nay.
(17) Tức công nữ Ngọc Vạn. (18) Tức vùng Chợ Lớn và Sài Gòn ngày nay. (19) Lúc nầy quân Chân Lạp có sự trợ giúp của xứ Đàng Trong.
(20) Ngày nay là các vùng Bà Rịa, Biên Hòa, Chợ Lớn và Sài Gòn.
(21) Tức vùng Quảng Bình ngày nay.
(22) Vị tướng mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã sai đi dẹp loạn hai năm trước đó.
(23) Nguyễn Phúc Vinh, còn có tên là Nguyễn hữu Vinh, tên thật là Mạc
Cảnh Vinh, con của Mạc Cảnh Huống, có vợ là con gái đầu lòng của chúa
Sãi tên là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, nên được đổi tên họ sang Nguyễn Phúc
Vinh.
(24) Có nghĩa là chưa từng được ai khai thác.
(25) Cần Thơ chỉ mới được thật sự khai thác từ khi người Pháp chiếm toàn bộ Nam Kỳ vào sau năm 1867 mà thôi.
(26) Thời bấy giờ dinh Trấn Biên là vùng Phú Yên ngày nay.
(27) Batom Reachea, trị vì Chân Lạp từ năm 1660 đến năm1672. (28)
Chey Chetta III vừa là cháu mà cũng vừa là rể của vua Batom Reachea.
(29) Hồi nầy Cai Cơ Nguyễn Dương Lâm đang chỉ huy đạo Nha Trang, thuộc
dinh Thái Khương.
(30) Tức vùng Bà Rịa ngày nay. (31) Thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay.
(32) Tên Khmer của đảo Phú Quốc ngày nay.
(33) Vùng Kampot (thuộc Cao Miên) và Hà Tiên ngày nay.
(34) Theo giáo sĩ Labbé, năm 1710, số người Minh Hương tại miền Nam
đã lên tới trên 20.000, tập trung tại các vùng cù lao Phố và Đại Phố Mỹ
Tho.
(35) Có sách viết là Nguyễn Hữu Kỉnh hay Nguyễn Hữu Kính.
(36) Nghĩa là kể từ năm 1698, vùng Biên Hòa và Gia Định đã chính thức
được sáp nhập vào bản đồ Việt Nam, thiết lập thôn xã, và đặt quan cai
trị.
(37) Biên Hòa và Gia Định.
(38) Nặc Yêm là con trai của Nặc Nộn.
(39) Nặc Thâm là con trai của Nặc Thu.
(40) Mỹ Tho và Long Hồ.
(41) 12 dinh nầy bao gồm Chánh dinh (Phú Xuân), Cựu dinh (Ái Tử),
Quảng Bình dinh, Vũ Xá dinh (Lưu Đồn), Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh,,
Phú Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên dinh, Phiên
Trấn dinh, và Long Hồ dinh.
(42) Các vùng Tân An và Gò Công ngày nay.
(43) Ngày nay là các vùng Trà Vinh và Sóc Trăng.
(44) Ngày nay là các vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu, Sa Đéc, một phần của Cao Lãnh, và một phần của Rạch Giá.
(45) Cần Bột, Hương Úc, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh.
(46) Vùng Sa Đéc ngày nay.
(47) Vùng Cà Mau ngày nay.
(48) Vùng Cần Thơ ngày nay.
(49) Vùng Sóc Trăng và Bạc Liêu ngày nay.
(50) Đất Hà Tiên thời bấy giờ bao gồm các vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cần Thơ.
(51) Biên Hòa ngày nay.
(52) Tức vùng Bình Thuận ngày nay.
(53) Các vùng Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Thủ Dầu Mộ, và Biên Hòa ngày nay.
(54) Các vùng Tây Ninh, Hậu Nghịa, Gia Định và Tân An ngày nay.
(55) Từ chợ Quái đến Gò Cây Mai. (56) Tức chùa Phụng Sơn ở Sài Gòn ngày nay.
(57) Cuộc thiên di thứ nhất vào năm 1558 khi chúa Nguyễn Hoàng và
đoàn tùy tùng hành trình vào đất Thuận Hóa. (58) Các vùng Tân An, Gò
Công và Mỹ Tho ngày nay.
(59) Khoảng giữa Mỹ Tho và Bến Tre.
(60) Dinh Long Hồ xưa là vùng đất mà bây giờ bao gồm cả một vùng đất
rộng lớn bao gồm Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre, Cần Thơ...
(61) Nằm trong địa phận các tỉnh Đồng Tháp và An Giang ngày nay.
(62) Vùng Tân Châu hồi nầy có tên là ‘Trường Bả Canh’, một trong chín
điểm thu thuế lúa thóc của chúa Nguyễnở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
(63) Sau năm 1959, vương quốc Xiêm La được đổi tên thành vương quốc Thái Lan.
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét