Tổng Quan Về Lịch Sử Chân Lạp:
Vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Kỳ, Nam Phần, Nam Bộ, hay Đất
Phương Nam... đã từng trực thuộc vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ I đến
thế kỷ thứ VI sau Tây lịch. Từ sau thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ XVII,
trên danh nghĩa, vùng đất nầy trực thuộc vương quốc Chân Lạp. Trong thời
kỳ Phù Nam hưng thịnh thì Chân Lạp chỉ là một phiên quốc của Phù Nam mà
thôi. Có lẽ vì các vua chúa Phù Nam bóc lột quá hà khắc, nên một sắc
tộc có tên Kambuja(1) tại vùng Korat(2) đã đứng lên quật khởi, rồi sau
đó họ tràn xuống vùng Biển Hồ, đánh đuổi người Phù Nam để lập nên vương
quốc Chenla vào thế kỷ thứ VI.
Sau khi vương quốc Phù Nam tan rả, một số cư dân Phù Nam chạy sang tỵ
nạn tại vùng Ménam(3) và Miến Điện, một số chạy lên vùng Tây Nguyên Việt
Nam, và một số dong buồm chạy về các vùng Nam Đảo(4). Sau khi đánh tan
quân Phù Nam, bộ tộc Kambuja đặt tên cho vương quốc mình là Chenla (Chân
Lạp) và đóng đô tại vùng Angkor(5).
Đến thế kỷ thứ VII, vương quốc Chân Lạp bị chia ra làm hai vùng: Lục
Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Vào hậu bán thế kỷ thứ VIII, Chân Lạp bị
người Java(6) đánh chiếm, mãi đến năm 802, vua Jayavarman II mới đánh
đuổi được người Java ra khỏi lãnh thổ và thu hồi nền độc lập.
Kể từ đây, vương quốc Chân Lạp bắt đầu phát triển đến đỉnh cao rực rỡ
nhất của nó. Trong khoảng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XII, Chân Lạp
đã phải đánh nhau triền miên với Champa, và nhiều lần Champa mang quân
sang chiếm đóng kinh đô Angkor. Trong suốt thế kỷ thứ XII, cuộc chiến
tranh giữa Champa và Chân Lạp kéo dài suốt một thế kỷ, kinh đô Angkor đã
được làm đi làm lại nhiều lần vì bị chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, đến
hậu bán thế kỷ thứ XII, đầu thế kỷ thứ XIII, dưới thời vua Jayavarman
VII (1181-1201) là thời kỳ huy hoàng nhất của vương quốc nầy. Lúc đó
Chân Lạp là một vương quốc hùng mạnh và rộng lớn nhất tại vùng Đông Nam
châu Á. Về phía tây bắc, vương quốc nầy giáp với Miến Điện và Trung Hoa;
về phía đông bắc, giáp với Nam Lào (vùng Paksé); về phía tây nam, giáp
với Mã Lai; và về phía đông nam, vương quốc nầy bao trùm cả vùng phía
Nam vương quốc Champa và Thủy Chân Lạp(7).
Năm 1336, một người làm vườn Thượng Uyển tên Ta Chay đã nổi lên giết
vua, rồi tự xưng làm vua. Đến năm 1340, Ta Chay mất, con trai là Nippean
Bat lên ngôi (1340-1346). Lúc nầy, đất đai của vương quốc Chân Lạp đã
bị mất dần vào tay của người Xiêm La và Lào. Đến năm 1351, sau khi người
Xiêm tấn công dữ dội và tiến chiếm đế đô Angkor, Chân Lạp phải dời đô
về Ayuthya. Mãi đến năm 1357 người Chân Lạp mới tái chiếm được Angkor
Wat, nhưng nơi nầy đã bị chiến tranh tàn phá quá nhiều.
Dưới thời vua Barom Râma (1363-1373), vương quốc Chân Lạp gửi sứ thần
sang giao hảo với triều đình nhà Minh bên Trung Hoa, và Chân Lạp được
yên ổn trong suốt 10 năm.
Đến năm 1373, vua Xiêm là Ramusuen lại kéo quân sang đánh Angkor, và
cuộc chiến tranh nầy kéo dài trong suốt nửa thế kỷ, nhưng cuối cùng
Ramesuen chiếm được Angkor, bắt giết vua Chân lạp và giam giữ hơn 70
ngàn tù binh. Ramesuen phong cho con mình là Ento lên làm vua xứ Chân
Lạp, nhưng ít lâu sau đó thì hoàng thân Chau Ponhea của Chân Lạp nổi lên
giết chết Ento rồi lên ngôi vua. Sau khi Chau Ponhea mất, con là Ponhea
Yat lên thay và trị vì Chân Lạp và tiếp tục chiến tranh với Xiêm La
trong suốt 20 năm.
Năm 1432, toàn bộ quân Xiêm đã bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ của Chân
Lạp, Ponhea Yat(8) tiếp tục cai trị Chân Lạp đến năm 1467.
Năm 1434, vua Soryopor dời đô về Nam Vang (Phnom Penh) và xây dựng một
hệ thống phòng thủ kiên cố hơn. Khi Soryopor qua đời, thì triều đình
Chân Lạp hỗn loạn trong suốt 7 năm vì tranh giành ngôi vị. Đến năm 1474,
Thommo Reachea (1474-1494), một hoàng thân thân Xiêm La đã được người
Xiêm đưa lên làm vua sau khi hoàng thân nầy chịu nhường đứt hai tỉnh
Korat và Chantaboun cho Xiêm La. Sau khi Thommo Reachea mất vào năm
1494, triều đình Chân lạp lại rơi vào cảnh hỗn loạn vì tranh chấp ngôi
vị lần nữa.
Năm 1505, hoàng thân Ang Chan I từ Vọng Các về lên ngôi vua, nhưng vị
vua nầy lại không chịu thần phục Xiêm La, nên năm 1510, vua Xiêm lại xua
quân chiếm tỉnh Siem Rệp, nhưng bị quân Chân Lạp đẩy lui. Sau đó Ang
Chan I dời kinh đô về Lovek (La Bích).
Năm 1560, vua Barom Reachea thu hồi được các tỉnh Korat và Chantaboun,
nhưng đến năm 1583 quân Xiêm lại tiến chiếm các tỉnh Battambang, Pursat
và Lovek, đốt phá hết cung điện của nhà vua, và bắt hoàng thân Soryopor
đem về Vọng Các. Năm 1603, Soryopor được người Xiêm cho về nước, lên
ngôi vua (1603-1618). Đây là vị vua thân và thần phục Xiêm La về mọi mặt
chánh trị, kinh tế và văn hóa. Vua Soryopor bắt buộc triều thần Chân
Lạp phải ăn mặc và áp dụng đúng theo nghi lễ của người Xiêm(9).
Đến năm 1618, dưới áp lực của triều đình, vua Soryopor phải thoái vị và
nhường ngôi cho con trai là Chey Chetta II. Kể từ vị vua nầy, triều đình
xứ Chân Lạp bắt đầu có hai khuynh hướng, một là thân Xiêm và hai là
nghiêng về phía xứ Đàng Trong của Việt Nam. Tuy nhiên, dưới thời vua
Chey Chetta II, triều đình Chân Lạp tỏ ý độc lập với Xiêm La khi họ dời
đô về Oudong và bắt đầu liên lạc với chúa Nguyễn.
Xứ Đàng Trong Mở Cõi Về Phương Nam:
Trong phạm vi bài viết nầy, chúng tôi chỉ đề cập nhiều đến vùng
Thủy Chân Lạp, tức là vùng mà ngày nay chạy dài từ phía Nam tỉnh Lâm
Đồng và Bình Thuận xuống tận mũi Cà Mau, rồi bọc lên tận biên giới với
Cao Miên tại vùng Hà Tiên. Đây là một vùng đất phì nhiêu, nằm trọn trong
hệ thống bồi đắp phù sa của những con sông lớn như sông Cửu Long, sông
Đồng Nai và Vàm Cỏ. Không phải đợi đến lúc thu phục xong Champa, các
chúa Nguyễn mới nghĩ đến vùng Thủy Chân Lạp. Trước đó, ngay từ khi mới
được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã quyết tâm
xây dựng vùng phía Nam Hoành Sơn thành một hậu cứ hùng mạnh trong công
cuộc tranh hùng với nhà Trịnh ở phương Bắc. Ngay sau khi được Trịnh Kiểm
tâu lên vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã đem theo
tất cả gia quyến và bộ hạ vào Nam. Đây có thể nói là đợt di cư đầu tiên
vào phương Nam trong lịch sử Nam Tiến, xảy ra trong suốt khoảng thời
gian từ năm 1558 đến năm 1570.
Những người nầy tháp tùng theo Nguyễn Hoàng đi vào các vùng Thuận Hóa và
Quảng Nam. Nguyễn Hoàng đã triệt để nghe theo lời cố vấn của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ‘Hoành sơn nhất đái, Vạn đại dung thân’. Kể từ
đó, Thuận Quảng đã trở thành giang sơn riêng của dòng họ Nguyễn, và cũng
từ đó Đại Việt bị chia cắt làm hai đàng: Đàng Ngoài của vua Lê và chúa
Trịnh; và Đàng Trong của chúa Nguyễn. Sau khi đã ổn định xong vùng
Thuận Quảng và củng cố triều đình xứ Đàng Trong, các chúa nhà Nguyễn
bắt đầu đẩy mạnh công cuộc khai hoang lập ấp, với chính sách ‘đồn
điền’(10). Chính từ chính sách nầy mà ngay cả khi chưa hoàn toàn chinh
phục vương quốc Champa, các chúa nhà Nguyễn đã bắt đầu công cuộc thu
phục vùng đất Thủy Chân Lạp. Năm 1611, nhân vụ người Champa quấy phá
vùng biên giới(11), chúa Nguyễn Hoàng sai tướng Văn Phong(12) đem quân
vượt đèo Cù Mông đánh chiếm vùng phía Nam Sa Huỳnh, đặt làm phủ Phú Yên,
gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa(13).
Chúa Nguyễn Hoàng mất năm 1613, con trai là Nguyễn Phúc Nguyên lên nối
ngôi chúa(14). Để xây dựng hậu cứ hùng mạnh chống lại với quân của chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã vượt qua phần đất còn lại của
Champa(15) để tiến về phương Nam. Kỳ thật, vùng đất Thủy Chân Lạp
chỉ trực thuộc vương quốc Chân Lạp trên danh nghĩa, chứ trên thực tế
không có bao nhiêu người Khmer cư ngụ trong vùng nầy, và Chân Lạp cũng
chưa từng thành lập bộ máy hành chánh trên vùng đất nầy. Cuộc Nam Tiến
của dân tộc Việt Nam được diễn tiến với nhiều lý do khách quan cũng như
chủ quan. Về mặt khách quan mà nói, vào cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ
thứ XVIII, để xây dựng hậu cứ hùng mạnh chống lại với quân của chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã phải tiến về phương Nam, vùng đất
mang tên Thủy Chân Lạp. Nghĩa là do bởi sự phân tranh của hai dòng họ
Trịnh và Nguyễn mà một chuỗi những biến cố đã cuối cùng biến toàn thể
những vùng đất đã từng trực thuộc những vương quốc Champa và Chân Lạp
trở thành một dãy giang sơn gấm vóc của Việt Nam. Về phương diện chủ
quan mà nói, trong khi phía Việt Nam đang cần một hậu cứ hùng mạnh ở
phương Nam thì về phía Chân Lạp từ năm 1434 đã bị quân Xiêm La xâm
chiếm. Họ đã phải bỏ đế đô Angkor mà chạy về Phnom Penh.
Sau đó năm 1528 lại chạy về La Bích (Lovek). Năm 1593, quân Xiêm lại
triệt hạ luôn thành La Bích. Từ đó Chân Lạp lệ thuộc hoàn toàn vào Xiêm
La, mọi sự phế lập trong triều đình Chân Lạp đều do Xiêm La quyết định.
Tuy nhiên, từ sau cuộc hôn nhân giữa Miên vương Chey Chetta II và công
nữ Ngọc Vạn vào năm 1620, sự việc đã hoàn toàn đổi chiều. Việc công nữ
Ngọc Vạn theo chồng về Oudong có thể được xem như là một sự mở đầu cho
những cuộc bành trướng lãnh thổ về phương Nam sau nầy của dân tộc Việt
Nam.
Bên cạnh đó, sự rối loạn một cách liên tục của triều đình Chân Lạp cũng
góp phần không nhỏ cho cuộc Nam Tiến của người Việt Nam, vì cứ mỗi lần
triều đình Chân Lạp có sự rối loạn là chắc chắn người Xiêm La sẽ can dự,
rồi tiếp theo đó là các chúa Nguyễn đem quân đi chinh phạt Xiêm La. Cứ
mỗi lần quân đội xứ Đàng Trong đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân
Lạp là mỗi lần quốc vương Chân Lạp lại đền ơn đáp nghĩa cho các chúa
Nguyễn bằng cách dâng hiến những đất đai hoang vu của vùng Thủy Chân
Lạp. Mỗi khi đất đai Thủy Chân Lạp rơi vào tay xứ Đàng Trong thì lập tức
các chúa Nguyễn cử quan quân đến khai phá, rồi sau đó đưa lưu dân đến
định cư, tiếp tục khai khẩn đất hoang và thiết lập bộ máy hành chánh. Do
đó mà chỉ trong vòng không đầy 150 năm sau ngày công nữ Ngọc Vạn về làm
hoàng hậu xứ Chân Lạp, toàn thể vùng Thủy Chân Lạp đã hoàn toàn trực
thuộc lãnh thổ của xứ Đàng Trong. Đời Chúa Nguyễn Hoàng
(1600-1613), đi về Thuận Hóa, mặc dầu trong suốt thời gian trị vì dưới
thời chúa Tiên, quân đội xứ Đàng Trong chưa tiến hành mở cõi về phương
Nam, nhưng chúa đã củng cố quân sự và bắt đầu công cuộc xây dựng đế
nghiệp cho dòng họ Nguyễn về sau nầy. Sau khi mất, ông đã được triều
Nguyễn truy tôn làm Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế. Đến đời Chúa Nguyễn Phước
Nguyên (16131635), dự tính kế hoạch hòa hoãn với các lân quốc phương Nam
như Chiêm Thành và Chân Lạp. Chúa Nguyễn Phước Nguyên cũng bắt đầu kế
hoạch “Xâm chiếm không đổ máu” trên đất nước Chiêm Thành và Chân Lạp
bằng cách cho lưu dân về khai khẩn và định cư tại các vùng xa xôi ở
phương Nam như Prey Nokor, bây giờ là vùng Chợ Lớn. Năm 1620, chúa Sãi
Nguyễn Phước Nguyên gả hai nàng công nữ là Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pô
Romê và Ngọc Vạn cho Miên vương là Chey Chetta II, mở đầu cho một dự
tính “tầm ăn dâu” về lâu về dài cho cuộc Nam Tiến về sau này. Vua Chey
Chetta II lên ngôi năm 1618 và cố gắng thoát ra khỏi sự kềm chế của
người Xiêm La nên đã quyết định ngã hẳn về phía Việt Nam. Trước tiên
Chey Chetta II dời đô về Oudong(16) và xin cưới công nữ Ngọc Vạn của xứ
Đàng Trong. Năm 1621, quân Xiêm tấn công thủ đô Nam Vang, những người đi
theo công chúa Ngọc Vạn đóng thuyền chiến giúp vua Chey Chetta II chống
lại quân Xiêm. Đồng thời công nữ Ngọc Vạn đã cầu viện với chúa Sãi xin
gửi quân sang cứu Nam Vang. Năm 1623, sau khi giúp Chân Lạp đánh thắng
được quân Xiêm, một phái đoàn của triều đình Thuận Hóa đã đến Oudong,
yêu cầu vua Chey Chetta II nhường lại khu dinh điền Mô XoàiBà Rịa, và
lời yêu cầu nầy đã được vua Miên chấp thuận ngay.
Ngay khi hai sở thu thuế tại Sài Gòn và Bến Nghé được thành lập, từng
đoàn và từng đoàn người Việt đã đổ xô vào vùng đất Đồng Nai để khẩn
hoang lập ấp. Đây là đợt thiên di về phương Nam lần thứ nhì của người
Việt, sau đợt thiên di của chúa Nguyễn Hoàng và đoàn tùy tùng. Đây cũng
chính là bàn đạp đầu tiên của người Việt tiến xuống vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Thật tình mà nói, sự kiện chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt hai
trạm thu thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé không phải là sự kiện ngẫu nhiên, mà
nó nằm trong sách lược ‘Nam Tiến’ có kế hoạch hẳn hòi của các chúa
Nguyễn. Hai trạm thu thuế ở Sài Gòn và Bến Nghé vừa là cơ quan thu thuế,
mà cũng vừa là đồn binh để phòng khi có việc là kéo quân lên Nam Vang
tiếp trợ ngay. Sau khi đánh thắng quân Xiêm, vua Chey Chetta II đã bổ
nhiệm nhiều quan quân trong đoàn tùy tùng của công nữ Ngọc Vạn vào những
chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp. Và cũng kể từ đó triều
đình xứ Đàng Trong luôn sẵn sàng giúp đỡ và viện trợ cũng như can thiệp
vào nội tình Chân Lạp.
Lịch sử đã cho thấy cứ mỗi lần quân đội xứ Đàng Trong tiến lên cứu giúp
Chân Lạp là mỗi lần triều đình xứ Đàng Trong được các quốc vương Chân
Lạp đền đáp bằng một số đất đai, đa số là những hoang địa. Và cứ mỗi lần
nhận được đất mới của Chân Lạp là từng đợt di dân mới được đưa đến để
khai phá và thành lập bộ máy hành chánh trực thuộc xứ Đàng Trong. Sau
năm 1623, theo lời kêu gọi và bảo trợ của hoàng hậu Sam Đát(17), nhiều
lưu dân người Việt đã ồ ạt theo đường biển vào Nam lập nghiệp. Chính vì
thế mà trong vòng chỉ vỏn vẹn 3 năm sau (1623), số lưu dân người Việt
trên đất Thủy Chân Lạp đã lên đến 20 ngàn người. Chúa Sãi bèn sai người
mang quốc thư cho con rể là Chey Chetta II, xin cho mượn đất Prey Nokor
và Kas Krobey(18) để đặt trạm thâu thuế người Việt tại đây, và quan
trọng hơn là xứ Đàng Trong có thể kịp thời tiếp trợ vương quốc Chân Lạp
mỗi khi hữu sự. Lời yêu cầu nầy đã được vua Chân Lạp chuẩn thuận ngay
lập tức. Ít lâu sau đó, các vùng Prei Nokor và Kas Krobey đã trở thành
những khu thị tứ rất sầm uất. Quả đúng như vậy, đến năm 1624, quân Xiêm
lại theo đường biển đổ bộ vào vùng duyên hải Chân Lạp, nhưng bị quân
Chân Lạp(19) phản công dữ dội, nên quân Xiêm đành rút về nước. Chính vì
vậy mà chỉ 5 năm sau sau ngày công nữ Ngọc Vạn về làm hoàng hậu xứ Chân
Lạp, người Việt đã tràn ngập các vùng Thủy Chân Lạp giáp với vương quốc
Champa như Mô Xoài, Srekatrey, Prei Nokor, và Kas Krobey(20). Các
chúa nhà Nguyễn biết rằng dầu vùng đất Thủy Chân Lạp trên thực tế đã bị
bỏ hoang từ hơn 10 thế kỷ, tính từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XVII,
nhưng trên danh nghĩa, nó không phải là vùng đất vô chủ, mà nó trực
thuộc vương quốc Chân Lạp. Trước khi có lưu dân người Việt đến vùng nầy
Sài Gòn và Bến Nghé ngày nay, chỉ có một ít người Khmer sống cộng cư với
các cư dân bản địa như các bộ tộc Mạ, Stiêng, Chu Ru, Cơ Ho, vân vân.
Họ sống thành từng sóc nhỏ, không có chánh quyền địa phương và hoàn toàn
biệt lập với vương triều Chân Lạp tại Oudong. Và các chúa tiên triều
nhà Nguyễn đã khôn khéo áp dụng sách lược ‘Lưu dân Đại Việt đi trước nhà
nước Đại Việt theo sau’. Một khi các lưu dân đã khai hoang lập ấp và
biến đất hoang thành đất thuộc, thì các chúa Nguyễn mới thiết lập bộ máy
hành chánh nhằm vừa xác lập chủ quyền của Đại Việt, mà cũng vừa giúp ổn
định trật tự trị an trong vùng. Riêng tại những vùng đất hoang dã không
ai dám tới nầy, các chúa Nguyễn đã khôn khéo kêu gọi những nông dân
cùng khổ của vùng Thuận Quảng đi tìm cuộc sống mới. Bên cạnh đó, các
chúa cũng ra chỉ dụ ân xá cho những tù binh bắt được trong các cuộc
chiến tranh với quân Trịnh, cũng như những và tù phạm trọng án được vào
Nam khai hoang lập nghiệp, tạo cho mình cuộc sống mới. Tuy nhiên, dưới
thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, trong suốt thời gian ngài tại vị, xứ Đàng
Trong không thể tiến xa hơn nữa về phía Thủy Chân Lạp, vì vào năm 1627,
chiến tranh giữa hai họ Trịnh Nguyễn bùng nổ tại vùng Bố Chính(21).
Sau đó, vào năm 1629, Văn Phong(22) đã liên kết với người Champa, nổi
lên chống lại chúa Nguyễn, nên chúa Nguyễn Phúc Nguyên phải cử Phó tướng
Nguyễn Phúc Vinh(23) đem quân vào ổn định. Bên cạnh đó, vùng đất miền
Tây sông Hậu, tuy phù sa mầu mỡ, nhưng đã bị chìm trong hoang vu, có lẽ
từ khi mới được thành hình đến nay(24), nên lưu dân Việt Nam cũng bị
khựng lại tại bờ bắc sông Hậu một thời gian khá lâu(25). Về phía
Chân Lạp, sau khi quốc vương Chey Chetta II băng hà vào năm 1628, triều
đình Chân Lạp rối loạn với những cuộc tranh chấp ngôi báu từ năm 1628
đến năm 1642. Năm 1642, Nặc Ông Chân lên làm vua Chân Lạp.
Năm 1658, hai hoàng thân Ang So và Ang Tan nổi lên đánh lại, nhưng thất
bại, phải chạy sang cầu cứu với công nữ Ngọc Vạn, lúc nầy bà đang ở tại
Prei Nokor. Công nữ Ngọc Vạn liền viết thư cho cháu là chúa Nguyễn Phúc
Tần. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai phó tướng Nguyễn Phúc Yến, phó tướng của
dinh Trấn Biên(26), đem 3.000 quân đi đánh và bắt Nặc Ong Chân tại vùng
Mô Xoài-Bà Rịa, đem về giam tại Quảng Bình. Chúa Nguyễn phong cho Ang So
làm vua Chân Lạp(27). Kể từ đó Chân Lạp lại xin thần phục chúa Nguyễn.
Năm 1672, quốc vương Chân Lạp là Batom Reachea bị người con rể tên Chey
Chetta III(28) giết chết, nhưng sau đó Chey Chetta III lại bị nhóm của
vợ vua Batom Reachea hạ sát.
Năm 1673, con trai lớn của vua Batom Reachea là Nặc Ông Đài (Ang Chey)
lên ngôi, nhà vua cho xây đắp bờ lũy tại Nam Vang rồi tiến đánh Sài Gòn.
Đến đầu năm 1674, chúa Nguyễn sai Cai Cơ Nguyễn Dương Lâm(29) làm
thống binh, hợp với Nguyễn Diên Phái làm Tham mưu, và Văn Sùng làm Thị
chiến, đem quân vào đánh Mô Xoài(30). Tháng 4 năm 1674, quân ta tiến
đánh Gò Bích và Nam Vang, Nặc Ông Đài phải trốn vào rừng. Hoàng thân Ang
Tan thì chết vì bệnh, nên chúa Nguyễn sai giao quyền cho Ang Nộn, tức
Nặc Ông Nộn, đang ở tại Oudong. Tuy nhiên, em của Ông Đài là Ông Thu
(Ang Saur) nổi lên đánh Ông Nộn chạy về Sài Gòn. Sau đó, Ông Thu thần
phục chúa Nguyễn và được chúa Nguyễn phong làm chánh vương tại Oudong
(Long Úc), còn Ông Nộn thì làm nhị vương tại Sài Gòn.
Trong khi triều đình Chân Lạp ngày càng rối loạn, chia năm xẻ bảy, nhóm
nầy thân Xiêm, nhóm kia thân Việt... thì hai thế lực lớn của hai lân
quốc Việt và Xiêm luôn tìm cách lấn sâu vào nội địa của Chân Lạp bằng
mọi giá.
Về phía Tây người Xiêm luôn đe dọa lãnh thổ phía tây Chân Lạp, còn về
phía Nam thì người Việt cũng đang tìm cách đưa lưu dân của mình xuống đó
khai khẩn đất hoang và định cư luôn tại đó. Trong lúc đó thì nhà Minh
bên Trung Hoa bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, và di thần nhà Minh vì không
phục người Mãn Thanh, nên đã dong buồm xuôi về phương Nam. Nghĩa là
người Minh Hương xuất hiện vào giai đoạn thuận lợi nhất trên bước đường
Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Khoảng năm 1680, các di thần nhà Minh là
cựu tổng binh trấn thủ Long Môn(31) là Dương Ngạn Địch, và cựu tổng binh
các châu Cao, Lôi, Liêm, thuộc tỉnh Quảng Đông là Trần Thượng Xuyên,
đem 3.000 quân và 50 chiến thuyền ghé vào yết kiến chúa Nguyễn tại Phú
Xuân. Chúa Nguyễn chính thức cho nhóm quan quân lưu vong nầy vào khai
khẩn vùng đất Đồng Nai và Mỹ Tho. Trần Thượng Xuyên vào cửa Cần Giờ, lên
định cư ở Bàn Lân (Đồng Nai), còn Dương Ngạn Địch thì vào cửa Tiểu, đến
định cư tại vùng Mỹ Tho bây giờ.
Đến năm 1681, Mạc Cửu lại dong buồm từ Phúc Kiến đến đảo Koh Tral(32),
sau đó ông tiếp tục đi vào nội địa xứ Chân Lạp và xin vua Chân Lạp cho
khai phá các vùng Cần Bột và Mang Khảm(33). Mạc Cửu được quốc vương Chân
Lạp phong chức Ốc Nha, được quyền khai phá một vùng đất rộng lớn trong
vịnh Thái Lan. Lúc nầy các vùng đất nầy vẫn còn trực thuộc Chân Lạp.
Thấy những người Minh Hương(34) nầy sống rất hòa đồng với nhị vương Nặc
Nộn tại vùng Sài Gòn, đồng thời Nặc Nộn cũng biết cách kết thân và nhờ
cậy họ; nên Nặc Thu đem lòng nghi kỵ, lo phòng thủ Long Úc (Oudong) và
có ý muốn chống lại chúa Nguyễn. Nặc Nôn đã trình báo cho chúa Nguyễn
tất cả những việc động binh của Nặc Thu, nên năm 1689, chúa Nguyễn sai
Nguyễn Hữu Hào phối hợp với binh của Mai Vạn Long chuẩn bị chinh phạt
Nặc Thu. Cuối cùng, Nặc Thu lại chịu thần phục triều đình xứ Đàng Trong
như cũ. Năm 1693 quân chúa Nguyễn tiến đến Phan Thiết. Như vậy kể
từ năm 1693, biên giới giữa Chiêm Thành và Chân Lạp ngày trước đã biến
thành biên giới giữa xứ Đàng Trong và Chân Lạp. Năm 1698, chúa Nguyễn
Phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Cảnh(35) làm Kinh Lược đất Thủy Chân Lạp và
chia đất Đông Phố ra làm dinh huyện để tiện việc cai trị(36). Ông lấy
đất Đông Phú để lập ra huyện Phước Long, Biên Hòa lập ra dinh Trấn Biên,
và đặt Sài Gòn là huyện Tân Bình. Sau đó đặt ra 2 dinh là Trấn Biên và
Trấn Phiên(37).
Năm 1698 là mốc thời gian quan trọng nhất trong lịch sử Nam Tiến của xứ
Đàng Trong. Năm đó quan Thống Suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã chính
thức tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên phần đất Nam Kỳ với đầy đủ
những thủ tục hành chánh mà chưa có dân tộc nào đã làm trước đây, như
đặt địa danh, kiểm tra dân số và thiết lập bộ máy hành chánh cho đến
ngày nay. Năm Canh Dần 1700, Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm Bích Đôi và Nam
Vang và phá tan kế hoạch ‘độc lập’ với chúa Nguyễn của Nặc Thu.
Năm 1705, chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Vân đem quân qua Nam Vang giúp Nặc
Yêm(38) chống lại thế lực của Nặc Thâm(39). Cuối cùng, Nặc Yêm được chúa
Nguyễn đưa lên ngôi vua Chân Lạp. Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà
Tiên, chúa Nguyễn chỉ nhận trên danh nghĩa, nhưng vẫn để cho dòng họ Mạc
trấn giữ đất Hà Tiên.
Năm 1714, Nặc Thâm liên kết với quân Xiêm kéo về vây Nặc Yêm tại thành
La Bích (Lovek), chúa Nguyễn phải sai Nguyễn Cửu Phú và Trần Thượng
Xuyên đem quân đi đánh dẹp. Năm 1732, chúa Nguyễn cho thành lập Trấn Hà
Tiên, nhưng vẫn để cho Mạc Cửu làm Tổng trấn. Phải thành thật mà nói,
trong công cuộc Nam Tiến, công lao của những người Minh Hương không phải
là nhỏ, đặc biệt là của dòng họ Mạc ở Hà Tiên.
Cùng năm 1732, lưu dân Việt Nam tại Prei Nokor bị quân Chân Lạp tấn
công, chúa Ninh Vương sai Trương Phúc Vĩnh đem quân vào phối hợp với
quân của tướng Trần Đại Định để đánh dẹp. Sau đó chúa bắt buộc vua Miên
là Nặc Ong Tha phải nhường Meso và Long Hor(40), để hợp thức hóa vì
người Việt định cư tại hai vùng nầy từ lâu rồi. Chúa Nguyễn lấy đất Long
Hồ lập thành châu Định Viễn, và đặt dinh Long Hồ, trong khi cho Mỹ Tho
trực thuộc vùng dinh Phiên Trấn (Gia Định). Như vậy, tính đến năm 1732,
lãnh thổ xứ Đàng Trong kéo dài từ Quảng Bình đến Long Hồ.
Theo địa bạ hành chánh đời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765),
xứ Đàng Trong được chia làm 12 dinh(41). Năm 1748, Nặc Thâm lại kéo quân
Xiêm về đánh Nặc Tha để cướp ngôi, chúa Nguyễn phải sai tướng Nguyễn
hữu Doãn đem quân đánh dẹp để đưa Nặc Tha trở lại ngôi vua.
Năm 1753, nhân cơ hội vua Chân Lạp là Nặc Ông Nguyên lấn hiếp người Côn
Man, chúa Nguyễn bèn sai hai tướng Nguyễn Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh
vào dàn xếp. Sau đó Nguyễn Cư Trinh lãnh lệnh chúa Nguyễn ở lại tiếp
tục khai khẩn đất hoang và lập khu dinh điền mới. Năm 1755, Nặc Ong
Nguyên thua nên nhờ Mạc Thiên Tứ xin nạp hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp(42)
để cầu hòa.
Từ đó coi như phần lớn đất đai của xứ Thủy Chân Lạp đã nằm dưới sự kiểm
soát của Việt Nam. Năm 1757, sau khi vua Nặc Nguyên bên Miên băng hà,
triều đình Chân Lạp lại xảy ra nội biến. Một người chú họ của Nặc Nguyên
là Nặc Nhuận, vì muốn lên ngôi vua nên đem dâng hai xứ Preah Trapeang
và Bassac(43) dâng lên Chúa Nguyễn để xin cầu phong. Nay các vùng này
thuộc tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Năm 1759, Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên
nhờ Mạc Thiên Tích đưa về làm vua xứ Chân Lạp. Chúa Võ Vương sai Thiên
Tích đưa Nặc Tôn về Nam Vang. Sau đó Nặc Tôn dâng thêm vùng Tầm Phong
Long(44) cho xứ Đàng Trong. Đồng thời, để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Nặc Ong
Tôn cũng nhường thêm các phủ Kampot, Kompong Som, miền nam vùng Treang,
Bentey Méas, và Linh Quỳnh(45). Chúa cho sáp nhập 5 phủ nầy vào trấn Hà
Tiên, và chia đất Tầm Phong Long ra làm các đạo Đông Khẩu(46), đạo Tân
Châu ở Tiền Giang và đạo Châu Đốc ở Hậu Giang. Như vậy, tính đến năm
1757, toàn vùng Thủy Chân Lạp đã được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Tưởng cũng nên nhắc lại, về sau vua Tự Đức trả 5 phủ nầy lại cho Chân
Lạp. Trong khi đó tại vùng Mang Khảm, Mạc Cửu và con là Mạc
Thiên Tứ tiếp tục khai khẩn những vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Long
Xuyên(47), Rạch Giá, Trấn Giang(48) và Trấn Di(49).
Năm 1755, các ông Trịnh Hoài Đức, Ngô nhơn Tịnh và Lê quang Định cũng
lập ra thi xã, thắp sáng ngọn đuốc văn hiến nơi góc trời cực Nam của tổ
quốc. Đến năm 1780 thì Mạc Thiên Tứ chính thức dâng đất Hà Tiên(50). Đến
đây coi như cuộc Nam tiến đến chót mũi Cà Mau và Hà Tiên đã hoàn tất.
Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam không phải là một diễn tiến tình
cờ, mà là một diễn tiến tất yếu và có kế hoạch hẳn hòi, nhất là từ khi
Nguyễn Hoàng vào dung thân trong Thuận Hóa theo lời khuyên của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai câu sấm nổi tiếng: “Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân.” Như vậy nếu nói về cuộc Nam Tiến mà không kể
đến công lao của Chúa Nguyễn Hoàng và các chúa nối nghiệp của Ngài sau
này quả là một thiếu sót lớn. Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của quyển
sách này, chúng tôi chỉ nói phớt qua về các Chúa mà chỉ nói nhiều về
vùng đất tận cùng phía Nam của đất nước mà thôi. Sau khi Nguyễn
Kim, Thái Tể nhà hậu Lê bị nhà Mạc đầu độc chết năm 1545, quyền bính rơi
vào tay của con rể ông là Trịnh Kiểm. Và để củng cố quyền bính Trịnh
Kiểm bất chấp mọi hành động, ngay cả việc sát hại em vợ của mình là Lãng
Quận Công Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng thấy anh mình bị hãm hại, bèn cáo
bệnh xin xuôi về phương Nam để lánh nạn và từ đó ông đã dựng nên cơ
nghiệp cho dòng họ Nguyễn, cũng như góp phần không nhỏ trong công cuộc
Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Sau khi cho người vào vấn kế với Trạng
Trình, Nguyễn Hoàng nhờ chị mình là Ngọc Bảo xin với Trịnh Kiểm cho về
phương Nam làm Trấn Thủ Thuận Hóa. Một công hai việc, vừa rảnh tay vừa
khỏi phải mang tiếng là sát hại thêm một người em vợ nữa nên Trịnh Kiểm
bằng lòng ngay. Năm 1558, Nguyễn Hoàng từ giã chị mình để ra đi trấn thủ
đất Thuận Hóa.
Mặt ngoài thì Nguyễn Hoàng có vẻ hòa hiếu với Trịnh Kiểm, nhưng bên
trong thì Chúa Nguyễn tìm cách thu phục lòng người ở phương Nam và âm
thầm gầy dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Đời Chúa Nguyễn Hoàng
(1600-1613), đi về Thuận Hóa, củng cố quân sự bắt đầu công cuộc xây dựng
đế nghiệp cho dòng họ Nguyễn. Sau này triều Nguyễn truy tôn ông là Thái
Tổ Gia Dụ Hoàng Đế.
Đến đời Chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), dự tính kế hoạch hòa hoãn
với các lân quốc phương Nam như Chiêm Thành và Chân Lạp. Chúa Nguyễn
Phước Nguyên cũng bắt đầu kế hoạch “Xâm chiếm không đổ máu” trên đất
nước Chiêm Thành và Chân Lạp bằng cách cho lưu dân về khai khẩn và định
cư tại các vùng xa xôi ở phương Nam như vùng Prey Nokor, bây giờ là Sài
Gòn. Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên gả hai cô con gái của mình
là công nữ là Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pô Romê và Ngọc Vạn cho Miên vương
là Chey Chetta II, mở đầu cho một dự tính “tầm ăn dâu” về lâu về dài
cho cuộc Nam Tiến về sau này.
Năm 1623, sau khi giúp Chân Lạp đánh thắng được quân Xiêm, một phái đoàn
của triều đình Thuận Hóa đã đến Nam Vang, xin vua Chey Chetta II cho
người Việt tự do vào cư ngụ trong Prey Nokor và lập cơ quan thu thuế,
cũng như đặt đồn binh tại đây để phòng khi có việc là kéo quân lên Nam
Vang tiếp trợ ngay. Chúa Sãi mất năm 1635. Về sau này được triều đình
nhà Nguyễn truy tôn là Hy Tông Hiến Văn Hoàng đế. Đời chúa Nguyễn Phúc
Lan (1635-1648), vì phải chinh chiến với Bắc quân của chúa Trịnh nên
suốt thời gian này chúa Nguyễn Phúc Lan không mở mang gì nhiều về phương
Nam. Về sau triều đình nhà Nguyễn truy tôn ông là Thần tôn Hiến Chiêu
Hoàng đế. Đời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), tức Chúa Hiền Vương. Ông
là người chăm lo việc nước, không chuộng việc yến tiệc vui chơi.
Năm 1660, chúa Hiền Vương lập Barom Reachea làm Chánh Vương Chân Lạp,
đóng đô ở Oudong. Và Ang Non làm Nhị Vương và đóng đô ở Prey Nokor, tức
Sài Gòn ngày nay. Năm 1674, Nặc Ông Đài đưa quân Xiêm sang đánh
Ang Non, phá các lũy Sài Gòn và Bích Đôi, nhưng nhờ chúa Nguyễn tiếp trợ
nên Ong Đài và quân Xiêm thua chạy. Chúa Nguyễn đưa Ang Saur (Nặc Ông
Thu) về Oudong lên ngôi lấy hiệu là Chey Chetta IV. Năm 1679, các cựu
thần nhà Minh không phục nhà Thanh nên ào ạt chạy qua tỵ nạn bên Xứ Đàng
Trong. Trần Thượng Xuyên được Chúa Hiền cho khẩn vùng đất Đồng Nai(51),
và Dương Ngạn Địch được Chúa cho khẩn vùng đất Mỹ Tho. Từ đó các nơi
này trở nên phồn thịnh, phố xá mọc lên, buôn bán hưng vượng. Thuyền buôn
của nhiều xứ đến giao thương tấp nập. Đời chúa Nguyễn Phúc Trăn
(16871691), tức Chúa Nghĩa Vương. Chúa vẫn giữ kế hoạch lưu dân về
phương Nam, nhưng không có gì đáng nói. Quan hệ với Chân Lạp vẫn tốt
đẹp. Chúa chỉ ở ngôi có 4 năm rồi băng hà năm 1691. Đời chúa Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725).
Đây là thời kỳ chiến tranh Trịnh Nguyễn tạm ngừng trên 30 năm, bờ cõi
tạm yên ổn, nên chúa Nguyễn Phúc Chu có nhiều cơ hội mở đất về phương
Nam hơn.
Năm Giáp Thân (1692), khi vua Chiêm là Bà Tranh kéo sang nước ta cướp
bóc, sau đó họp quân đắp lũy ở phủ Diên Ninh. Quan Trấn thủ dinh Bình
Khang liệu chống không nổi phải báo về chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu
bèn phong cho Lễ Tài Hầu Nguyễn Hữu Kỉnh lãnh chức Tổng binh (Thống
binh) cùng với Tham Mưu Nguyễn đình Quang cất quân đi đánh dẹp. Tháng
giêng năm Quý Dậu (1693), Nguyễn hữu Cảnh đánh bại và bắt được Bà Tranh
và tướng Chiêm là Kế Bà Tử. Chúa cho đổi đất Chiêm Thành ra làm trấn
Thuận Thành(52). Năm Đinh Sửu 1697, chúa cho lấy đất Phan Rang và Phan
Rí trở về phía Tây đặt phủ Bình Thuận. Năm 1698, Thống Suất Nguyễn
Hữu Lập tuyên bố chủ quyền đất đai xứ Đàng Trong tại hai huyện An Phúc
và Hòa Đa thuộc vùng Gia Định. Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm
huyện Phúc Long, dựng Dinh Trấn Biên(53), lấy xứ Sài Gòn (Prey Nokor)
làm huyện Tân Bình, dựng Dinh Phiên Trấn(54), lập xã Minh Hương...
Kể từ đó người Hoa khắp nơi đi lại buôn bán với người Nam rất sầm uất.
Năm 1699, Chúa cho lưu dân đến khai thác vùng cù lao Ông Chưởng.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân mở vùng đất Vũng Gù Tầm Bôn và Lôi Lạp(42),
nhưng chưa chính thức được Miên vương cho phép. Tháng 8 năm Mậu Tý
1708, đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu cùng Trương Cầu, Lý Xá mang lễ
vật đến kinh đô gặp chúa Nguyễn xin dâng đất Hà Tiên. Mạc Cửu là người
đầu tiên có công khai phá và phát triển phủ Sài Mạt của Chân Lạp, từ
Chưng Rum, Linh Quỳnh, Cần Bột (Kampot), Sài Mạt, đến Hà Tiên chạy xuống
Rạch Giá, xuống tận Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Long Xuyên và
Chậu Đốc. Chúa phong cho Mạc Cửu làm Tổng Binh trấn Hà Tiên.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chú có ba biến cố quan trọng: thứ nhất là vào
năm 1731, Nặc Tha dâng đất Tầm Bào (Long Hồ) và Mỹ Tho cho Trần Đại
Định, lập nên Dinh Long Hồ; biến cố thứ nhì xảy ra vào năm 1735, sau khi
Mạc Cửu qua đời, Chúa Phúc Chú phong cho con cả của Mạc Cửu là Mạc
Thiên Tứ tiếp tục làm Tổng Trấn Hà Tiên; và thứ ba là vào năm 1736, Nặc
Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp(42) để chuộc tội.
Tưởng cũng nên nhắc lại, đây là thời kỳ cực thịnh của vùng Hà Tiên về cả
quân sự, kinh tế, lẫn văn học. Về quân sự, Thiên Tứ cho tuyển mộ binh
sĩ tinh nhuệ, đắp thành lũy kiên cố; về kinh tế thì mở phố chợ và hải
cảng buôn bán với thuyền bè nước ngoài, về văn học mở Chiêu Anh Các, mà
hiện vẫn còn quyển “Hà Tiên Thập Vịnh.” Như vậy chỉ trong vòng 5 năm
dưới thời chúa Phúc Chú mà tướng quân Trần Đại Định đã giúp đưa cả một
vùng đất bao la bạt ngàn về sáp nhập với Việt Nam, và Mạc Thiên Tứ đã
giúp chúa Nguyễn một cách đắc lực trong việc phòng thủ về phía cực Nam.
Chúa Nguyễn Phúc Chú mất năm 1738.
Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, vào năm 1739, quốc vương Cao Miên là
Nặc Nguyên đem quân định tiến chiếm Hà Tiên (hồi nầy Hà Tiên đã trở nên
một hải cảng phồn thịnh, nên cả Xiêm La lẫn Chân Lạp đều muốn thu phục
về mình), nhưng chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã sai ông Nguyễn Cư
Trinh sang đánh Chân Lạp, Nặc nguyên thua chạy và xin nộp hai phủ Tầm
Bôn và Lôi Lạp để cầu hòa (tức là hai vùng Tân An và Gò Công ngày nay).
Năm 1757, sau khi vua Nặc Nguyên bên Miên băng hà, một người chú họ tên
Nặc Nhuận, vì muốn lên ngôi vua nên đem dâng hai xứ Preah Trapeang và
Bassac (ngày nay là vùng Trà Vinh và Sóc Trăng) dâng lên Chúa Nguyễn để
xin cầu phong. Nay các vùng này thuộc tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Sau
đó, vị vua kế vị của Chân Lạp là Nặc Tôn lại dâng thêm vùng Tầm Phong
Long, ngày nay là các vùng Sa Đéc, Cao Lãnh, Long Xuyên, Châu Đốc và một
phần của Rạch Giá. Lịch sử Nam tiến nhằm mở đất về phương Nam của
dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với kế hoạch khẩn hoang đã có từ thời
các vua Đinh, Lê, Lý, Trần... Tuy nhiên, mãi đến đời các chúa Nguyễn thì
kế hoạch ấy mới được thực thi một cách rõ nét vì từ trước khi các chúa
nhà Nguyễn thiết lập những đơn vị hành chánh trên miền đất Nam Kỳ thì đã
có sẵn cư dân người Việt xiêu tán đến đây chung sống với những người
Mạ, Stiêng, Môn, Khmer... Không biết họ đến đây từ bao giờ, nhưng có lẽ
họ đã đến đây từ lâu lắm. Ban đầu số dân xiêu tán chỉ gồm những người bị
tù lưu đày biệt xứ hay những người quá nghèo khổ mà bỏ xứ ra đi, nhưng
rồi đến đời các chúa nhà Nguyễn số dân xiêu tán ngày càng tăng vì sinh
hoạt trên những vùng đất Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định...
ngày càng khó khăn. Trong số những cư dân xiêu tán mới này người ta thấy
có cả những người thợ thủ công nghệ có tay nghề khá cao, những quân
nhân đem toàn bộ gia đình vào định cư ở những vùng đất mới, và ngay cả
những nông dân không chịu nổi dưới ách áp bức của quan lại địa phương
vùng Thuận Hóa.
Theo dòng thời gian, họ đã tuần tự đi đến các vùng Mô Xoài-Bà Rịa, Bàu
Lâm, Bến Gỗ, Bến Cá, cù lao Rùa, Tân Triều, cù lao Tân Chánh, rạch Lá
Buông, Bến Nghé(55), Chùa Gò(56), Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp, Hốc Môn,
vân vân. Đây được xem như là cuộc thiên di thứ nhì của lưu dân Việt Nam
trên đường Nam Tiến. Đến cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ XVIII, sau
khi đã có quá nhiều người đến định cư tại hai vùng Đồng Nai và Gia
Định, người Việt lại tiếp tục tiến đến hai bên bờ sông Vàm Cỏ(57), và bờ
bắc sông Tiền(58), vùng Rạch Gầm-Xoài Mút, cù lao Minh, cù lao Bảo(59),
vùng dinh Long Hồ(60), vùng Đồng Tháp và khu Tứ Giác Long Xuyên(61),
Cao Lãnh, Tân Châu(62), vùng bờ phía Nam sông Tiền như Cái Mơn, Cái
Nhum, Sóc Sãi, Ba Vát, Bang Tra, Mõ Cày, Trà Vinh, Sóc Trăng, Ba Thắt,
Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau, vân vân. Đây là cuộc thiên di thứ ba của
người Việt trên tiến trình Nam Tiến. Và tính đến cuối thế kỷ thứ XVIII,
người Việt Nam coi như đã có mặt trên hầu hết các địa bàn của miền Nam.
Sau nhiều thế kỷ trải qua nhiều triều đại, đến năm 1757, cuộc Nam Tiến
coi như kết thúc, chủ quyền toàn vùng Nam Kỳ ngày nay hoàn toàn thuộc về
xứ Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765.
Mời Xem Tiếp Phần 2
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét