Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Với Vợ Nhà


         Với Vợ Nhà

Thêm một đông về em có hay  
Se se hơi lạnh suốt đêm ngày   
Cành khô trụi lá chờ xuân đến
Bóng xế vững lòng mặc tóc phai   
Mờ mịt quê nhà tuy cách trở   
Đong đưa số phận chẳng hề lay  
Niềm vui phía trước còn đang đợi
Thêm một đông về em có hay.  
                                Quên Đi
 

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2024

Đôi Dòng về video mạn đàm của Chủ tịch VBHN và nhà thơ Kim Phú

 


Có một Bạn gởi cho tôi video cùa nhóm Văn Bút Cali và Nhà thơ Kim Phú. Sau đó Em hỏi ý kiến tôi về video này.
Sau khi xem xong, tôi có vài ý kiến như sau:
 
Qua nội dung video Mạn đàm, xin phép tổng hợp những ý chính như sau:

1- Thời điểm 7 phút 58 giây: Thơ Đường luật chữ Nôm bắt nguồn từ Hàn Thuyên. Thơ Đường luật của mình ở đây nói của Tàu là không đúng, mình chỉ mượn luật của thơ Đường để làm thơ nên thơ của mình gọi là Luật Thi.
2-  Thời điểm 9 p 20: Chữ quốc ngữ do nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes làm ra.
3-  Thời điểm 14 p 20: dùng chữ trong sáng tao nhã, không nên dùng chữ tối nghĩa.
4- Thời điểm phút thứ 22: Nhịp Thơ bắt buộc là 2/2/3. hoặc 4/3. Không được dùng nhịp 3/4, như thế là sai.
5- Thời điểm phút thứ 23: Khi làm thơ phải tránh 20 bệnh lỗi.
6- Sử dụng từ Hán Việt. Lời tựa quyển Văn Nhân Lục.   

Mạn phép nhận xét về những nội dung trên:

1-
Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, người huyện Thanh lâm (nay là Phủ Nam sách, tỉnh Hải dương) đậu thái học sinh về đời vua Trần Thái Tôn (1225-1257)
Theo lời Sử chép, ông đương làm hình bộ thương thư, có con \cá sấu đến sông Phú lương (tức sông Nhị Hà) Vua sai ông làm bài văn vất xuống sông.
Cá sấu tự đi. Vua thấy việc ấy giống việc Hàn Dũ bên tàu nên cho ông đổi họ Hàn.

Về bài văn ném xuống sông để đuổi cá sấu này, sử không chép rõ là viết theo thể văn nào và làm bằng Hán văn hay Việt văn; vậy ta cũng không nên vội cho như ý kiến thông thường rằng bài ấy là một bài văn tế và viết bằng tiếng nôm. Chỉ khi nào tìm thấy nguyên bài văn ấy mới giải quyết được vấn đề ấy, mà hiện nay thì bài ấy không thấy chép ở sách nào cả.
- Nhân việc đuổi cá sấu kể trên, Sử chép thêm rằng: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú Nôm; người đời ấy nhiều người bắt chước. Đời sau, thơ quốc âm gọi là Hàn luật là vì thế.
Ta phải nhận rằng Hàn luật không phải do ông sáng tác ra; đó chỉ là Đường luật (luật thơ phú của nhà Đường bên Tàu) mà ông đã biết ứng dụng vào việc làm thơ phú quốc âm thôi. Tuy vậy công ông không phải là nhỏ. Vì có ông biết theo Đường luật làm thơ phú nôm thì về sau mới có người bắt chước mà nền văn nôm ở nước ta mới thành lập từ đấy. (theo G/S Dương Quảng Hàm)

Người Việt chúng ta sử dụng từ Luật Thi mang ý nghĩa là tất cả các thể thơ có quy luật rõ ràng. Thí dụ như thơ Lục Bát, Song Thất Lục Bát, bao gồm cả thơ Đường Luật.
Người Tàu dùng chữ Luật Thi (để chỉ Thơ Luật thời Đường hay Cận Thể) để phân biệt với các thể thơ khác. Vì Người Tàu chỉ có thơ Luật thời Đường là có quy luật rõ ràng.
Luật Thi không phải là thơ Đường luật chữ Nôm như ý kiến cùa nhà thơ Kim Phúc.

2- Chữ Quốc ngữ Việt Nam được hình thành không phải do giáo sĩ Alexandre de Rhodes theo phát biểu của nhà thơ Kim Phú, mà là công trình của các nhà truyền giáo Dòng Tênh Bồ Đào Nha, Pháp và Ý, do giáo sĩ Francisco de Pina người thông thạo tiếng Việt khởi đầu. Khi Alexandre de Rhodes đến xứ Đàng Trong thì phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng ký tự Latinh, nay gọi là chữ Quốc ngữ, đã và đang được hình thành.
Alexandre de Rhodes đã thừa hưởng di sản của những giáo sĩ tiền bối. Ông không phải là người tạo ra chữ Quốc ngữ nhưng có công hệ thống hóa và san định hệ chữ này, cũng như biên soạn và giám sát việc ấn hành Từ điển Việt–Bồ–La, là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên.

3- Trước đây, các thi nhân tiền bối của ta khi làm thơ hay sử dụng các điển tích.khiến các thế hệ sau khó tường tận. Ngày nay, chúng ta làm thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt đôi lúc làm cho bài thơ khó hiểu (ở mục 6 sẽ giải thích rõ hơn).

4- Theo nhà thơ Kim Phú, Thơ Đường Luật chỉ làm theo nhịp 2/2/3 hoặc 4/3. Nhịp 3/4 là sai. Sự thật  không cứng nhắc như thế, mà tuỳ theo tâm trạng của tác giả. 
 
Mời xem một vài câu trích từ các bài thơ của Tiền nhân:

Trải bao trăng gió / xuân già giặn
Trời dẫu già / nhưng núi vẫn non.
            (Chơi Núi Non Nước Nguyễn Khuyến)

Chết riêng dễ / một mình anh nhỉ
Sống bận ra / chi lũ chúng mày...
       (Bỡn Người Làm Mối Trần Tế Xương)

Hỏi vợ / vợ còn đi chạy gạo,
Gọi con / con mãi đứng chơi đình.
              (Đau Mắt Trần Tế Xương)

Chàng đi theo nước / thiếp theo chàng
Thiếp chết trinh / mà chàng chết trung...
    (Vịnh bà Phan Thị Thuấn Dương Bá Trạc)

Tình cũng lơ / mà bạn cũng lơ
Bao nhiêu khăng khít / bấy ơ hờ...
               (Trơ Trọi Quách Tấn)

Em lại nhé / ngày sau / sẽ gặp
Anh đi thôi / bước trước / còn xa.
                           (Tặng Biệt Quách Tấn)

Qua các thí dụ trên, chúng ta thấy có rất nhiều nhịp thơ khác như 3/4 , 3/2/2 hay 2/3/2. 2/5...
Như thế, nếu chúng ta làm thơ theo nhịp của các Tiền Bối có bị sai chăng?
Hoàn toàn không hề sai. Làm thơ Đường Luật chỉ sai khi phạm vào 5 quy tắc: Vận, Thanh, Niêm, Đối và Bố Cục. 

Sử dụng nhịp 3/4 không hề sai như nhà thơ Kim Phú khằng định. Vì đây không phạm 5 nguyên tắc của Đường Luật.

5- Luật thơ Đường chỉ có 5 quy định, có từ ngàn năm nay, bắt buộc người làm thơ phải tuân theo đó là Thanh, Niêm, Vận, Đối và Bố Cục. Chỉ cần tuyệt đối tôn trọng 5 quy định của Đường Luật, và khi làm thơ, đọc lên đừng bẻ miệng chói tai là được.

Khi giới thiệu bài thơ "Tình Già" trên báo Phụ Nữ Tân Văn năm 1932, Phan Khôi có viết:
Mỗi khi tôi muốn làm một bài thơ Hán Thi, thì ông Lý, Ông Đỗ đã choán trong đầu tôi rồi. Còn thơ Nôm ư? bà Huyện Thanh Quan đã ngăn ngang ngực...cái ý họ chưa nói, mình tính nói ra, thì bị những Niêm, những Vận, những Luật bó buộc mà nói không được...
Chỉ với 5 quy định trên thôi, đã khiến nhà thơ Phan Khôi phải bó tay rồi.
Tiền nhân có vô vàng bài thơ tuyệt tác, nếu căn cứ vào các bệnh lỗi của người thời nay, tát cả tiền bối vi phạm rất nhiều.
Hãy xem xét tất cả thư tịch của tiền nhân,chúng ta không thấy văn bản nào nói đến 20 Bệnh lỗi mà nhà thơ Kim Phú đề cập. Đó chỉ là những lỗi do các nhà thơ thời nay đặt ra, dù có phạm cũng chẳng có gì là quan trọng cả. Chúng ta học làm thơ dựa vào lời dạy của  tiền nhân là chính  hay dựa vào lời daỵ các nhà thơ ngày nay dăng vô tội vạ trên mạng Internet là chính?

6- Khi sử dụng từ Hán Việt phải thật kỹ lưỡng, nhất là khi ghép chữ càng đắn đo hơn. Vì từ Hán Việt có rất nhiều nghĩa Việt. Như chữ Minh vừa có nghĩa là sáng (明) nhưng Minh cũng có nghĩa là tối (冥)...
Chữ Lục tuy đã sử dụng từ lâu. Nhưng khi ghép với chữ Văn Nhân khiến tựa đề Văn Nhân Lục khá khó hiểu vì chữ Lục có rất nhiều nghĩa:
      僇 lục:  Nhục nhã, 六 lục:  Sáu, số đếm. 綠 lục:  Sắc xanh biếc, xanh mà lại lẫn cả sắc vàng gọi là lục...
錄 lục: Sao chép. Như biên chép sách vở, chuyên công việc sao chép gọi là đằng lục 謄錄. ||② Ghi chép. Như kinh Xuân Thu 春秋 nói lục nội nhi lược ngoại 錄內而略外 chỉ ghi chép việc trong nước mà lược các việc nước ngoài. ||③ Một tên để gọi sách vở. Như ngữ lục 語錄 quyển sách chép các lời nói hay, ngôn hành lục 言行錄 quyển sách chép các lời hay nết tốt của người nào, v.v. Sổ vở cũng gọi là lục. Như đề danh lục 題名錄 quyển vở đề các tên người. ||④ Lấy, chọn người chọn việc có thể lấy được thì ghi chép lấy gọi là lục.

. Đề Tựa "Văn Nhân Lục" có nghĩa gì?  Người viết văn họ Lục, 6 Nhà văn (Lục có nghĩa là 6), hay là Sách Ghi Chép Về Các Người Viết Văn và còn nhiều nghĩa nữa...vì thế để rõ ràng chúng ta cần phải thêm dòng chữ Hán bên dưới: 文 人  錄 (Văn Nhân Lục)

Từ Hán Việt không thể không dùng, nhưng chúng ta cũng không nên lạm dụng, đôi khi phản tác dụng.
Thế nên:
- Chữ nào tiếng Việt có thì không cần thiết phải dùng tiếng nước ngoài.
- Chữ nào tiếng Việt dùng được thì không dùng tiếng Hán Việt: cha, mẹ, ba, má không sử dụng từ phụ mẫu.
- Chữ nào tiếng Việt không nói lên được ý nghĩa thì dùng từ Hán Việt: đạo đức, lương tri, quốc gia...
- Chữ nào tiếng Việt không thể diễn tả hết ý nghĩa: như khi đề cập đến bài hát nói lên thói quen của một vùng nào đó, chúng ta dùng chữ phong dao.
-...
Bài viết này chỉ là góp thêm vài ý kiến mà thôi. không hề có ý gì khác. Nếu có gì thất lỗi, hay mạo phạm  mong thông cảm cho.

Huỳnh Hữu Đức

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

Mừng Thượng Thọ Trần Tiền Bối


 

 Mừng Thượng Thọ Trần Tiền Bối

Cửu Tuần kính thọ Lão Thi Nhân  
Đại thụ Vườn thơ Thế Vĩnh Trần
Phong ba tuế nguyệt an nhiên tại   
Ý động hoa khai ngọn bút thần.   
                                   Quên Đi
Kính Chúc Anh Tám Vĩnh Thi Đàn Văn Xương Các mãi luôn dồi dào sức khoẻ.

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2024

Bài Thơ Vô Thức

 
 
Người là giống chi chi
Phải chăng một động vật quái dị?
Có đầu óc tinh ma
Thường mơ mộng cao xa
Mà chả thiết tha hiện tại
Cho dù hiện tại rất tuyệt vời
Rất nhàn hạ thảnh thơi
Vẫn cứ nơi nầy trong núi nọ
Tự gây thêm điều khó
Rồi đổ thừa số phận
Mà không nhìn lại bản thân
Quả thật là ích kỷ
Một động vật quái dị!
                       Quên Đi

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2024

Chân Diện Mục

 



Trăng thu tuyệt đẹp lững lờ treo
Rực rỡ trên cao chợt muốn trèo  
Xem thử Chị Hằng đang có khách  
Hay là Cung Quảng đã lên meo    
Ô hô trước mắt sao buồn thảm
Chán thật nơi này lại vắng teo   
Cứ ngỡ chốn tiên như tưởng tượng.   
Nào đâu còn kém cả quê nghèo.
                                  Quên Đi

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Thú Vị



Mãi lo chuyện cửa chuyện nhà
Lâu rồi không rảnh để ta thẩn thờ
Đêm nay có thể vào thơ
Nên bày giấy viết vu vơ mấy vần
Thật sảng khoái chẳng ngại ngần
Êm đềm lục bát đâu cần nghĩ suy
Dở hay mình có lo chi
Ghép câu thả chữ sợ gì người chê
Thơ làm dẫu có vụng về
Miễn mình cảm thấy khoái tê đủ rồi
Niềm vui sẽ được nhân đôi
Nếu như có bạn tình ngồi kề vai...
                               Quên Đi


Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Xướng Hoạ Tình Thu

Bài Thơ Xướng

          Tình Thu

Khi chiếc lá dường ngại nắng soi
Là nàng thu đến với muôn loài
Từng cơn gió động buồn đơn chiếc
Những trận mưa về lạnh lẻ đôi
Có lẻ úa vàng luôn thế đấy
Nên đành cam phận chỉ riêng thôi
Bao mùa thu đến tình thu nhắc
Chuyện cũ dần xa mãi mãi rồi
                                   Quên Đi

Các Bài Thơ Hoạ

               Hồ Thu

Hồ thu bàng bạc ánh trăng soi
Gợn sóng lung linh ảnh mọi loài
Nặng gánh tương tư hoài bóng chiếc
Tim đau khao khát chẳng duyên đôi
Mặt hồ yên ả dường xao động
Giấc mộng vô thường chỉ thế thôi
Đêm tận trăng tàn ôi nguyệt lão
Tơ hồng se mối đã quên rồi
                    Kim Phượng
***
 Tình Xưa - Nghĩa Cũ

Thu về man mác nắng vàng soi
Thu tới bình yên khắp mọi loài
Thu cảm cô đơn buồn bóng chiếc
Thu sầu quạnh quẽ nhớ ai đôi…
Thu vàng lá rụng bay rơi đấy
Thu úa cây còi héo thế thôi
Thu lại tình xưa còn mãi nhắc
Thu đi chuyện cũ bị quên rồi…!
                   Mai Xuân Thanh

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

Khi Đã Già


Già rồi ham hố nữa mà chi    
Thể dục thường xuyên tránh béo phì   
Cái lúc thanh xuân thời chạy nhảy   
Giờ đây tuổi hạc khá so bì   
Sáng chiều hai cử siêng năng tập   
Ba bữa cơm canh khéo thích nghi   
Sức khoẻ giữ trong tình trạng tốt 
Tinh thần minh mẫn chẳng lo gì.
                                  Quên Đi

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024

Cổ Phú - Hán Phú




Nếu tính từ triều đại nhà Hạ đến nay, văn hoá Trung Hoa đã trải qua hơn 4000 phát triển, nền thi ca đi từ đơn giản đến đa dạng, từ bình dân đến bác học, từ lúc chưa có ký tự đến chữ viết hoàn chỉnh.

Khổng Tử đã có công góp nhặt thơ ca trong dân gian để soạn ra Kinh Thi. Đây là những bài ca có vần, nên giới nghiên cứu đặt tên là Thơ Cổ Phong hay Cổ Thể. Dạng thơ này chính là sự khởi đầu cho tất cả những những dạng sau này. Giới học giả đã nhận định nền thi ca của Trung Hoa ở mỗi triều đại đều có cái hay, nhưng có 4 triều đại mang đặc thù riệng. Đó là Hán Phú, Đường Thi, Tống Từ và Nguyên Khúc.

Đường Thi, Tống Từ và Nguyên Khúc được nói đến khá nhiều, chỉ Hán Phú là ít được nhắc đến.

Hán Phú

Định nghĩa.
- Phú (nghĩa đen là bày tỏ, mô tả) là một thể văn có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình.
Phú cũng là một lối ngâm vịnh, có thể lấy câu trong sách hay cảnh gì, ý gì hoặc điển tích cũng được, để làm đầu bài. Có thể chỉ một vần hay nhiều vần cũng được, tuỳ ý tác giả mà thôi. Riêng về số chữ trong câu, có thể tuỳ thích 4, 6, 7 chữ hoặc ít, nhiều hơn..

Phú gồm có Phú Cổ Thể và Phú Đường Luật. Theo cách làm phú có thể chia làm hai lối;1) Cổ thể (thể cũ) là thể phú có trước đời nhà Đường, có vần mà không có đối, hoặc như một bài ca thật dài hoặc như một bài văn xuôi mà có vần, lối sau này gọi là lối phú lưu thủy. (nước chảy). 2)  Đường Phú.
Trong phạm vi bài viết, chỉ đề cập đến Cổ Phú - Hán Phú.

Cổ phú bao gồm 3 tiểu loại : tản thể đại phú, tao thể phú và tiểu phú, nhưng thông thường nhắc đến cổ phú là nhắc đến tản thể đại phú, chỉ Hán phú, còn gọi là từ phú, dung lượng lớn, thường rất dài, hình thức chủ yếu là vấn đáp, tản văn xen lẫn với vận văn. Tác gia tiêu biểu của cổ phú là Tư Mã Tương Như và Ban Cố.

Một bài Hán phú điển hình luôn sử dụng mô thức ‘khách – chủ’, dùng lời đối thoại giữa chủ và khách để triển khai nội dung tác phẩm. Thất phát của Mai Thặng đời Tây Hán dựng ra tình huống Sở thái tử mắc bệnh, Ngô khách vào thăm, dùng hình thức vấn đáp để viết nên một bài phú mang ý khuyên răn. Tử Hư và Thượng lâm của Tư Mã Tương Như đời Tây Hán cũng dùng hình thức vấn đáp giữa nhiều nhân vật để trình bày nội dung tư tưởng, trong đó, Tử Hư là cuộc diễn thuyết tay ba giữa Tử Hư – bề tôi nước Sở - với Tề vương và Ô Hữu tiên sinh, còn Thượng lâm được viết tiếp như phần hai và cũng là cao trào của cuộc trò chuyện,

Kết thúc của Hán phú thường theo một công thức riêng, với một vài câu thơ cuối bài, hoặc học cách ‘loạn viết’, ‘từ viết’ trong « Sở từ ». Đến thời Lục triều, các bài tiểu phú hầu như đều được kết thúc bằng ‘ca viết’ và ‘hựu ca viết’. Các tác giả phú Việt Nam đặc biệt yêu thích hình thức này. Điển hình như Lý Tử Tấn, không bài phú nào của ông thiếu phần ‘ca viết’, cá biệt có Thọ vực phú sử dụng đến bốn lần ‘ca viết’, chia làm bốn đoạn khá dài, khiến cho kết cấu tác phẩm có phần không tương xứng.
Tản thể Phú, Tao thể phú chủ yếu với đặc điểm cuối một số câu lại gắn thêm chữ ‘hề’.

       Thí Dụ:
Trích đoạn Thiệp Giang của Khuất Nguyên

涉江    
余幼好此奇服兮, 
年既老而不衰。 
帶長鋏之陸離兮,
 冠切雲之崔巍。 
被明月兮, 
佩寶璐。 
世溷濁而莫余知兮, 
吾方高馳而不顧。 
駕青虯兮驂白螭, 
吾與重華遊兮瑤之圃。 
登崑崙兮食玉英, 
與天地兮比壽


Thiệp giang

Dư ấu hiếu thử kỳ phục hề,
Niên ký lão nhi bất thôi.
Đới trường giáp chi lục ly hề,
Quan thiết vân chi thôi nguy.
Bị minh nguyệt hề,
Bội bảo lộ.
Thế hỗn trọc nhi mạc dư tri hề,
Ngô phương cao trì nhi bất cố.
Giá thanh cầu hề tham bạch ly,
Ngô dữ Trùng Hoa du hề Dao chi phố.
Đăng Côn Lôn hề thực ngọc anh,
Dữ thiên địa hề tỷ thọ,
...

Qua Sông - Phan Kế Bính dịch  

Ta thuở nhỏ ưa mặc đồ lạ hề,
Tuổi đã già mà chưa thôi.
Đeo gươm dài chi lấp lánh hề,
Đội mũ “thiết vân” chi cao lồi.
Châu “minh nguyệt” hề ta đeo,
Ngọc “bảo lộ” hề ta có.
Đời đục vẩn mà không ai biết ta hề,
Ta cứ ruổi mau mà chẳng ngó.
Cưỡi con “thanh cầu” hề kém con “bạch ly”,
Ta cùng với Trùng Hoa hề chơi ở Dao Phố.
Trèo lên núi Côn Lôn hề, ăn cánh hoa tươi.
Sánh tuổi thọ với trời đất hề,
....

.Trích đoạn Ai Nhị Thế Phú của Tư Mã Tương Như    

    哀二世賦 

登陂阤之長阪兮,
 坌入曾宮之嵯峨。 
臨曲江之隑州兮, 
望南山之參差。 
巖巖深山之谾谾兮, 
通谷𧯆乎𧮰谺。 
汩淢噏習以永逝兮, 
注平臯之廣衍。 
觀眾樹之蓊薆兮, 
覽竹林之榛榛。

Ai Nhị Thế Phú
(Tư Mã Tương Như)

Đăng pha đà chi trường bản hề,
Bộn nhập tằng cung chi tha nga.
Lâm khúc giang chi kỳ châu hề,
Vọng nam sơn chi sâm si.
Nham nham thâm sơn chi hồng hồng hề,
Thông cốc hoát hồ hàm ha.
Cốt hức hấp tập dĩ vĩnh thệ hề,
Chú bình cao chi quảng diễn.
Quan chúng thụ chi ống ái hề,
...
Bản dịch Thơ Ngô Trần Trung Nghĩa

Thương Thay Tần Nhị Thế`   

 
Lên sườn núi dài nhấp nhô chừ,
Dẫn thẳng vào cung điện nguy nga.
Bên bãi đoạn sông uốn quanh chừ,
Xa trông non nam lô nhô.
Liên miên núi thẳm cao chót vót chừ,
Khe sâu nối tiếp khe sâu.
Dòng nước cuồn cuộn chảy về xa chừ,
Đổ vào đồng rộng thẳng tắp.
Xem cây cối xanh tươi tốt chừ,
Ngắm rừng trúc mọc thành bụi.
...


Trên đây là hai bài Phú một thời Chu (Khuất Nguyên), một thời Hán (Tư Mã Tương Như), điểm đặc biệt của Cổ Phú nói chung hay Hán Phú nói riêng, ở cuối một số câu có thêm chữ Hề 兮, trong khi Phú Việt thì không có, vì Phú của Chúng ta thường làm theo thể Đường Phú.
Phú có rất lâu đời ở Trung Hoa và được phát triển hoàn chỉnh, thì ở Việt Nam chỉ mới xuất hiện sau này mà thôi.

Huỳnh Hữu Đức
(Theo Phan Kế Bính - Dương Quảng Hàm - TS Phan Thu Vân - Thi Viên.net)

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

Tình Thu

  


Khi chiếc lá dường ngại nắng soi 
Là nàng thu đến với muôn loài  
Từng cơn gió động buồn đơn chiếc
Những trận mưa về lạnh lẻ đôi  
Có lẻ úa vàng luôn thế đấy    
Nên đành cam phận chỉ riêng thôi   
Bao mùa thu đến tình thu nhắc   
Chuyện cũ dần xa mãi mãi rồi
                              Quên Đi

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

Điều trân quý


- Này chú Cuội,
Tháng ngày trôi, chú làm gì trên đấy?  
- Làm chi đâu chốn này lạnh lẽo, 
chỉ một mình thui thủi dưới gốc Đa.
- Ồ, sao không đến với Hằng Nga,  
hay đùa giỡn cùng nàng Ngọc Thố.  
- Cũng muốn lắm, nhưng nghĩ tấm thân cùng khổ, 
chẳng đèo bồng chẳng dám ngó lên   
- Nhưng Cung Quãng luôn thênh thang vắng lặng,
chắc chị Hằng cũng muốn có ai,   
để quên đi những tháng năm dài, 
trong lạnh lẽo khi luôn cô độc.  
- Giờ Cuội chỉ ước một điều duy nhất,  
rời nơi đây trở về trần thế, 
dùng lá thần (*) cứu giúp nhân gian 
Ở nơi đây chẳng ích lợi gì,
khi chốn ấy biết bao người nan y vướng phải. 
- Một tâm hồn thánh thiện,  
nào khác chi bồ tát tây thiên,   
chỉ muốn giúp chúng sinh còn đau khổ.
Đây chú Cuội với cái tâm cao cả,
tuy thấp hèn nhưng luôn nghĩ cho đời,   
trải ngàn năm mà lòng tốt chẳng hề vơi,
thật khác với những kẻ giàu sang lo vơ vét .
                               Quên Đi
(*) theo cổ tích Việt Nam, cây đa của chú Cuội là cây thuốc có thể cải tử hoàn sanh.

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2024

Nhớ - Thương Yết Hậu Thất Ngôn Tứ Tuyệt


 
              Nhớ

Cô đơn cung quế thêm buồn tủi
Một bóng Hằng Nga nhớ thế gian
Nào khác mình đang mơ cố quận
Than.

            Thương

Đất khách trời cao lạnh khói sương
Niềm riêng tâm sự biết ai tường
Đôi câu thố lộ tình quê cũ
Thương.
                           Quên Đi

***
             Nhớ

Xưa đó bến đưa năm tới về
Bảy năm xa cách chẳng thăm quê
Tai trời, ách nước chia đôi ngả
Thề.

            Thương

Hăm ba năm vắng kiếm tìm nhau
Mái tóc mây bay đã nhạt màu
Bôi xóa thời gian, nhìn chẳng rõ
Trao.
                              Lộc Bắc

***
                  Nhớ

Đã mấy xuân đi chạnh nhớ người
Cô phòng sương lạnh nỗi đầy vơi
Tâm tư giấu kín nào ai biết
Khơi

                  Thương

Một lần cách biệt biết tìm đâu
Chẳng hẹn chờ nhau đến bạc đầu
Mãi đợi suốt đời thương trọn kiếp
Sau
                              Kim Oanh

***
                  Nhớ

Nỗi nhớ muộn màng cứ dậy lên
Râm ran gọi hạ mãi vang rền
Hồn ta năm cũ hay thôi đã
Quên.

                 Thương

Hai mái đầu xanh điểm tuyết sương
Tương tư một đóa đẫm vô thường
Muộn phiền sao mãi ôi sao mãi
Vương.
                              Kim Phượng

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

Tiếng Nguyệt Cầm

 

Xướng

Tiếng Nguyệt Cầm

Kỷ nữ thời xuân đã chẳng còn  
Tỳ bà hận tủi khóc trăng non
Gió đùa cành lá cây xao xuyến   
Sóng vỗ bờ đê đất mỏi mòn  
Khoan nhặt đàn ai mơ chốn cũ   
Đợi chờ năm tháng héo tình son 
Lời ca ai oán gieo thương xót  
Ước nguyện hồi kinh biết có tròn
                            Quên Đi

Họa :

 Vọng Tiếng Nguyệt Cầm

Hương sắc hồng nhan cũ có còn 
Xuân già tủi phận với vừng non
Trời mưa lác đác người khao khát 
Gió thổi vi vu đất xói mòn 
Nhớ bạn tình xưa mơ cố thổ
Thương em đồng điệu mộng lòng son
Đàn ca hoài niệm quê hương xót 
Hy vọng lai kinh ước vẹn tròn…!
                     Mai Xuân Thanh 
          Silicone Valley, Sept. 24/2024  

***

        Bi Khúc

Tỳ bà bi khúc bặt âm còn
Che khuất mặt người tiếng nỉ non
Mang mối ưu sầu hồn khắc khoải
Nặng lòng trắc ẩn dạ hao mòn
Tình duyên dang dở hoen môi mắt
Kỹ nữ sụt sùi nhạt phấn son
Vang vọng âm ba hồ lụa xé
Đèn khêu rượu chuốc mộng không tròn
                            Kim Phượng

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

"Gút Mắt" trong Phép Đối: Tĩnh và Động Từ

 

 
Trong 5 quy định của thơ Đường luật:
- 1) Vần   
- 2) Đối   
- 3) Luật
- 4) Niêm 
- 5) Cách bố cục. 
Duy chỉ có Đối là khiến nhiều người yêu mến Thơ Đường Luật quan tâm nhất. Đúng vậy, dù trên trang mạng cộng đồng, có rất nhiều hướng dẫn, tuy nhiên vẫn còn đó nhiều nghi vấn. 

Theo Thầy Dương Quảng Hàm: "Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
1/ Đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
2/ Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ, nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như danh từ đối với danh từ, hoặc động từ đối với động từ v.v. )"
Có một vấn đề rất nhiều người làm thơ thắc mắc là: Chúng ta có thể dùng Động Từ đối với Tĩnh Từ hoặc ngược lại được chăng? Đúng hay sai? Tại Sao.
Để giải đáp vấn đề này, trước hết, chúng ta cần xác định rõ một điều là trước đây, tiếng Việt ta chỉ theo lối học chữ Nho không có lối phân tự loại Tĩnh từ, Động từ như ngày nay.
Khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, vấn đề phân chia Tự Loại cũng xuất hiện. Chữ Quốc Ngữ được hình thành và hoàn chỉnh do các Giáo sĩ Tây Phương. Nên việc phân Tự Loại cũng xuất xứ từ cú pháp của Phương Tây.

Thơ của các bậc Tiền Bối tuy có phân biệt Thực Hư, Chân Giả, nhưng không cứng nhắc như: trên phải đối với dưới, trời đối với đất, xanh đối với đỏ... các Vị vẫn dùng chữ hiện thực đối với chữ trừu tượng, hữu hình đối với vô hình. 

Chúng ta cùng xem lại vài Bài Thơ của của các bậc Khoa Bảng Nho Gia

Hiện thực đối với Trừu tượng:

Niềm xưa trung ái thề chẳng phụ,
Cảnh cũ điền viên thú đã quen.
        (trích Điền Viên Thú 3 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Trung Ái: từ trừu tượng. Điền Viên : từ hiện thực.

Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu
Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
        (trích Gió Khuya - Quách Tấn)
Sáo: từ hiện thực, Hương: từ trừu tượng.

Động từ đối với Tĩnh Từ:

Tĩnh Từ là tiếng chỉ cái Thể của chủ Từ (Danh Từ) Bông Hoa Đẹp.
Động từ là tiếng chỉ cái dụng của Chủ Từ (Danh Từ) Bông Hoa Nở

Vun thông tưới cúc ba thằng nhỏ,
Ðỏ lửa trà hâm một mụ hầu.
      (trích An Phận của Nguyễn Bỉnh Khiêm)  
Vun: Động từ, Đỏ: Tĩnh từ

Mái tóc chòm xanh chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay.
       (trích Cảnh Già - Nguyễn Khuyến)
Xanh: Tĩnh Từ, Rụng: Động Từ

Kết Luận  

Qua các Thí dụ trên, chúng ta thấy trong phép đối, không phải chỉ là Cân Đối hay Sóng Đối mà còn Phản Đối. Chúng ta có thể dùng các từ chỉ sự vật hiện hữu  đối với vô hình, di động đối với bất động, ồn ào đối với yên lặng. nói chung là Tĩnh đối vối Động. Như vậy, có thể khẳng định Tĩnh từ vẫn có thể sử dụng đối với Động Từ, trong hai cặp Thực và Luận trong Phép Đối ở thơ Đường Luật.

Huỳnh Hữu Đức

 

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

Miếng Bánh Năm Xưa

 

Trung thu nay lại đến    
Thật khác với năm nào   
Cảnh vật dường như thiếu   
Bóng hình của thuở nao.   

Nâng niu từng chiếc bánh  
Phần Má chia thật đều   
Tuy chẳng có bao nhiêu   
Đủ vui đàn con nhỏ.       

Ba phương trời vất vả    
Quê nhà Má khác chi  
Chăm lo con từng tí    
Thật xứng đấng Mẹ Hiền.    

Giờ ngồi quanh mâm bánh   
Với con cháu cười vui    
Giữa ánh trăng mờ ảo. 
Lòng chợt thấy bùi ngùi    

Cầm miếng bánh trên tay   
Bên ly trà ngút khói    
Làm sao có thể nói    
Tâm trạng của con đây.      

Mấy mươi năm chẳng được 
Miếng bánh Má chia phần    
Con mơ về trăng cũ    
Hình dung dáng mẫu thân...
                      Quên Đi