Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

Tiếng Nguyệt Cầm

 

Xướng

Tiếng Nguyệt Cầm

Kỹ nữ thời xuân đã chẳng còn  
Tỳ bà hận tủi khóc trăng non
Gió đùa cành lá cây xao xuyến   
Sóng vỗ bờ đê đất mỏi mòn  
Khoan nhặt đàn ai mơ chốn cũ   
Đợi chờ năm tháng héo tình son 
Lời ca ai oán gieo thương xót  
Ước nguyện hồi kinh biết có tròn
                            Quên Đi

Họa :

 Vọng Tiếng Nguyệt Cầm

Hương sắc hồng nhan cũ có còn 
Xuân già tủi phận với vừng non
Trời mưa lác đác người khao khát 
Gió thổi vi vu đất xói mòn 
Nhớ bạn tình xưa mơ cố thổ
Thương em đồng điệu mộng lòng son
Đàn ca hoài niệm quê hương xót 
Hy vọng lai kinh ước vẹn tròn…!
                     Mai Xuân Thanh 
          Silicone Valley, Sept. 24/2024  

***

        Bi Khúc

Tỳ bà bi khúc bặt âm còn
Che khuất mặt người tiếng nỉ non
Mang mối ưu sầu hồn khắc khoải
Nặng lòng trắc ẩn dạ hao mòn
Tình duyên dang dở hoen môi mắt
Kỹ nữ sụt sùi nhạt phấn son
Vang vọng âm ba hồ lụa xé
Đèn khêu rượu chuốc mộng không tròn
                            Kim Phượng

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

"Gút Mắt" trong Phép Đối: Tĩnh và Động Từ

 

 
Trong 5 quy định của thơ Đường luật:
- 1) Vần   
- 2) Đối   
- 3) Luật
- 4) Niêm 
- 5) Cách bố cục. 
Duy chỉ có Đối là khiến nhiều người yêu mến Thơ Đường Luật quan tâm nhất. Đúng vậy, dù trên trang mạng cộng đồng, có rất nhiều hướng dẫn, tuy nhiên vẫn còn đó nhiều nghi vấn. 

Theo Thầy Dương Quảng Hàm: "Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
1/ Đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
2/ Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ, nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như danh từ đối với danh từ, hoặc động từ đối với động từ v.v. )"
Có một vấn đề rất nhiều người làm thơ thắc mắc là: Chúng ta có thể dùng Động Từ đối với Tĩnh Từ hoặc ngược lại được chăng? Đúng hay sai? Tại Sao.
Để giải đáp vấn đề này, trước hết, chúng ta cần xác định rõ một điều là trước đây, tiếng Việt ta chỉ theo lối học chữ Nho không có lối phân tự loại Tĩnh từ, Động từ như ngày nay.
Khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, vấn đề phân chia Tự Loại cũng xuất hiện. Chữ Quốc Ngữ được hình thành và hoàn chỉnh do các Giáo sĩ Tây Phương. Nên việc phân Tự Loại cũng xuất xứ từ cú pháp của Phương Tây.

Thơ của các bậc Tiền Bối tuy có phân biệt Thực Hư, Chân Giả, nhưng không cứng nhắc như: trên phải đối với dưới, trời đối với đất, xanh đối với đỏ... các Vị vẫn dùng chữ hiện thực đối với chữ trừu tượng, hữu hình đối với vô hình. 

Chúng ta cùng xem lại vài Bài Thơ của của các bậc Khoa Bảng Nho Gia

Hiện thực đối với Trừu tượng:

Niềm xưa trung ái thề chẳng phụ,
Cảnh cũ điền viên thú đã quen.
        (trích Điền Viên Thú 3 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Trung Ái: từ trừu tượng. Điền Viên : từ hiện thực.

Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu
Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
        (trích Gió Khuya - Quách Tấn)
Sáo: từ hiện thực, Hương: từ trừu tượng.

Động từ đối với Tĩnh Từ:

Tĩnh Từ là tiếng chỉ cái Thể của chủ Từ (Danh Từ) Bông Hoa Đẹp.
Động từ là tiếng chỉ cái dụng của Chủ Từ (Danh Từ) Bông Hoa Nở

Vun thông tưới cúc ba thằng nhỏ,
Ðỏ lửa trà hâm một mụ hầu.
      (trích An Phận của Nguyễn Bỉnh Khiêm)  
Vun: Động từ, Đỏ: Tĩnh từ

Mái tóc chòm xanh chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay.
       (trích Cảnh Già - Nguyễn Khuyến)
Xanh: Tĩnh Từ, Rụng: Động Từ

Kết Luận  

Qua các Thí dụ trên, chúng ta thấy trong phép đối, không phải chỉ là Cân Đối hay Sóng Đối mà còn Phản Đối. Chúng ta có thể dùng các từ chỉ sự vật hiện hữu  đối với vô hình, di động đối với bất động, ồn ào đối với yên lặng. nói chung là Tĩnh đối vối Động. Như vậy, có thể khẳng định Tĩnh từ vẫn có thể sử dụng đối với Động Từ, trong hai cặp Thực và Luận trong Phép Đối ở thơ Đường Luật.

Huỳnh Hữu Đức

 

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

Miếng Bánh Năm Xưa

 

Trung thu nay lại đến    
Thật khác với năm nào   
Cảnh vật dường như thiếu   
Bóng hình của thuở nao.   

Nâng niu từng chiếc bánh  
Phần Má chia thật đều   
Tuy chẳng có bao nhiêu   
Đủ vui đàn con nhỏ.       

Ba phương trời vất vả    
Quê nhà Má khác chi  
Chăm lo con từng tí    
Thật xứng đấng Mẹ Hiền.    

Giờ ngồi quanh mâm bánh   
Với con cháu cười vui    
Giữa ánh trăng mờ ảo. 
Lòng chợt thấy bùi ngùi    

Cầm miếng bánh trên tay   
Bên ly trà ngút khói    
Làm sao có thể nói    
Tâm trạng của con đây.      

Mấy mươi năm chẳng được 
Miếng bánh Má chia phần    
Con mơ về trăng cũ    
Hình dung dáng mẫu thân...
                      Quên Đi

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

Cuối Đông

 

  

Xướng:

Cuối Đông


Đông sắp tàn rồi buốt chẳng vơi
Vườn xua hoang vắng thuở xa người
Nhớ nhung giăng kín gian phòng nhỏ
Khắc khoải hoài mong một góc trời
Giọt tủi giọt tuôn sầu mấy kiếp
Lệ sa lệ xót lạnh ngàn đời
Hạ người ấm áp đầy hương nắng
Có thấu hoa lòng lặng lẽ rơi

Kim Oanh
Melbourne cuối đông 2024
***
Các Bài Họa:

Thao Thức


Nơi này tâm sự mãi đầy vơi
Thu đến càng khơi nhắc nhớ người
Cánh én đảo chao tìm bến đỗ
Đàn chiên nao nức mộng quê trời
Dẫu còn chửa trọn niềm mơ ước
Và cũng đâu xong gánh nợ đời
Khấn nguyện Cao Xanh hằng tưởng đoái
Nhân trần siêu thoát cảnh sầu rơi.

Thái Huy 
8/29/24
***
Hạ Tàn

Hạ tàn hơi nóng vẫn chưa vơi
Đợi gió heo may thổi mát người
Khắc khoải niềm mong luôn ngấm dạ
Bâng khuâng nỗi nhớ mãi ghi đời
Quê người ngao ngán mơ đầu gió
Đất khách vời trông mộng cuối trời
Cứ ngóng sương mờ buông trước ngõ
Chiều vàng lắng đọng lá thu rơi

songquang
20240829
(Theo thời tiết báo ,hôm nay là bắt đầu vào Thu)
***
Thu Cảm


Mùa thu lặng lẽ nóng dần vơi
Cái lạnh heo may thấy nhớ người
Gió đã lang thang từng góc phố
Mây còn mơ mộng cuối chân trời
Tình ngăn tình cách đìu hiu bóng
Chữ đợi chữ mong thấm thía đời
Chiếc lá trên cành đang héo úa
Phượng hồng bao cánh lặng thầm rơi.

Quên Đi
***
Cánh Hoa Rơi

Ẩn tình chôn kín khóc cho vơi
Mơ bóng trong tim bóng một người
Sực tỉnh thì ra cơn mộng ảo
Mong chi buộc mãi cánh chim trời
Lời oanh liễu vút theo làn gió
Một áng hương tan dậy bão đời
Mây nước vô tình đưa đẩy mãi
Mong chờ mỏi đợi kiếp hoa rơi


Kim Phượng
***
Cuối Hạ

Cái nóng cháy da vẫn chửa vơi,
Vườn sau héo úa huống chi người.
Trưa hanh lửa hạ cây vàng đất,
Chiều xuống nắng nung ráng đỏ trời.
Gió lặng đóm còn khoe chớp sáng,
Đêm về ve vẫn khóc thương đời.
Muôn người mong mỏi heo may đến,
Đợi vợ chồng Ngâu lệ nhỏ rơi!

Đỗ Chiêu Đức
08-29-2024
***
Tiếng Oanh Hót Ở Vườn Thơ

Lời thơ đẹp quá, ý đầy vơi
Đọc mãi, tưởng chưa thấm nỗi người
Đông trắng phương xa vừa dứt điểm
Hạ vàng cõi tạm vẫn tươi trời
Tiếng oanh thả tiếng còn nguyên giọng
Hoa phượng mừng hoa mãi thắm đời
Tha thiết tìm người mùa đổi tiết
Xuân về nắng chiếu rỡ ràng rơi ...

Rancho Palos Verdes 30 - 8 - 2024
Cao Mỵ Nhân
***
Nắng Cali…!

Giữa đàng gãy gánh, tớ chơi vơi…!
Ngơ ngác mình ta, nhớ một người…
Nỗi khổ ăn năn mà ngủ đất
Niềm đau hối hận mới than trời
Châu sa ấm lạnh buồn muôn kiếp
Lệ đỗ hàn vi khóc mãn đời
Hiểu thấu tình ai sầu viễn xứ…
Hè đi… Tháng Tám Nắng Chiều rơi…!


Mai Xuân Thanh
Silicone Valley, August 31, 2024


Thứ Năm, 5 tháng 9, 2024

Nhớ thương

 
Ta lại bên nhau sau mùa cô-vít  
Như bướm si tình khắng khít bên hoa   
Nụ tình trao bù những lúc chia xa   
Em vẫn thế khiến hồn ta ngây ngất.  

Tay trong tay lắng nghe tim thôi thúc  
Điệu nhạc tình dồn dập khúc xuân ca  
Đêm đen hỡi xem chừng mi vội vã  
Ghét ghen gì vừa họp hoá chia ly      

Để giờ đây hai đứa ở hai nơi   
Đan giấc mộng hai mảnh đời hai lối. 
                                       Quên Đi

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Xướng Hoạ Ngày Mới

Ngày Mới

Ngày Mới

Đêm tàn bóng tối cũng dần xa   
Ánh sáng ban mai toả mọi nhà   
Vọng tưởng vườn xưa thay đổi sắc   
Mơ nhìn bướm cũ ghé tầm hoa    
Một thời chữ nghĩa buồn hiu hắt  
Cái thuở tình thơ hết mặn mà    
Cũng bởi sân si kia chẳng thấu
Nên gây vướng mắc ở lòng ta.

                            Quên Đi

Bài Thơ Hoạ 

                Học Đòi

Ngủ say giấc điệp mộng còn xa 
Tia nắng bình minh rọi xó nhà 
“Thơ Thẩn Vườn” xưa lai vãng cảnh 
Chạnh niềm cố cựu ghé xem hoa 
Nhớ thời chữ nghĩa người vui vẻ 
Thương thuở thầy cô bục giảng mà 
Xướng họa nhiều thơ hay thể hiện 
Bên cây cổ thụ nặng tình ta…!
                      Mai Xuân Thanh 
               Silicone Valley, 7/21/2024  

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2024

Chút Tình Quê

 

Bài Thơ Xướng

         Chút Tình Quê

Nhìn ánh hoàng hôn thấy chạnh lòng
Miền Tây tôi đó vẫn hoài mong
Cách chim bạt gió tìm nơi trú
Lữ khách xa nhà dõi mắt trông
Chầm chậm đêm đen sương lả tả
Ngậm ngùi chốn cũ lạnh lùng sông
Nghe hơi gió lạ càng thêm nhớ
Nỗi nhớ trong tim đất chín rồng.
                                 Quên Đi

Các Bài Thơ Hoạ

               Bên Trời

Hướng về cố quận xót xa lòng
Tin nhạn cành xưa những mỏi mong
Đất khách năm cùng luôn lắng đợi
Hồn quê vận lỡ gắng chờ trông
Ngậm ngùi dõi mắt ngoài song cửa
Thề quyết dìm mình tận đáy sông
Bất tử khí hùng gương tuẫn tiết
Lưu danh muôn thuở giống tiên rồng
                             Kim Phượng
***
              Mòn Mỏi Đợi

Nghĩ đến người xưa chợt chạnh lòng
Biết đà tử biệt, vẫn hoài mong
Ngậm ngùi dạ nhớ, tim mòn đợi
Khắc khoải tâm chờ, mắt dõi trông
Tháng bảy mưa rơi tràn ngạch cửa
Chiều hôm triều phủ ngập dòng sông
Thẫn thờ nhìn cánh chim bay khuất
Trong áng mây loang tựa dáng rồng.
                                 Phương Hà
***
    HỒN MẸ VIỆT NAM

Lận đận trời xa thấy đắng lòng
Hướng về đất nước vẫn đợi mong
Một đàn chim Việt bay về tổ
Vạn đứa con Nam trở lại sông
Hùng khí tiền nhân tung cánh hạc
Hậu sinh tổ quốc xứng nòi Rồng
Quây quần chia sẻ vui nguồn cội
Hồn mẹ Việt Nam mãi ngóng trông
                          songquang 20240813
***
       TÌM VỀ CHỐN CŨ 
 

Từ đi, cách mặt đến xa lòng
Sao vẫn âm thầm nỗi nhớ mong
Sa Đéc mịt mù sương khói đợi
Long Xuyên thăm thẳm nắng mưa trông
Khi mình kiếm được đường ra biển
Lúc bạn chưa xong chuyện vượt sông
Mấy chục năm rồi, nay trở lại
Bờ xưa khô khốc bãi xương rồng ...
         Los Angeles 13 - 8 - 2024 CAO MỴ NHÂN
***
           TRẮC ẨN

Thu về tức cảnh xuyến xao lòng
Lá rụng chừng nhiêu bấy nỗi mong
Nào biết mô ngày cho khỏi đợi?
Khó hay nọ bến để còn trông?
Ai người hiểu giúp đây lòng mỗ?
Ai bạn chia giùm đó nhánh sông?
Nếu chẳng thôi thời muôn kiếp lạc,
Còn chi hậu duệ của con Rồng.
                            Thái Huy 8/13/24
***
             Ngàn Dặm

Tìm về lối cũ nhói đau lòng
Người đã quên rồi hết đợi mong
Nhà vắng tiêu điều bao luyến tiếc
Vườn xưa hiu hắt những hoài trông
Lỡ làng đôi ngã xa ngàn dặm
Khắc khoải hai nơi cách biệt sông
Hoàn cảnh ngày nay như cổ tích
Bởi ta dòng dõi cháu tiên rồng
                                Kim Oanh
***
               Tình Quê

Hoàng hôn đất khách ngẩn ngơ lòng,
Cố quốc tình quê những ước mong.
Lục tỉnh vườn cây ra sức ngắm,
Nam kỳ ruộng lúa bạt ngàn trông.
Cần Thơ Bình Thủy xôn xao khách,
Chợ Nổi Cái Răng tấp nập sông.
Xa cách muôn trùng lòng vẫn nhớ,
Cửu long là đất chín con rồng !
                           Đỗ Chiêu Đức
                             08-15-2024


Thứ Năm, 22 tháng 8, 2024

Mùa Báo Hiếu

 


Đêm trăng rằm tháng Bảy   
Soi sáng tấc lòng con  
Năm tháng nhiều dau khổ
Sinh thành tựa biển non
Vu Lan nay lại đến    
Hiếu đạo mãi không tròn
Nhìn khói lam mờ ảo    
Thương Ba Má chẳng còn
                         Quên Đi

 

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2024

Lòng Con


Đêm nay trời trong sáng   
Bên song ngắm trăng vàng   
Con tim chừng nhói động   
Nghe ray rức cõi lòng  

Vu Lan đâu đã cận   
Mà nghĩ đến song thân  
Quá mười năm khuất núi  
Sao ta vẫn ngậm ngùi    

Cả cuộc đời gian khó   
Ba Má vẫn mãi lo  
Nuôi đàn con thơ dại     
Oằn trĩu cả đôi vai   

Biển trời ơn chưa trọn   
Chữ hiếu viết chưa tròn  
Lặng nhìn qua di ảnh 
Nhớ lắm đấng sinh thành.
                      Quên Đi


Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

Điệp Khúc Ngâu

 
Bao đêm khắc khoải nỗi ưu sầu   
Cách biệt đôi bờ cũng bởi đâu   
Đôi bóng ngày xưa vui hạnh phúc   
Giờ đây mỗi đứa mỗi bên cầu    

Trời còn dày đoạ đến khi nào    
Bờ bắc bờ nam mãi cách nhau    
Bến mộng giờ đây thành bến đợi   
Ngàn năm thấm thía tấm lòng đau   

Song Thất ngày nay gợi nhớ về  
Giọt Ngâu mừng tủi kéo lê thê   
Thương người năm tháng trong mòn mỏi   
Nhịp thước cầu ô thoả ước thề.

                               Quên Đi

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Hạnh Đầu Đà


- Ông Xã ơi, cho em hỏi chuyện này coi  
-  Nhờ người ta thì nói nghe ngọt xớt, còn đụng chuyện thì giũa te tua. Chuyện gì? Em làm như tui Bát Đại Tinh Thâm vậy.
- Thôi mà, em hỏi nè, mấy tháng nay, vụ sư Minh Tuệ đăng đầy trên youtube, có nhiều cái không hiểu anh giải thích dùm nghen.   
- Không hiểu gì hỏi đi, không biết anh giải đáp được hông đây 
- Có một số vị thượng toạ, chủ trì các chùa nói sư Minh Tuệ không phải là tu sĩ, đọc được  bao nhiêu Kinh kệ, hiểu bao nhiêu Phật Pháp, đúng là Ba trợn ôm nồi cơm điện đi xin ăn khắp nơi... rồi nào là 13 Hạnh Đầu Đà, nào là Y phấn tảo...
- À hên quá, cái này thì anh biết chút chút, nhưng cũng phải coi lại vì có nhiều chi tiết không nhớ, hẹn tối nghen.
Sau đó tôi vào mạng, dựa vào một ít hiểu biết cộng với một số thông tin trên mạng để thoả mãn những thắc mắc của Bà Xã.

1- Y Phấn Tảo  (衣 粉 掃) 
- Chiếc áo của tu sĩ tu theo Hạnh Đầu Đà, gồm những mảnh vải vụn bị bỏ đi, được các vị thu lượm trên đường đi khất thực, kết nối lại thành tấm áo để mặc..
- Có phải là áo ngũ sắc không?
- Không phải. Do áo được may bằng những mảnh vải lượm bất kỳ, nên Y Phấn Tảo sẽ có nhiều màu sắc có thể chỉ 2-3 hoặc nhiều hơn, chứ không chỉ 5 màu.   

2- Hạnh Đầu Đà  
Có nhiều người cho rằng tu theo Hạnh Đầu Đà là tu khổ hạnh hành thể xác. Điều này không đúng lắm, mặc dù hai từ Đầu Đà có nghĩa khổ cực khó khăn. Muốn tìm hiểu phép tu này khá dài dòng. Trước hết phải tìm ra nguồn cội.
Trước khi Phật Giáo xuất hiện, tiểu lục địa Ấn Độ có giáo phái Bà La Môn thống trị. Do đó, Giáo lý của Phật Giáo và Bà La Môn có một số quan điểm tương đồng. Trong đó điều quan trọng nhất chính là Giải Thoát
Theo Bà La Môn có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát, trong đó có con đường tu khổ hạnh cực đoan giống như hành xác vậy.
Còn theo Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni) Tôn chỉ của Phật Giáo là theo Trung Đạo. Trung Đạo mà Thế Tôn truyền dạy là ở giữa 2 cực: tu theo Khổ nhục và tu dựa theo Lạc thú (thụ hưởng vật chất  khi tu niệm). Điều này thấy hơi giống đạo Trung Dung trong Nho Giáo
Đức Thế Tôn  từng bảo:
“Này Ca Diếp, ‘ tất cả có’ là một cực đoan. ‘tất cả không có’ là một cực đoan khác. Này Ca Diếp, ở giữa hai cực đoan này là trung đạo, bởi vì đây là một sự nhận thức đúng đắn về sự vật…”
"Này Ca Diếp, ‘ngã (bản thể luôn tồn tại vĩnh viễn trong mỗi người)’ là một cực đoan. ‘Không có ngã' là một cực đoan khác. Ở giữa hai cực đoan này là quan điểm Trung đạo mà nó không hình tướng, không biểu lộ, không chống đỡ, không thực thể, không ký hiệu và không khái niệm. Này Ca Diếp, đây được gọi là trung đạo, sự nhận thức đúng đắn về các sự vật.
Theo quan niệm thời bấy giờ, tu là phải thật khổ thì mới đắc đạo. Vì vậy, ngài đã bỏ ra năm năm tầm sư học đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, thực tập tất cả các phương pháp tu khổ hạnh: Hành thân hoại thể, phơi nắng, phơi sương, Có ngày ăn chỉ một hạt đậu hoặc một hạt mè, có khi nhịn đói,... đến mức thân thể tiều tụy, thậm chí suýt chết.
Lúc ấy, Ngài giác ngộ ra rằng, tu khổ hạnh cực đoan không đem lại lợi ích,  và từ bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan, quay trở về tu tập theo con đường trung đạo, tức là nuôi dưỡng thân này có đủ sức khỏe để hành các Pháp.
Cuối cùng, Ngài thành tựu đạo quả nhờ Pháp tu Trung đạo này. Từ đó, Đức Phật đã hướng dẫn Tăng đoàn thực hành pháp tu Trung Đạo, trong đó có pháp tu Hạnh Đầu Đà.
Trong hàng đệ tử Phật, tuy có nhiều tăng tu theo Hạnh Đầu Đà, nhưng chỉ có Đại Tôn Giả Ca Diếp là người đầu tiên thực hiện đầy đủ pháp tu Hạnh Đầu Đà. Tôn giả Đại Ca-Diếp đã trọn đời giữ hạnh đầu-đà. Dù rằng, lúc tuổi cao sức yếu, đạo giải thoát đã viên mãn, và chính Như Lai có lời khuyên “nên bỏ hạnh khất thực, cho đến các hạnh đầu-đà khác, mà nên nhận lời mời của các trưởng giả và nhận y áo” nhưng Tôn giả vẫn giữ vững công hạnh. Một phần vì Tôn giả vốn đã quen với hạnh đầu-đà, nhưng quan trọng hơn, có lẽ Tôn giả ngầm gửi một lời nhắn nhủ sâu xa đến hàng hậu thế chúng ta hiện nay.

Từ đó, Thế Tôn đã xác định một cách chắc chắn với chúng đệ tử:
Nếu Hạnh Đầu Đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời. Nếu có pháp ở đời, thì thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm (Lời nói này rất đúng với hiện tại. Khi sư Minh Tuệ xuất hiện thì những Giả Tăng, Ma Tăng dần lộ diện và bị chúng Phật Tử rời  xa). Này các Tỳ-kheo, hãy học như Ca-diếp tu tập.

Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Theo các Tài liệu ghi chép Hạnh Đầu-đà (Dhuta), là hạnh tu khắc khổ để dứt bỏ các tham dục. Có 12 Hạnh Đầu Đà (có nơi ghi 13 do tách Khất Thực thành 2 Hạnh) :
 12 Hạnh Đầu Đà :

1- Y phục làm bằng những mảnh vải rách. 2-Chỉ dùng ba y. 3-Khất thực mà ăn. 4-Chỉ ăn một bữa vào giờ trưa. 5-Không ăn quá no. 6-Không giữ tiền bạc. 7-Sống độc cư. 8-Sống trong nghĩa địa. 9-Sống dưới gốc cây. 10-Sống ngoài trời. 11-Không ở cố định, thường du hành. 12-Ngồi ngủ, không nằm ngủ.
13 Hạnh Đầu Đà:
  1. Mặc y phấn tảo: Đây là loại y được làm từ những miếng vải vụn, rách, không dùng đến được lấy từ nghĩa địa, bệnh viện, ở ngoài đường hay ở rừng,…Sau đó được giặt sạch và vá lại thành y để mặc. Vị hành giả tu tập không nhận sự cúng dường y áo của thí chủ mà đi nhặt những vải này. Cho nên không bị lệ thuộc vào thí chủ.
  2. Chỉ mặc ba y: Vị tu sĩ tu hạnh đầu đà chỉ có ba y, bao gồm: thượng y, trung y và hạ y. Chư Tăng dùng y đó đến khi rách, thậm chí là không còn chỗ vá mới được may mới.
  3. Phải khất thực để sống: Ở hạnh này, chư Tăng tu hành hạnh đầu đà mang bình bát đi khất thực để nuôi sống bản thân mình. Chư Tăng không đợi tín chủ mời đến nhà để cúng mà phải mang bình bát khất thực.
  4. Khất thực theo thứ lớp: Đây là việc đi khất thực theo từng nhà, không vì chọn gia chủ giàu sang mà bỏ những gia đình nghèo khổ, không tới nơi có nhiều đồ ăn ngon mà phải khất thực tuần tự. Đó là một hạnh của người tu hành Pháp đầu đà.
  5. Ngồi ăn một lần: Đó là khi ăn, nếu đã đứng dậy thì vị tu sĩ đó không ăn nữa, có người đến cúng thêm cũng sẽ không ăn.
  6. Ăn bằng bình bát
  7. Không để dành đồ ăn: Vị hành giả khi thọ thực không để dành đồ ăn còn dư (hoặc đồ tín chủ cúng dường) cho ngày hôm sau.
  8. Sống ở trong rừng
  9. Ở dưới gốc cây
  10. Ở ngoài trời
  11. Ở nghĩa địa
  12. Nghỉ ở đâu cũng được: Tu sĩ tu hành hạnh đầu đà không chọn chỗ nghỉ, mà tùy thuận nghỉ ở đống rơm, gốc cây,...
  13. Ngồi ngủ, không được nằm ngũ.
Còn việc một số tu sĩ Phật Giáo thuộc giáo hội Phật Giáo Việt Nam nói Sư Minh Tuệ không biết bao nhiêu pháp môn Phật pháp ..thì chính các vị ấy mới không rành các tu tập trong đạo Phật, vì Hạnh Đầu Đà là một phép tu tập của Phật Giáo.

3- Kết Luận
Từ sau Tôn Giả Ca Diếp hơn 2500 năm, không ai có thể tu tập trọn vẹn Hạnh Đầu Đà, mãi đến nay có lẽ chỉ mình Sư Minh Tuệ mà thôi. Không biết thời gian sau này, có được vị sư nào tu tập được 13 Hạnh Đầu Đà nữa hay không? 
Cũng vì sự khó khăn trong tu tập Hạnh Đầu Đà, nên Sư Minh Tuệ đều được Chúng Tăng, cũng như Phật tử trong nước sùng bái. Chẳng những thế, các tổ chức tôn giáo trên khắp thế giới, không riêng gì Phật giáo, các tôn giáo khác đều rất kính trọng và ngưỡng mộ sư Minh Tuệ. 
Có người còn coi Sư là vị Phật sống của thời hiện đại. Đúng là chuyện ngàn năm mới có một!
Huỳnh Hữu Đức

(Tài liệu tham khảo: Thư Viện Hoa Sen, Giác Ngộ online)

 

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Ngày Mới



Đêm tàn bóng tối cũng dần xa   
Ánh sáng ban mai toả mọi nhà   
Vọng tưởng vườn xưa thay đổi sắc   
Mơ nhìn bướm cũ ghé tầm hoa    
Một thời chữ nghĩa buồn hiu hắt  
Cái thuở tình thơ hết mặn mà    
Cũng bởi sân si kia chẳng thấu
Nên gây vướng mắc ở lòng ta.

                            Quên Đi

 

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2024

Tình là Vạn Năng

Vũ trụ trong mờ ảo   
Lớp lớp những tinh vân    
Mênh mông chừng vô tận  
Mấy chục tỷ quang niên (*)  

Mẹ loài người tròn méo (**)    
Hạt cát giữa thiên hà    
Nhưng đức thật bao la (***) 
Dưỡng nuôi bao sinh vật.
    
Cuộc sống đậm sắc màu   
Từ hình hài đa dạng     
Đến tình cảm thanh cao
Hằng tỷ năm phát triển (****)

Chìa khoá cho tiến bộ
Do tình cảm phát sinh 
Tạo nên sự gắn kết
Nhân loại dần thông minh  

Hai mình vốn xa lạ    
Gặp gỡ và kết đôi
Khi xưa người tiền sử   
Cũng giống chúng mình thôi.      
                               Quên Đi  

(*) Theo phát hiện mới nhất, chúng ta vừa nhìn thấy được thiên thể cách trái đất 11 tỷ năm ánh sáng. Giả thiết Vũ trụ hình tròn, như thế đường kính của vũ trụ không dưới 20 tỷ năm ánh sáng. 
(**)  Ở phần giữa trái đất hơi phình ra nên không thể tròn.
(***) Theo Đạo Đức Kinh của Lão Giáo, Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi dưỡng vạn vật. 
(****) Thời gian phát triển thành người hoàn chỉnh theo phỏng đoán.

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2024

Trường Ca

 

Bảy tám mươi thôi chớ nói già      
Mùa xuân đôi chín ngỡ vừa qua   
Hồn còn vương vấn bên vườn mộng   
Tâm cũng thẩn thờ đắm sắc hoa   
Dào dạt lời thơ đầy ý tứ        
Du dương vần điệu thả tình ta  
Tuổi đời cứ mặc yêu thương vẫn 
Mãi tại nơi này một khúc ca.
                                 Quên Đi



Thứ Tư, 10 tháng 7, 2024

Ca dao cạo 11

 




               Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng
             Nếu mà em chộp được chàng
          Vi la xe cộ vòng vàng tặng ngay
             Chiến tranh thừa nữ thiếu trai
           Tiếc gì của ấy chậm tay tiêu liền
                 Chị em đừng bảo em điên
       Một khi vuột mất thiệt phiền tấm thân.
                                          Quên Đi


Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Cười chút chơi "Di Truyền"

 
Ông Bà ta có câu: "Cha mẹ cú đẻ con tiên. Cha mẹ hiền sanh con dữ". Câu này có hai ý, nửa đấu nói về hình dáng, nửa sau nói đến tánh tình.
Ở bài viết này, mình xin được "tám" chút xíu về nửa đầu của câu trên.
Có nhiều gia đình, tuy ba má có khuôn mặt, tướng tá hơi khó coi, sinh con trông rất xinh xắn, nhưng khi nhìn vẫn thấy rất giống cha mẹ. 
Ngược lại, có nhiều cặp vợ chồng rất đẹp, sinh con trông vẫn có nét giống nhưng lại xấu.
Sao lại có chuyện kỳ lạ thế?  
Không có gì kỳ lạ cả. Con người ta dù xấu mấy đi nữa, nhưng trong mười phần vẫn có đôi phần dễ nhìn. Đứa con được sinh ra may mắn thay, chúng không giống cái xấu, mà lại tập trung những nét đẹp của ba má. Ngược lại, đôi vợ chồng xinh đẹp có con xấu, vì chúng thừa hưởng những nét xấu của cha mẹ.  
Như vợ chồng tôi, chỉ có một thằng con, khi lớn lên, nó lại giống cái xấu của ba má. Chỉ chuyện cái tóc thôi, tôi thì tóc không bạc, nhưng bị đầu hói, trong khi vợ tôi thì ngược lại. Sao con tôi ngu quá chỉ giống cái xấu mà không lựa cái đẹp, phải chi chọn giống mẹ thì đầu không bị hói, và lựa giống cha thì tóc đâu có bạc sớm.    
Nói cho vui vậy thôi, ai cũng muốn sinh con đẹp, nhưng con cái thửa hưởng di truyền của cha mẹ, trúng cái nào thì xào cái đó, biết làm sao mà chọn với lựa phải không quý vị.
Huỳnh Hữu Đức

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

Nhớ Người Cảm Tác

 


Chiều v êm dịu cánh hoa bay     
Vẳng tiếng thở buồn vng đến đây
Đất Vĩnh hiền hoà bền nghĩa trọng
Cửu Long êm ả nước vơi đầy
Người nơi đất khách quên hay nh
Kở quê nhà đắng lẫn cay
Ai nỡ kết tơ rồi gởi lại
Để người vương vấn cuộc tình say.

                                   Quên Đi.