Thứ Hai, 31 tháng 8, 2020
Điển Hay Tích Lạ - Hát Quan Họ
Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020
Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020
Ký Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn - Trần Thái Tông
Dịch thơ:
Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020
Giọt Ngâu
Bài Xướng:
Giọt Ngâu
Tháng Bảy sụt sùi đẫm giọt ngâu
Tiếng ai nức nở mối duyên đầu
Sông Ngân ngăn cách tình phu phụ
Mắt lệ tuôn tràn cảnh bể dâu
Mong đợi tháng ngày luôn khắc khoải
Chìm trông hôm sớm lắm u sầu
Bao giờ Ngưu Chức thôi Nam Bắc
Ô Thước cần chi bắc nhịp cầu.
Kim Phượng
***
Các Bài Họa:
Bao Giờ Lấp Dòng Ngân?
Ô Thước cần chi bắc nhịp cầu! *
Nếu mà tháng Bảy chẳng mưa Ngâu
Thì đâu chia rẽ tình chồng vợ
Cũng chả phân ranh cảnh não sầu
Thăm thẳm sông dài gom nước suối
Xa vời biển rộng hóa cồn dâu
Bao giờ lấp được dòng Ngân nhỉ?
Hai kẻ Chức - Ngưu hết bạc đầu!
songquang20200817
* Thơ Kim Phượng
***
Đẫm Lệ Tình Ngâu
Đầu nguồn, cuối biển một giòng ngâu
Chung thuỷ như thơ viết buổi đầu
Ca tụng tình Ngưu Lang, Chức Nữ
Buồn phiền đời đại hải, nương dâu
Ngân Hà vạn thủa trôi niềm nhớ
Ô Thước nghìn thu đọng nỗi sầu
Mưa gió bạt ngàn bao hận tủi
Người đi gọi nắng tới hong cầu...
Hawthorne 17 - 8 - 2020
Cao Mỵ Nhân
***
Nhịp Cầu Ô Thước
Ngập tràn suối lệ mối tình Ngâu
Ai nỡ gây nên cảnh thảm sầu
Xa ngát thời gian và khoảng cách
Biệt mù bãi bể với nương dâu
Thời gian thương nhớ sâu quầng mắt
Năm tháng tương tư bạc mái đầu
Xót phận Chức Ngưu khôn gặp gỡ
Quạ đen chắp cánh bắc nên cầu.
Phương Hà
***
Một Thiên Tình Sử
Một thiên tình sử tích mưa ngâu
Tiên nữ tương tư cái buổi đầu
Ả Chức lơ là khung cửi dệt
Chàng Ngưu chểnh mảng bãi nương dâu
Ngân Hà muôn thuở đây thương nhớ
Vân vũ ngàn thu đó thảm sầu
Nước mắt tương phùng rơi thấm đất
Tình chung Ô Thước nối nên cầu
Mai Xuân Thanh
Ngày 17/08/2020
***
Tình Ngâu
Mây trời u ám chuyện tình Ngâu
Hai kẻ yêu nhau khóc mộng đầu
Đắm sắc chàng Ngưu quên ruộng rẫy
Động lòng ả Chức lỡ tầm dâu
Thiên đình thịnh nộ đày đôi ngã
Vân hán xót thương một gánh sầu
Cám cảnh Ngọc Hoàng cho lũ quạ
Hàng năm Thất tịch đến xây cầu.
Quên Đi
Thứ Hai, 24 tháng 8, 2020
Ký Sinh
Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020
Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020
Điển Hay Tích Lạ - Nữ Trượng Phu
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu. Viên đốc tướng Đan Dương là Qui Lãm cùng viên quận thừa là Đái Viên thường có ý mưu sát Dực. Hai tên mới kết thông với kẻ tùy tùng của Dực là Biên Hồng. Thế là cả ba mưu giết Dực.
Một hôm, các tướng cùng các vị huyện lịnh về hội họp đông đủ tại Đan Dương. Tôn Dực cho bày yến tiệc thiết đãi. Vợ của Dực là Từ thị có sắc đẹp lại thông minh, rất giỏi khoa bói Dịch. Bấy giờ nàng bói thử một quẻ thấy "tượng" rất xấu, mới khuyên chồng chớ ra tiếp khách. Nhưng Dực không nghe, cứ cùng các quan ra công đường, chủ tọa buổi tiệc. Đến chiều tiệc tan, Biên Hồng ngầm giấu dao trong mình, theo chân Dực ra cửa, rồi bất thình lình rút dao đâm Dực chết ngay. Qui Lãm và Đái Viên bèn đổ tội cho Biên Hồng, lôi ra giữa chợ chém đầu. Rồi hai tên thừa thế đoạt lấy của cải và thị thiếp của Dực. Qui Lãm thấy Từ thị nhan sắc diễm lệ, động lòng dục vọng, bèn bảo nàng:
- Ta đã báo thù cho chồng nàng, vậy nàng hãy về ở với ta. Nếu không nghe thì có toàn mạng.
Từ thị nói:
- Chồng thiếp vừa mới chết, chưa tiện theo tướng quân ngay. Xin đợi đến tối 30 này, thiếp cúng "trừ phục" xong, rồi chúng ta thành thân cũng chẳng muộn.
Qui Lãm nghe nói, sung sướng ưng lời lui ra chờ đợi. Từ thị bèn bí mật triệu hai viên tướng tâm phúc của Dực là Tôn Cao và Phó Anh vào phủ, khóc và nói:
- Khi tiên phu còn sống, vẫn thường khen hai ông trung nghĩa. Nay hai tên giặc Đái, Qui mưu sát chủ, rồi đổ tội cho một mình Biên Hồng và đem hết gia tư, tôi tớ nhà tôi ra chia nhau. Qui Lãm lại cưỡng bức, đòi hại cả đời tôi nữa. Tôi phải giả tảng ưng lời cho yên lòng nó. Nay hai tướng quân nên sai người đi gấp về báo Ngô hầu. Một mặt hãy bày mật kế trừ hai tên giặc ấy để rửa thù nhục này, thì người chết được ngậm cười mà kẻ sống đội ơn muôn phần.
Đoạn, nàng cúi xuống lạy hai lạy. Tôn Cao, Phó Anh cũng khóc, nói:
- Hai chúng tôi đã đội ơn tri ngộ của Phủ quân nay Phủ quân bị hại, mà chúng chưa thể chết theo là còn muốn lập kế báo thù cho chủ. Giờ phu nhân sai khiến, chúng tôi há dám không hết sức?
Đến đêm 30, Từ thị bí mật cho hai tướng Tôn, Phó vào phục sẵn trong màn the nơi phòng kín. Đoạn bày lễ cúng tế ngoài nhà thờ. Tế chồng xong, nàng trút bỏ hết đồ tang phục, tắm gội nước hương, trang điểm thật lộng lẫy, cười nói tươi vui. Qui Lãm nghe tin, sung sướng như mở cờ trong bụng. Đến đêm, Từ thị cho con hầu ra mời Lãm vào phủ, bày tiệc giữa nhà, chuốc rượu. Người đẹp, rượu ngon, những lời chuốc mời ngọt dịu, những cái liếc hữu tình, những nụ cười tươi tắn say đắm làm cho Lãm ngây người tưởng mình đã lạc vào bồng lai ... nên mặc sức cứ uống.
Khi Lãm đã say, nàng mới mời vào buồng the. Lãm sung sướng mê mẩn. Chắc hẳn phen này bên cạnh giai nhân mặc đi mây về gió, cảm thấy đời sắp lên hương, nên Lãm chuếnh choáng theo vào. Bỗng Từ thị kêu lên:
- Tôn, Phó, hai tướng quân đâu?
Tức thì hai tướng từ sau màn cầm dao nhảy ra. Lãm trở tay không kịp, bị Phó Anh chém một đao lăn ngã xuống. Tôn Cao bồi thêm một đao nữa, chết không kịp la. Đoạn, Từ thị lại mời Đái Viên đến dự tiệc. Viên không nghi ngại, lòng lại thấy hớn hở, biết đâu mình may phúc được mắt xanh để ý. Nhưng khi vừa hăng hái bước vào phủ, óc còn đương toan tính những lời nói sao cho có duyên dáng và mơ tưởng những chuyện lông bông thì Tôn, Phó xông ra mỗi người phạt cho một đao, chết không kịp dãy.
Hạ được chúng, Tôn Cao và Phó Anh sai quân đi bắt cả gia thuộc già trẻ cùng dư đảng của hai tên Lãm, Viên rồi giết chết cả.
Thù chồng đã trả, Từ thị lại mặc đồ tang phục, đem thủ cấp Đái Viên, Qui Lãm đặt trước bàn thờ Tôn Dực mà tế.
Khắp Giang Đông, ai cũng khen tài đức tiết liệt của Từ thị. Người sau có làm bài thơ khen:
Tài đức gồm hai tuyết giá trong,
Tru di nghịch tặc rửa hờn chồng.
Tôi hèn bó gối, tôi trung chết,
Thua hẳn Đông Ngô một má hồng.
(Bản dịch của Tử Vi Lang)
Nguyên văn:
Tài tiết song toàn thế sở vô,
Gian hồi nhất đán thụ thôi từ.
Dung thần tòng tặc, trung thần tử
Bất cập Đông Ngô nữ trượng phu!
Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020
Độc Hành
Độc Hành
Thanh xuân một thuở chìm hư ảo
Say đắm yêu đương nhỡ cánh bằng
Đêm thả hồn mơ đan lối mộng
Canh tàn dệt ý kết tình trăng
Thang mây lắm bậc mờ sương khói
Nửa đoạn đường trần lạnh gối chăn
Duyên nợ đa đoan thuyền lạc nẻo
Thẩn thờ xế bóng sợi buồn giăng.
Quên Đi
***
Các Bài Họa:
Tơ Lòng
Phút hẹn hò mười mong chín nhớ
Nhìn phương xa dõi cánh chim bằng
Dung nhan ấy nét buồn sương phụ
Định mệnh rày bầu bạn gió trăng
Trải tháng năm côi thân chiếc bóng
Sầu đêm ngày lẻ gối đơn chăn
Mơ đoàn viên tưởng chừng chung bước
Tơ nhện lòng đà mất lối giăng
Kim Phượng
***
Xếp Cánh Chim Bằng
Cời ngọn lửa hồng trong bếp vắng
Rã rời xếp lại cánh chim bằng
Trước từng ngang dọc qua sông biển
Nay chỉ im lìm ngắm ánh trăng
Che mặt giấu buồn sau nếp áo
Thu mình trốn lạnh dưới làn chăn
Còn đâu khí phách thời trai trẻ
Tuổi lão ngậm ngùi mắt lệ giăng
Phương Hà ***
Tùy Duyên
Ôn lại ngày xanh qua ảo ảnh
Thương thầm nhớ trộm, cánh chim bằng,
Yêu đương đắm đuối mơ hình bóng
Luyến ái mê say mộng ánh trăng
Sáu khắc rét căm da với áo
Năm canh lạnh lẽo chiếu cùng chăn
Tùy duyên, danh lợi không ràng buộc
Thoát nợ, trần ai gió bụi giăng...
Mai Xuân Thanh
Ngày 14/05/2020
***
Trăng Sơn Cước
Sơn cước thiếu thời sao mãi nhớ
Kontum yêu dấu thuở an bằng.
Bên rừng lều vải bập bùng lửa
Trên dốc thác ngàn lửng thửng trăng.
Tiếng thú hoang vu hoà nhạc suối
Sao trời lấp lánh thế mùng chăn.
Một đêm thú vị cùng bè bạn
Trong ký ức già kỷ niệm giăng.
Mailoc
5-15-2020
***
Đôc Hành
Thất thểu trời tây thân lữ khách
Cô đơn quê mẹ nghĩa kim bằng
Độc hành gậm nhấm tình non nước
Lê bước suy tư chuyện gió trăng
Ai đã bẻ ngang lời nguyện ước
Đâu người đánh mất dịp chung chăn
Đề rồi lầm lủi trong đêm tối
Và mãi quẩn quanh giữa nhện giăng
Thái Huy
Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020
Hùng Ca Sử Việt 2 - Bố Cái Đại Vương - Khúc Thừa Dụ
Các đời sau là Phùng Khiêm, Phùng Thông, Phùng Đạt. Cha truyền con nối, qua 5 đời đều là quan lang (Tù Trưởng) Châu Đường Lâm (gần bằng một huyện bây giờ). Cha của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở nước ta, sau đó trở về quê lo việc điền viên và trở nên giàu có, trong nhà có đến hàng nghìn nô tỳ.(bia Quảng Bá).
Theo truyền thuyết, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Con cả là Phùng Hưng. Năm Phùng Hưng được 3 tuổi lại sinh hai con trai nữa. Em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em qua 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.Ở tuổi trưởng thành ba anh em họ Phùng đều là những chàng trai chí khí, đảm được hơn người. Đặc biệt Phùng Hưng so với hai em Phùng Hải và Phùng Dĩnh, ông có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.
Dưới ách cai trị của quan quân nhà Đường, dân ta thường phải chịu trăm bề điêu đứng. Trước đó đã có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên (năm 687) rồi của Mai Thúc Loan (năm 722) nhưng đều bị đàn áp.
Đến năm đại lịch thứ hai (767) có giặc cướp đi thuyền lớn từ biển phía nam (đảo Java) tới, Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh dẹp được. Rồi Bình ở lai cái trị, bắt dân đóng góp rất nặng nề.
Phùng Hưng tự nhủ:
Vào ngày đầu tháng ba, ba anh em lập một đàn tràng thề nguyền đồng tâm chung sức, dấy
binh khởi nghĩa, quyết đánh đuổi giặc Đường, giành lại giang san cứu dân thoát khỏi cảnh nô lệ.
Bỗng nhiên có một vầng hào quang xuất hiện. Khi hào quang biến mất, trước mặt ba anh em là một lão nhân râu tóc bạc phơ. Anh em Phùng Hưng cúi lạy chào. Lão Nhân cất tiếng
- Lão đây vốn là Long Thần Nam Hải, đang đi tìm hiểu sự tình nhân gian, thấy đàn tràng hào khí rực một góc trời, nên lấy làm lạ mà tới. Nghe các con có tâm nguyện đuổi giặc xâm lăng cứu lê dân bá tánh. Ta lấy làm cảm động vô cùng. Nay cho các một móng rồng của ta
- Thưa Long Thần, Ngài cho chúng con vật quý này để làm gì?
- Con về rèn một thanh kiếm lệnh, dùng móng này làm thành cái chuôi. Khi vung kiếm hiểu thị, muôn người như một nhất nhất tuân theo lệnh ban ra.
Nói xong Long Thần biến mất
Sau đó, ba anh em rèn ngay một thanh kiếm thật bén, rồi tra vào chuôi được làm từ móng rồng, ở giữa khắc ba chữ "Long Thần kiếm".
Từ đó, Phùng Dĩnh ở nhà trông coi công việc trong Châu, còn Phùng Hưng và Phùng Hải chia nhau đi khắp các vùng gần xa, chiêu tập hào kiệt.
Để đánh lạc hướng chú ý giặc, Phùng Hưng đổi tên Cự Lão, Phùng Hải đổi tên là Cự Lực. Sẵn có sức khỏe hơn người, hai anh em đến các sới vật thường xuyên tổ chức trong các kỳ lễ hội tại các địa phương, vừa để tham gia mà cũng vừa là cách tốt nhất để nhận mặt làm quen với các anh tài.
Sau mấy tháng đi khắp các vùng, anh em Phùng Hưng, Phùng Hải trở về nhà. Nhân ngày húy kỵ ông bố 11 tháng 3, ba anh em làm cỗ thật to, mời tất cả anh em, họ mạc và dân làng. Lại mời tất cả bạn bè và hàng ngũ chức sắc dưới quyền trong châu Đường Lâm, đó là các trang ấp trưởng.
Đây là địa điểm thuận lợi cho việc tập luyện, phiên chế quân ngũ, vừa đủ xa để bọn giặc đóng ở thành Đại La (Hà Nội) không dòm ngó tới, lại vừa đủ gần để từ đây có thể hành quân bất ngờ tấn công quân địch.
Thời Trung trang cách thành Đại La khoảng ngoài 20 dậm (khoảng 17,6 cây số theo đơn vị đo lường thời xưa của Việt Nam, 1 dậm = 444 mét), chỉ cần di chuyển quân nửa ngày là đã lên tới nơi.
Theo hẹn ước, các anh tài khắp nơi mang theo những người cùng chí hướng, lục tục tìm về. Trong một thời gian ngắn, quân số đã lên tới hàng vạn.
Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Cao Chính Bình mặc dù là viên tướng đảm lược, nhưng cũng đành chịu bó tay thúc thủ trong thành. Không thể đem quân trốn ra ngoài, vì tất cả các nẻo đường đều đã bị chặn giữ, Cao Chính Bình đành phải cho một vài tên lính lanh lợi, giữa đêm tối tìm cách lẻn ra, đưa thư cấp báo về nhà Đường, xin tiếp viện.
Ba tháng ròng, thành Đại La bị vây chặt. Các đoàn viện binh của nhà Đường đến đều bị quân của Phùng Hưng đánh tan. Cao Chính Bình hay tin lo lắng quá thành khối u lớn ở sau lưng. Rồi khối u vỡ, Cao Chính Bình chết.
Khi tin Cao Chính Bình chết bay ra ngoài thành, Phùng Hưng hạ lệnh cho quân lính từ các nơi hiểm yếu, nhất loạt tiến công. Quân nhà đường chống không nổi, phải kéo cờ trắng ra hàng.
Phùng Hưng dẫn đại binh vào chiếm Đô hộ phủ trong niềm hân hoan của mọi người. Tướng sĩ suy tôn ngài là Vi đô Tướng quân.
Vi đô Tướng quân lập tức bắt tay vào việc chấn hưng đất nước và xây thành đắp lũy, luyện tập binh mã, đẻ đối phó với nhà Đường sau này.
Ngài chưa xưng Đế, nhưng thực sự đã điều hành công việc như một vị Hoàng đế. Ngài mang lại cho muôn dân cảnh no ấm, thái bình, không phải đem lễ vật cống nạp cho ngoại bang, và các thuần phong mỹ tục trong nước cũng đang được khôi phục lại.
Nhưng thật tiếc thay, những công việc mà Ngài thực thi đang tiến triển thì dừng lại, bởi cái chết đến quá đột ngột, vào đúng bảy năm sau tức năm 798, lúc đó Ngài mới đang ở độ tuổi sung mãn.
Xét về công lao cũng như tài năng, đức độ, nhiều người muốn lập Phùng Hải lên thay, vì thấy ông xứng đáng nhất. Nhưng một người đầu mục phụ tá cho Phùng Hưng, và sau này phụ tá cho Phùng An, con trai trưởng của Phùng Hưng tên là Bồ Phá Cần, không tán thành
Phùng An nối nghiệp cha, nhưng là người không có đảm lược lớn. Một người như thế chỉ có thể trị vì đất nước trong cảnh thái bình, còn khi đất nước có biến động thì sẽ không đảm đương nổi.
Công việc đầu tiên mà Phùng An tiến hành là tổ chức lễ an táng cho cha thật trọng thể. Sự trọng thể lại càng tăng gấp bội phần, vì tất cả dân chúng và binh lính đều thực lòng tiếc thương vị anh hùng của mình vừa nằm xuống.
Dân chúng và binh lính đưa tang, khóc Ngài đến đỏ hoe cả hai con mắt.
Họ thương tiếc, gọi Ngài là Bố Cái, tức Cha Mẹ? (có nhiều người không đồng tình với giải thích này. Thứ nhất chữ Cái có nghĩa là giống cái, là phụ nữ chớ không phải nghĩa là mẹ. Thứ hai chữ Cái có nghĩa là Lớn. Bố Cái là người Cha Lớn ). Rồi họ lại gọi Ngài là Đại vương, như trước đó vẫn gọi Ngài như thế. Phùng An con trai Ngài, do cảm nhận được những tình cảm ấy của dân chúng và binh lính cũng suy tôn Ngài làm "Bố Cái đại vương". Và cái tên ấy còn mãi đến ngày nay.
Nhiều người họ Phùng có chí khí và nhiều người họ khác nữa, thấy vậy, bèn tản đi các nơi, không muốn ở lại hợp tác với giặc. Sau khi đặt nền cai trị, bọn quan quân nhà Đường liên tục truy sát những người trong gia tộc họ Phùng.
Theo các dòng sông lớn dòng họ Phùng toả về các vùng núi, trung du, các vùng hạ lưu các con sông lớn nhỏ để lập nghiệp.
Bố Cái Đại Vương mất nhưng Ngài rất hiển linh, thường ở trong thôn dân hiện hình thành thiên xa vạn mã phi đằng trên nóc nhà, trên cổ thụ; chúng nhân trông lên thực như đám mây ngũ sắc, lại nghe thấy ti trúc, quản huyền giao hưởng trên không trung, tiếng hô hoán, tiếng cờ trống võng kiệu vọng lên nghe thấy phân minh giữa ban ngày.
Phàm trong ấp có tai nạn hoặc việc vui mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị nhân báo trước; chúng phục là thần, lập đền phía tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm cướp, việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết thần, vào trong đền mà minh thệ, lập tức thấy họa phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền cầu lợi hậu đều có linh ứng; thôn dân gặp phải mưa dầm hay đại hạn; cầu đảo liền được như ý.
Đúng 100 năm, sau ngày Ngài mất, cũng tại quê hương của ngài (Đường Lâm), một người anh hùng nữa đã ra đời. Đó là Ngô Quyền (898 - 944). Sau khi giết Kiều Công Tiễn trả thù cho bố vợ (Dương Đình Nghệ), Ngô Quyền xưng vương, rồi đánh tan quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng. Trước trận đó, thấy quân giặc đông, nhà vua cũng có phần lo lắng, nhưng"đêm nằm mộng, bỗng thấy một ông già tóc bạc, mũ áo nghiêm trang ... xưng là Phùng Hưng đến cổ vũ và hứa sẽ đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu" .
Sau trận thắng, nhà vua tạ ơn, xuống chiếu lập đền thờ Phùng Hưng ở làng Cam Lâm to hơn quy mô cũ, và tổ chức lễ hội thật trọng thể. Từ đó thành điển lệ. Các triều đại về sau đều có sắc thượng phong: "Phụ hựu", "Chương tín", "Sùng nghĩa". Đó là những tên hiệu mà các triều Trần trùng hưng đã tặng thêm cho Ngài.
Bối Cảnh Lịch Sử