Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Trời Cuối Thu Rồi


Bài Xướng:

Trời Cuối Thu Rồi


Trời cuối thu mờ mịt khói sương

Nẻo về lá úa ngập trên đường
Trái tim cô phụ ai lay động
Hình bóng một người mãi vấn vương

Có biết lòng đây...
                   Kim Phượng

 ***
Bài Họa:

Cuối Thu


Có biết lòng đây đã thấy vương

Khi mùa thu chín ngập bên đường
Ngóng về nơi ấy tình len mộng
Mơ bóng hình ai tóc điểm sương

Tim hằng tiếc thương...
                         Quên Đi


Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

5 Lý Do Để Uống Nước Chanh Mật Ong Vào Sáng Sớm


Lợi ích khi uống mật ong vào buổi sáng
Nước ấm, mật ong và chanh là hỗn hợp thức uống tuyệt vời. Ngoài việc làm dịu các cơn đau dạ dày và đem lại sự tươi mới cho làn da, thức uống này còn có nhiều công dụng khác mà bạn chưa biết đến.

1. Hỗ trợ tiêu hóa
Nước cốt chanh tươi cùng mật ong giúp loại bỏ độc tố khỏi dạ dày. Nếu bạn ăn tối quá no hoặc ăn đồ chứa nhiều dầu mỡ vào ngày hôm trước, thức uống này sẽ giúp bạn làm sạch dạ dày.
Chanh chứa khoáng chất và vitamin giúp gan sản sinh mật hỗ trợ tiêu hóa. Nước chanh ấm rất tốt cho sự co bóp đường ruột và được khuyên dùng bởi Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.


2. Thức uống giải độc, lợi tiểu
Thức uống này không chỉ có lợi cho hệ tiêu hóa, mà còn được biết đến như một phương thuốc giúp lợi tiểu. Nó giúp hệ thống đường tiết niệu được sạch sẽ và khỏe mạnh.

3. Hơi thở thơm tho
Đây là thức uống tự nhiên nhất giúp đánh bay mùi của khoang miệng sau một đêm ngủ dài. Nước ấm mật ong và chanh không chỉ đem lại cảm giác tươi mới cho bạn vào buổi sáng, mà đồng thời nó còn giúp giết chết vi khuẩn có hại trong khoang miệng.

4. Da dẻ mịn màng
Thức uống này giúp da mặt tiết ít dầu nhờn, ngăn ngừa mụn trứng cá. Dùng hỗn hợp nước ấm, mật ong, chanh thường xuyên, làn da sẽ đẹp và mịn màng lên trông thấy.

5. Tăng cường hệ thống miễn dịch
Thức uống này tăng cường hệ thống miễn dịch và là phương thuốc tốt cho phòng chống bệnh cảm cúm, đặc biệt vào mùa lạnh. Không chỉ bởi chanh và mật ong có đặc tính chống khuẩn, chúng còn là chất chống oxy hóa hiệu quả và chứa nhiều vitamin C tốt cho cơ thể.
Thời điểm dùng hỗn hợp nước ấm, chanh, mật ong tốt nhất là vào buổi sáng, thời điểm trước khi ăn hoặc trước lúc đánh răng.

Theo Dân Trí
Khoa Học.TV
Sưu tầm: Hanh Nghiêm
(Theo hoathuctuvien.blogspot.com) 

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Vui Cười 65



TIỀN NÀO CỦA NẤY
Một anh nông dân Pháp đưa vợ lên thủ đô Paris chơi. Trong khi vợ thuê khách sạn và cất vali, anh đi dạo. Một cô gái điếm tiến lại:
- Anh yêu, có đi với em không?
- Bao nhiêu?
- Một trăm Franc!
- Đắt quá!
- Thích rẻ thì đi mà tìm người khác , Nói rồi, cô gái điếm bỏ đi.
Đến khuya, cô gái điếm quay lại, gặp anh nông dân đang khoác tay vợ mình đi dạo quanh khách sạn. Cô gái điếm liền nói:
- Thấy chưa, đã bảo mà! Tiền nào của ấy!


CUỘC ĐỜI CỦA CON GÁI
 
1. 8 tuổi như thể dục dụng cụ: chẳng thằng con trai nào để í tới
2. 18 tuổi như bóng đá: 22 thằng hùng hục tranh nhau 1 quả bóng.
3. 28 tuổi như bóng rổ: tỉ lệ tranh bóng đã giảm xuống với 10 nguời 1 bóng.
4. 38 tuổi như bóng bàn: khi quả bóng bay đến, bạn cố hất nó sang bên đối phương.
5. 48 tuổi như bóng chày: bạn cố đánh quả bóng đi càng xa càng tốt.
6. Over 48, một câu trả lời đơn giản là Bi-da: mục tiêu lớn nhất là cho "xuống lỗ"

***

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Đất Phương Nam - Đôi Dòng Về Tác Giả Người Long Hồ






       Người Long Hồ là bút hiệu của anh Trần Ngọc, cũng được biết dưới tên Trần Ngọc-Em. Anh còn có bút hiệu Thiện Phúc, đây cũng là Pháp danh khi anh viết sách báo Phật Giáo. Anh sanh năm 1949 tại làng Long Hồ tỉnh Vĩnh Long, vùng đất mà một thời đã từng là thủ phủ của Dinh Long Hồ dưới thời các chúa Nguyễn. Ngày nay thì Long Hồ chỉ còn là tên của một huyện nằm sát nách thành phố Vĩnh Long, khoảng 136 cây số về phía tây nam của Sài Gòn. Anh sanh ra và lớn lên tại tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh nhỏ nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu. Dầu sanh ra trong một gia đình nghèo, và dầu thời đó đất nước vừa mới dành được độc lập từ tay người Pháp, nhưng cha mẹ anh đã cố gắng cho tất cả các con đi học hết bậc trung học. Thời trung học anh đã theo học trường Trung Học Tống Phước Hiệp, trường trung học công lập duy nhất của Vĩnh Long thời bấy giờ. Sau đó anh tốt nghiệp cử nhân Anh Văn vào năm 1973 và cử nhân Việt Hán vào năm 1974 tại trường Đại Học Cần Thơ. Sau khi đến Hoa Kỳ, anh tiếp tục theo học ngành giáo dục phục hồi (Rehabilitation), và anh đã làm việc cho ngành nầy tại tiểu bang California từ năm 1988 đến nay. Hiện anh đang giữ chức Trưởng Phòng Giáo Dục Phục Hồi của tiểu bang tại thành phố Bell, thuộc quận hạt Los Angeles. Ngay từ thời còn thơ ấu, cuộc sống của anh đã gắn liền với những con đê bờ ruộng thân yêu của vùng đất Long Hồ, chính vì vậy mà đối với anh vùng đất Nam Kỳ chẳng những thân thương mà nó còn lưu lại cho anh nhiều ký ức của một thời kỷ niệm. Lúc còn nhỏ, anh đã thường được ông ngoại và ông chú Ba(1) kể cho nghe nhiều mẫu chuyện lý thú từ hồi còn Nam Kỳ Lục Tỉnh dưới thời vua Minh Mạng đến Nam Kỳ 20 tỉnh khi người Pháp chiếm trọn miền Nam, cũng như Nam Kỳ vào những năm đầu thế kỷ 20 đến khoảng giữa thập niên 1950. Khi vào đời anh có dịp đi hầu như khắp mọi miền của đất nước, đặc biệt là vùng đất phương Nam. Trong tất cả những chuyến đi nầy anh đã không để lãng phí bất cứ giây phút nào, đi đâu đến đâu anh cũng tìm tới các bậc kỳ lão để học hỏi thêm về địa phương nơi anh đến trên đủ mọi phương diện, từ địa chí, địa chất, đến sinh hoạt của cư dân, tín ngưỡng, văn hóa, kinh tế, và sản vật, vân vân. Đối với anh tất cả những gì có liên quan đến đất phương Nam trong quá khứ và hiện tại đều là gia tài quí báu không riêng gì cho con dân Nam Kỳ mà còn là sức sống cho cả nước nữa. Đến khoảng cuối năm 1984, khi đang ở trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân, anh lại được những người rất am tường về Nam Kỳ kể cho anh nghe đủ thứ chuyện về Nam Kỳ như các anh Hứa Hoành và Nguyễn Hữu Trí trong những đêm trà mạn đàm “Nhớ Về Vĩnh Long và Nam Kỳ Lục Tỉnh”. Chính những cơ duyên và ký ức đó đã thôi thúc anh viết quyển “Một Thoáng Nam Kỳ Lục Tỉnh”, nhưng sau khi hoàn tất quyển sách nầy anh cảm thấy vẫn còn thiếu thiếu, nên anh đã tiếp tục biên soạn và hoàn tất bộ sách “Đất Phương Nam”. Bộ sách gồm 2 quyển, khoảng trên 1.600 trang giấy khổ 8 ½-11. Anh còn là tác giả của nhiều bộ sách khác như bộ Từ Điển Phật Học Việt Anh (6 tập, 4.824 trang, xuất bản năm 2005), bộ Từ Điển Phật Học Anh-Việt (10 tập, 5.626 trang, xuất bản năm 2007), bộ Phật Pháp Căn Bản Việt-Anh (8 tập, 6.184 trang, xuất bản năm 2009), Đạo Phật Trong Đời Sống (10 tập, khoảng 3.000 trang, xuất bản từ năm 1990 đến năm 2000), Đạo Phật An Lạc Và Tỉnh Thức (1 tập khoảng 300 trang, xuất bản năm 1993), Tâm Sự Với Cha Mẹ Và Tuổi Trẻ (1 tập, khoảng 400 trang, xuất bản năm 1994), Một Đời Mẹ Trao (1 tập, khoảng 300 trang, xuất bản năm 1994), Thiên Trúc Tiểu Du Ký (1 tập, khoảng 300 trang, xuất bản năm 2006), Một Thoáng Nam Kỳ Lục Tỉnh (1 tập, khoảng 500 trang, xuất bản năm 2006), Thiền Sư (1 tập, 518 trang, xuất bản năm 2007). Trong một tương lai gần anh hy vọng sẽ cho xuất bản những bộ sách mà anh còn đang biên soạn như các bộ Thiền Trong Đời Sống, Những Đóa Hoa Vô Ưu, và Thiền Trong Phật Giáo. 

(1) Đó là hai ông Trần văn Tiếng và Trần văn Hương, những con dân kỳ cựu của xứ Nam Kỳ thời Pháp thuộc.


***

Mục Lục


Lời Đầu Sách

 Trang:

 3 Lời Giới Thiệu 

 7 Tác Giả Người Long Hồ 

 11 Mục Lục 

 13 1. Công Nghiệp Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Vùng Đất Nam Kỳ 

 21 2. Đất Phương Nam Theo Dòng Thời Gian 

 55 3. Tiến Trình Nam Tiến 

 67 4. Thu Phục Champa 93 5. Vương Quốc Phù Nam 

 113 6.Thu Phục Thủy Chân Lạp 

 153 7.Cộng Đồng Những Cư Dân Bản Địa Trên Đất Nam Kỳ Xưa 

 173 8. Vùng Đất Cochinchine và Công Nữ Ngọc Vạn 

 193 9.Kas Krobei Hay Prei Nokor Là Sài Gòn? 

 207 10.Nguyễn Ánh và Vùng Đất Nam Kỳ 219 11.Từ Phù Nam-Chân Lạp Đến Vùng Đất Nam Kỳ 251 12.Đồng Bằng Miền Đông 

 287 13.Từ Vùng Đất Biên Trấn Đến Tỉnh Biên Hòa-Đồng Nai 

 307 14.Trần Thượng Xuyên và Vùng Đất Cù Lao Phố 

 341 15. Cộng Đồng Người Minh Hương Trên Đất Nam Kỳ 

 351 16.Từ Bình Long-Phước Long Đến Tỉnh Bình Phước 

 373 17.Từ Biên Trấn Bình Thuận Đến Tỉnh Bình Thuận 

 385 18.Từ Đất Mô Xoài Đến Bà Rịa-Vũng Tàu 

 407 19.Quần Đảo Côn Sơn 

 431 20.Từ Tổng Bình An Đến Tỉnh Bình Dương 

 439 21.Từ Đất Phiên Trấn Đến Tỉnh Gia Định 

 475 22.Từ Kas Krobei-Prei Nokor Đến Bến Nghé-Sài Gòn Và Chợ Lớn 

 511 23. Sài Gòn Theo Dòng Thời Gian 

 547 24. Thủ Đức Mảnh Sân Sau Của Thành Phố Sài Gòn 

 575 25.Từ Vùng Đất Romdum Ray Đến Tỉnh Tây Ninh 

 585 26.Đồng Tháp Mười 

 611 27. Từ Đất Tầm Bôn Đến Tỉnh Tân An 

 647 28.Mộc Hóa, Cái Nôi Của Đồng Tháp Mười 

 677 29. Từ Phủ Lôi Lạp Đến Vùng Đất Gò Công 

 695 30. Từ Trường Biệt Nạp Bả Canh Đến Tỉnh Đồng Tháp 

 717 31. Từ Đạo Đông Khẩu Đến Thị Xã Sa Đéc 

 731 32. Những Tỉnh Không Còn Trên Bản Đồ Hành Chánh Miền Nam 

 741 33.Từ Bắc Cái Bè,Bắc Mỹ Thuận,Đến Cầu Mỹ Thuận 

 769 34. Công Ơn Của Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt Trên Vùng Đất Phương Nam

 777 Tài Liệu Tham Khảo 

 797 Cổng vào Lăng của Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt ở Gia Định (Hình trích trong Tập San Đồng Nai Cửu Long Số 3, tháng 1, 2006) 

Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ—Năm 1840 (Bản Đồ Chính Thức của Triều Minh Mạng) 

Bản Đồ Việt Nam—Năm 2003 (Theo Tập Bản Đồ Hành Chánh VN—Administrative Atlas) 

Bản Đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh—Năm 1836











 Người Long Hồ 
 Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011 
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved. 

***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:

***

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Lũ Lụt Hà Tĩnh

Trước cảnh Bà con Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đang bị ngập vì áp thấp nhiệt đới. Bất kể vùng hạ lưu đang bị ngập, thì bất ngờ, hồ Vực Mấu của nhà máy thuỷ điện ở Nghệ An xả lũ, tiếp đến là nhà máy thuỷ điện Hố Hô ở giáp ranh Hà Tĩnh Quảng Bình cũng xả lũ. Đã khiến cho hàng chục ngàn gia đình phải tan nhà nát cửa. Từ nỗi xót xa đó mang đến cho tôi cảm xúc viết bài thơ này:

            Lũ Lụt Hà Tĩnh

Hà Tĩnh thân thương lắm nạn tai
Suốt năm mấy đợt chịu ương tai
Biển xanh chất độc còn chưa hết
Xả đập lũ tràn gánh vạ tai
Có phải nguyên nhân trời giáng xuống
Hay là nguồn cội vốn nhân tai
Dân nghèo đã khổ càng thêm khổ
Chẳng miệng nên trời chịu tiếng tai
                              Quên Đi
***

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2016

Lạng Châu Vãn Cảnh - Trần Nhân Tôn



    諒 州 晚 景               Lạng Châu Vãn Cảnh
             陳仁宗                        Trần Nhân Tôn

古 寺 淒 涼 秋 靄 外   Cổ tự thê lương thu ái ngoại,  
漁 船 蕭 瑟 暮 鐘 初  
Ngư thuyền tiêu sắc mộ chung sơ    
水 明 山 靜 白 鷗 過  
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá,   
風 定 雲 閒 紅 樹 疏
  
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ        

Dịch Nghĩa : Cảnh Chiều Ở Lạng Châu

Sương thu  bao phủ bên ngoài ngôi chùa cổ trong thật ảm đạm
Thuyền câu buồn bã trong khi tiếng chuông chiều từ ngôi chùa bắt đầu vang lên
Nước trong xanh  núi im lặng, những chim âu trắng bay qua

Không một chút gió mây nhàn nhã trôi, lá đỏ trên cây đã thưa thớt.

Dịch Thơ: Lạng Châu Về Chiều

1-
                Khói thu chùa cổ đìu hiu
Thuyền chài quạnh quẽ chuông chiều vọng vang
             Nước non lặng âu bay ngang
          Cây thưa lá đỏ mây nhàn gió im.
2-
Sương thu mờ phủ bóng chùa xưa
Hiu quạnh thuyền câu chuông vẳng đưa
Núi vắng nước trong chim trắng vượt
Mây nhàn gió lặng lá cây thưa.
                                     Quên Đi

Các bài Thơ Dịch Khác

        Lạng Châu Chiều Về

         Chùa xưa lạnh lẽo sương thu
Chuông chiều nhẹ điểm âm u thuyền chài
         Nước trong núi lặng chim bay
       Lơ thơ lá đỏ nhàn mây gió dừng
                            KimOanh
***
       Chiều Thu Ở Lạng Châu

BÀI 1 :
      Chùa xưa khói tỏa sương thu ẩm,
Chuông vọng thuyền câu thấp thoáng đây.
         Non xanh nước biếc chim bay,
      Trời mây gió lặng lá cây rơi hồng.

BÀI 2 :
Chùa xưa ảm đạm khói sương thu,
Ngư phủ, chuông ngân vọng mịt mù.
Non nước bạch âu bay lặng lẽ,
Mây trôi lá đỏ rụng âm u.
               Mai Xuân Thanh
       Ngày 19 tháng 10 năm 2016
***
 Chiều Thu Ở Lạng Châu

Thiền tự đìu hiu lạnh khói sương
Thuyền con ngư phủ lắng nghe chuông
Nước trong núi dựng chim âu lượn
Mây gió ngừng trôi lá trở hường
             Trần Thị Kim Dung
***
Chiều Thu Thăm Cảnh Lạng Châu

Sương Thu phủ chùa xưa buồn hiu hắt
Bóng thuyền câu lắng vọng tiếng chuông ngân
Chim bay qua núi vắng suối trong ngần
Mây lãng đãng biếng trôi nhìn lá đỏ 
                           songquang
***
      Lạng Châu Vãn Cảnh

Chùa xưa ảm đạm sương thu kín
Chuông điểm thuyền câu thêm hắt hiu
Non vắng nước trong chim trắng lượn
Gió yên mây nhẹ lá thưa nhiều
                       Kim Phượng
***
             Chiều Lạng Châu

    Trong khói thu, chiều xưa hiu hắt
Vẳng chuông chiều xao xác thuyền câu .
       Nước trong núi lặng cánh âu 
   Cây rừng lá đỏ, thì thầm gió mây .
                                  Mailoc
***
Cảnh Chiều Ở Lạng Châu
PKT 10/24/2016

Chùa cổ , chiều thu, sương khói phủ ,
Thuyền câu , chuông động, cảnh bên đời ,
Nước trong , núi quạnh , bóng âu trắng ,
Gió lặng , mây ngừng, ngắm ... lá rơi !
 

Lạm Bình : Lạng Châu Vãn Cảnh là 1 bài thơ thiền của Sư Tổ sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử , trộm nghĩ ,xin được phép nói ra đây , chuyển dịch bài này không phải là khó mà là không thể đối với tôị . Một bài thơ thiền trên cả tuyệt vơì .Còn Cảnh Chiều Ở Lạng Châu của PKT chỉ là một bản lược dịch, cốt ý giữ được phần nào ý thiền của nguyên tác , nhưng thật đã quá đỗi vụng về. Riêng gửi Quên Ði Huỳnh Hữu Ðức và quý anh chị em để bày tỏ chút tình cảm mến và cũng như thường lệ là để đọc cho vui cùng chữ nghĩa với nhau thôi . 
PKT 10/24/2016


***

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

Đất Phương Nam - Cựu Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm Giới Thiệu Vể Tác Giả Người Long Hồ




Tác giả Người Long Hồ vừa hoàn tất một tác phẩm khá vĩ đại về vùng đất và con người của Miền Nam Việt Nam. Tác giả đã chọn một nhan đề rất ý nghĩa là Đất Phương Nam cho tác phẩm nầy.

Tác phẩm gồm hai tập, Tập Một có 34 bài từ bài 1 đến bài 34 và Tập Hai 30 bài từ bài 35 đến bài 64, với tất cả hơn 1.600 trang khổ lớn (8 ½"-11"). Đất Phương Nam có thể xem như một loại địa chí, nói về lịch sử hình thành, về vị trí địa dư, về các danh lam thắng cảnh, các đền chùa, lăng miếu, các cù lao, các sông ngòi, kinh rạch, đường sá cầu cống, chiếc phà, chiếc bắc, các khu vườn, mảnh ruộng, các loài cây trái, và nếp sinh hoạt văn hóa xã hội của người dân các tỉnh thành, các vùng đất đặc biệt của Miền Nam Việt Nam từ Phan Thiết đến Cà Mau, từ lúc thành hình hồi thế kỷ thứ XVIII đến bây giờ. Nhưng Đất Phương Nam có phần đầy đủ hơn các địa chí của nho gia như Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức hay Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn chẳng hạn, bởi ngoài phần lịch sử cận đại và hiện đại còn có thêm phần tiền sử và cổ sử liên hệ tới các giống người định cư trên vùng đất Phù Nam, Thủy Chân Lạp, mà nhà nho xưa chưa biết được và chỉ người ngày nay mới biết nhờ ở những công trình khai quật gần đây của các khoa học gia khảo cổ Âu Tây vừa khám phá, và phần quan trọng hơn nữa là phần phát triển, tân tiến hóa các tỉnh thành dưới thời Pháp thuộc cho đến Đệ Nhị Cộng Hòa. Còn nếu so với những công trình biên soạn gần đây về Nam Kỳ Lục Tỉnh, về Văn Minh Miệt Vườn, về Đồng Bằng Sông Cửu Long, hay về các tỉnh Miền Nam của những soạn giả như Sơn Nam, Hứa Hoành, Huỳnh Minh, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Hầu, v.v... thì công trình nghiên cứu, biên soạn của Người Long Hồ cũng có phần đầy đủ hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu.



Trừ một số bài tổng quát về Công Nghiệp của các Chúa Nguyễn với vùng Đất Nam Kỳ (bài 1), Đất Phương Nam Theo Dòng Thời Gian (bài 2), Tiến trình Nam Tiến” (bài 3), Thu Phục Champa (bài 4), Vương Quốc Phù Nam (bài 5), Thu Phục Thủy Chân Lạp (bài 6), Cộng Đồng các cư dân bản địa trên đất Nam Kỳ xưa (bài 7), Công ơn của đức Tả Quân Lê văn Duyệt (bài 34), vv... và phần kết luận (bài 64), còn mấy mươi bài còn lại của sách Đất Phương Nam đi vào chi tiết mấy trăm năm lịch sử hình thành và phát triển của từng tỉnh, từng vùng của cả Miền Nam Việt Nam từ khởi điểm Mô Xoài (Bà Rịa) đến các tỉnh Miền Đông rồi Miền Tây Nam Phần, từ Bình Thuận (Phan Thiết) đến tận Mũi Cà Mau. Tuy dưới triều Gia Long và phần đầu của Minh Mạng, Gia Định Trấn chỉ gồm có 5 trấn, và sang phần sau của triều Minh Mạng thì Gia Định Trấn được cải thành Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh (Nam Kỳ Lục Tỉnh), nhưng đến thời Pháp thuộc thì cả Nam Phần Việt Nam (Cochinchine), thuộc địa của Pháp, có đến 21 tỉnh. Sách Đất Phương Nam đề cập đến cả 21 tỉnh, một ít quận quan trọng, một số các địa danh nổi tiếng như Côn Sơn, Phú Quốc, Thất Sơn, những địa danh xưa như Kas Krobei, Prei Nokor, vv... chứ không chỉ nói đến từng vùng hay chỉ những tỉnh lớn thời Minh Mạng. Đọc giả có thể tìm thấy Biên Hòa (bài 13), Cù Lao Phố (bài 14), Bình Long, Phước Long (bài 16), Bình Thuận (bài 17), Bà Rịa (bài 18), Côn Sơn (bài 19), Bình Dương (bài 20), Gia Định (bài 21), Bến Nghé (bài 22), Thủ Đức (bài 24), Tây Ninh (bài 25), Tân An (bài 27), Mộc Hóa (bài 28), Gò Công (bài 29), Sa Đéc (bài 31), Mỹ Tho (bài 40), Bến Tre (bài 41), Vĩnh Long (bài 42), Trà Vinh (bài 43), Cần Thơ (bài 46), Sóc Trăng (bài 48), An Giang (bài 49), Châu Đốc (bài 50), Rạch Giá (bài 54), Phú Quốc (bài 55), Hà Tiên (bài 57), Bạc Liêu (bài 58), Cà Mau (bài 59), Rừng U Minh (bài 61). Ngoài các tỉnh, quận, và một số địa danh quan trọng, tác giả cũng dành nhiều bài viết về các cộng đồng người Minh Hương, người Chăm, người Khmer với những đặc trưng văn hóa và sự đóng góp của họ vào công cuộc phát triển chung của Miền Nam Việt Nam. Thành ra có thể nói về bề rộng, tác phẩm của Người Long Hồ, bao quát hầu hết các vùng đất và con người từ Miền Đông sang Miền Tây Nam Phần từ khi thành hình đến nay, một cách đầy đủ mà trước tác giả chưa có tác giả nào làm được như thế.



Bề rộng đã như thế, bề sâu càng đáng coi trọng hơn. Mỗi bài viết là một công trình sưu khảo đáng kể. Tài liệu dồi dào, nhìn qua bảng liệt kê các sách tham khảo và những chú thích liên hệ tới từng bài trong sách, người đọc cũng có thể thấy được số tài liệu phong phú mà tác giả đã xử dụng trong công cuộc nghiên cứu. Mỗi bài đều đi sâu vào lịch sử xa xưa đến nay, tìm về nguồn gốc của địa danh, sự biến đổi qua các thời đại, đi sâu vào địa lý vào sự cấu tạo của địa chất, đề cập đến mọi khía cạnh sinh hoạt của con người, liên hệ tới văn hóa xã hội của từng thời đại, mô tả đầy đủ núi non, sông ngòi, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, vv... Thí dụ bài 13, Tập I, từ trang 307 đến trang 340, nói về Biên Hòa với nhan đề Từ Vùng Đất Biên Trấn Đến Tỉnh Biên Hòa-Đồng Nai, tác giả đã lần lượt cung ứng cho chúng ta nhiều kiến thức và dự kiện về:



Tổng Quan Về Vùng Biên Hòa Của Xứ Đàng Trong

Cấu tạo Địa Chất Vùng Đồng Nai - Biên Hòa

Những Người Minh Hương Tiên Phong Đi Khai Phá Vùng Nông Nại

Từ Dinh Biên Trấn Đến Trấn Biên Hòa

Từ Trấn Biên Hòa Đến Tỉnh Biên Hòa

Tiến Trình Di Dân Trên Vùng Đất Biên Hòa

Địa Thế, Núi Non Và Khí Hậu Trong Vùng Đất Biên Hòa

Cù Lao Phố Một Thời Vang Bóng

Sông Ngòi Vùng Đồng Nai Biên Hòa

Di Tích Lịch Sử Biên Hòa Danh Lam Thắng Cảnh Biên Hòa

Cây Trái Vùng Đồng Nai - Biên Hòa

Di Tích Khảo Cổ Trên Vùng Đất Đồng Nai - Biên Hòa

Di Tích Gốm Sứ Cổ Trên Vùng Đất Đồng Nai - Biên Hòa

Biên Hòa Qua Các Thời Đại

Tỉnh Đồng Nai Sau Năm 1975 Với phần chú thích thật rõ ràng, trưng dẫn đầy đủ tài liệu, sách báo giá trị.



Qua bề sâu và bề rộng nói chung, đây là một tác phẩm loại biên khảo, rất công phu, rất có giá trị. Càng có giá trị hơn nữa khi nhắm vào đối tượng Miền Nam Việt Nam, vì xưa nay Miền Nam ít được các học giả, các nhà văn hóa, các chính trị gia, các văn nghệ sĩ để ý tới.



Tuy nhiên ở phương diện hình thức, đây không phải là một quyển sách hay nguyên một bộ sách toàn vẹn có thứ tự lớp lang, có bố cục chặc chẽ, với cách trình bày kinh viện như các sách biên khảo, hay sách giáo khoa thường thấy. Đây chỉ là một tập hợp của nhiều bài viết riêng biệt gom hết lại in thành sách, và mỗi bài có thể là một bài độc lập đề cập đến một đề tài nào đó đủ để ấn hành thành một bài báo hay tạp chí. Do đó có thể có những đoạn lập lại từ một bài khác. Ngoài ra, danh từ Nam Bộ thường thấy trong sách có thể không quen tai lắm với nhiều người trong Miền Nam tự do, mặc dầu tiếng Nam Bộ rất được thông dụng ở đây trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau nầy thì người dân Miền Nam biết đến hai tiếng Miền Nam nhiều hơn là Nam Bộ. Sau hết vì quá nhiệt tình với quê hương và dân tộc mà đôi khi tác giả không kềm chế được tình cảm cá nhân trong việc phê phán một số các nhân vật lịch sử. Thường thì trong cương vị một nhà biên khảo, tác giả chỉ nên chú trọng vào trong việc trình bày sự thật một cách khách quan, vô tư, hơn là nói lên những nhận xét cá nhân mình về những nhân vật hay sự việc lịch sử. Phần phê phán hãy dành cho người đọc phải hơn.



Tóm lại trừ một vài cái bất thường nho nhỏ, không đáng kể, như vừa trình bày ở trên, quyển "Đất Phương Nam" là một công trình biên khảo to tát, có giá trị đáng kể, rất cần có trong mọi gia đình Việt Nam nếu muốn bảo tồn di sản văn hóa tốt đẹp của cha ông. Xin cảm ơn tác giả Người Long Hồ, đã bỏ bao nhiêu công lao khó nhọc và cả tiền của nữa, để hoàn thành tác phẩm giá trị nầy, và xin cầu chúc tác giả nhiều may mắn, thành công trên đường phụng sự văn hóa nước nhà.



Santa Ana ngày 10 tháng 10 năm 2011



Cựu Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm

Cựu Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa và Thanh Niên Việt Nam Cộng Hòa

Chủ Biên Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai - Cửu Long




***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:
https://huynhhuuduc.blogspot.com/p/blog-page_53.html

***

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Mùa Thu Đầu Tiên

Bài Thơ Xướng

      Mùa Thu Đầu Tiên
                 (2) 
Lần đầu đất khách ngắm vàng bay
Cảm xúc mênh mông cứ nhớ hoài 
Hiu hắt thu phong rừng lá đổ 
Chập chùng mây xám núi đồi xây
Phố phường lạnh ngắt chìm băng giá
Bông tuyết trắng ngần bám áo vai
Từng bước âm thầm chiều sắp tắt
Quê nhà ngàn dặm mắt se cay
                   Mai Lộc 9-22-16
       ( Nhớ Erie, Pennsylvania mùa thu 1983)


Các Bài Thơ Hoạ

         Thu Tha Hương

Đất khách bao thu ngắm lá bay,
Mênh mang cảm xúc những ai hoài.
Heo may gió cuốn cây vàng rụng,
Xanh ngắt da trời mây trắng xây.
Chớm lạnh lòng buồn chồn chân bước,
Vào thu sương ướt trĩu bờ vai.
Quê hương khuất nẻo chân trời cũ,
Không khói hoàng hôn sao mắt cay !?
                            Đỗ Chiêu Đức
                            Thu Phân 2016
***
        Thu Nhớ Nhà

Đất khách thu về lá úa bay,
Chạnh lòng xứ sở mối u hoài.
An cư Mỹ quốc mua nhà cửa,
Lạc nghiệp Cali mở tiệm xây...
Khí hậu bốn mùa sương trắng tuyết,
Heo may tứ quý áo hồng vai.
Quê tôi xứ Quảng bao thương nhớ,
Thoáng gặp đồng hương mắt lệ cay !
                  Mai Xuân Thanh

Thu Xưa Tại CaLi

Mới tới mùa thu lá rụng bay,
Lần đầu đất khách nhớ quê hoài.
Tha hương phải học thêm Anh ngữ,
Trú ngụ nên tìm cách dựng xây.
Cơ hội đổi đời lo sự nghiệp,
Duyên may gặp được bạn kề vai
Nhìn xem thế giới văn minh sống,
Mới biết xa nhà chịu đắng cay !
                Mai Xuân Thanh

***
    Mùa Thu Đầu Tiên

Mới chớm vào Thu....lá đã bay !
Đầu tiên tôi đến ở nơi đây
Heo may se lạnh càng tê tái
Mây trắng bềnh bồng cứ mãi xây
Hiu hắt rừng phong vàng lối nhỏ
Ngập ngừng sương thấm ướt đôi vai
Quê nhà cuối nẻo chân trời lạ
Chẳng khói hương trầm....mắt lại cay
                        Song Quang
***
         Buồn Vào Thu

Từng chiếc lá vàng gió cuốn bay
Mỗi mùa thu đến cảm thương hoài
Sao dời vật đổi đâu người khiến
Vũng biến nên đồi chẳng kẻ xây
Trót mấy mươi năm nuôi ảo mộng
Để rồi một kiếp chẳng tròn vai
Cơm con áo vợ buồn năm tháng
Nỗi giận bất tài vị đắng cay.
                     Quên Đi

***
    Mùa Thu Đầu Tiên
                 Họa nương vận

Với em áo lụa,tóc mây bay
Càng khiến cho đây nỗi cảm hoài
Môt thuở dập dìu trên lối mộng
Nữa đời dang dở cuộc tình xây
Thư xanh trao gởi chưa phai sắc
Mắt biếc gởi trao vẫn nặng vai
Xuyên suốt hành trình chưa bến đỗ
Để rồi chiều xuống bốc men cay
                         Thái Huy
***
      Thu Buồn

Đếm bước trên đường ngập lá bay
Tâm tư chìm đắm nỗi u hoài
Sương chiều mờ mịt như voan phủ
Mây xám chập chùng tựa lũy xây
Nhớ bạn tri âm ngày họp mặt
Thương người tri kỷ lúc kề vai
Hợp tan dẫu biết là quy luật
Mắt vẫn rưng buồn lệ đắng cay.

                    Phương Hà
***
          Thu Buồn

Lá úa chiều thu thoảng nhẹ bay
Mênh mang lịm đắm nỗi u hoài
Giăng giăng gió nhẹ se trời ám
Lãng đãng mây buồn phủ lớp xây
Rẽ bến con thuyền không chuyển lái
Lên đèn ngõ phố lạnh quàng vai
Mơ màng ánh điện chìm sương kín
Bóng đổ đêm tàn tẩm vị cay!
           Nguyễn Đắc Thắng
                   20160924
***
         Thu Cảm Hoài

Trong nắng tơ vàng nhặt lá bay
Mùa thu lộng ngọc luyến lưu hoài
Lòng xa xôi nhớ duyên tương ngộ
Hồn ngất ngây tròn mộng đắp xây
Lắng điệu thu ca khi tựa má
Trao niềm hạnh phúc lúc kề vai
Nhưng lần định mệnh lìa xa xứ
Quê mẹ nghìn trùng nghe đắng cay
                       Kim Phượng
 ***