Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

Vương Quốc Phù Nam Phần 2




 
Lịch Sử Vương Quốc Phù Nam

Ngày nay ai trong chúng cũng đều biết lịch sử của vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Bộ bắt đầu từ khoảng những năm đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch với sự thành lập của một vương quốc cổ nhất mang tên Phù Nam. Theo thự tịch cổ đời nhà Lương thì Hỗn Điền (Kaundinya) truyền ngôi cho con trai là Hỗn Bàn Huống (Hun P’ang Huang), vị vua nầy từ trần lúc 90 tuổi; Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn (P’an P’an); Bàn Bàn truyền ngôi lại cho một vị bộ tướng là Phạm Nam (Fan Man). Theo thư tịch cổ đời nhà Tề (Nam Triều), Phạm Nam tức là Phạm Sử Nam (Fan Shi Man). Trong khi theo thư tịch cổ đời nhà Hán, thì ngày xưa có một vị giáo sĩ người Ấn Độ tên là Kaundinya (Hỗn Điền), thuộc dòng dõi Bà La Môn (Brahman), được thần linh chỉ đường nên dong buồm về phía đông nam vùng biển Ấn Độ Dương. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, qua hàng tháng trời dong ruổi trên biển cả mênh mông, thuyền của Hỗn Điền đổ bộ lên đất liền, vùng đất mà bây giờ là đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, đoàn quân của Hỗn Điền bị nữ vương tên Soma (Liễu Diệp) của thổ dân tại đây chặn đánh không cho họ đổ bộ lên bờ. Sau một trận thư hùng, quân của Liễu Diệp bị quân Hỗn Điền đánh bại. 

Nữ vương Liễu Diệp cầu hòa, rồi Liễu Diệp và Hỗn Điền kết hôn để cùng nhau cai trị vùng đất nầy. Dòng dõi Hỗn Điền và Liễu Diệp truyền ngôi cho nhau được trên 200 năm. Hỗn Điền truyền ngôi cho con trai là Hỗn Bàn Huống, Hỗn Bàn Huống truyền ngôi cho con là Bàn Bàn... Lúc đó khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan Thứ Sử Trung Hoa ở Giao Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng quốc vương Lâm Ấp, với sự trợ lực của vương quốc Phù Nam đã khởi quân tấn công Nhật Nam. Dầu thế nào đi nữa thì những thư tịch cổ của Trung Hoa cũng cho chúng ta một khái niệm sơ lược về vương quốc Phù Nam. Từ ngày thành lập đến khi tàn lụn vương quốc nầy đã truyền được 13 đời vua. Qua đến những thế kỷ thứ II và thứ III thì vương quốc Phù Nam đã phát triển mạnh mẽ và hoàn chỉnh một triều đại lớn, đó là triều đại Sri Mara (Sư Man), trị vì vương quốc nầy trong khoảng từ năm 225 đến 230 sau Tây lịch(17). Đây cũng là thời kỳ hưng thịnh nhất của dân tộc Phù Nam, vị vua nầy đã chinh phục các lân quốc và mở rộng lãnh thổ của Phù Nam. 

Chỉ trong vòng 5 năm (225-230) mà vua Sri Mara đã cho đóng nhiều chiến thuyền để vượt biển đánh chiếm các nước nhỏ ngoài hải đảo. 

Đến năm 230 sau Tây lịch thì biên cương của vương quốc Phù Nam đã trải rộng từ đồng bằng sông Cửu Long đến tận Ménam về phía Tây(18), và về phía Nam và Đông Nam xuống tận đến các hải đảo thuộc Nam Dương và Mã Lai ngày nay, về phía tây bắc lên đến Trung Lào, về phía đông bắc kiểm soát các trục lộ giao thông đến tận vùng Khánh Hòa(19). Nghĩa là 300 năm sau ngày lập quốc vương quốc nầy đã hoàn chỉnh hệ thống hành chánh và thương mãi, đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh. 

Thời nầy vương quốc nầy đã chinh phục được hầu hết các nước quanh vùng, từ Mã Lai, Thái Lan, Cao Miên, Nam Lào và Nam Miến Điện. Từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VI, coi như vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hoàn toàn đường hàng hải của các thương thuyền đi từ Trung Hoa qua Ấn Độ và Âu châu. Kinh đô Vyadhapura (Mục Đặc) của vương quốc Phù Nam hồi nầy rất phồn thịnh, với sự hiện diện của sứ thần cũng như thương nhân của nhiều quốc gia khác từ Âu châu qua Ấn Độ, và Trung Hoa... 



Căn cứ theo các sử liệu của Trung Hoa, từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế lớn mạnh nhất tại vùng Đông Nam châu Á. Thư tịch cổ đời nhà Lương ghi rất rõ: “Sau khi vị vua cuối cùng của dòng họ Hỗn Điền băng hà, một bộ tướng tên là Phạm Sử Nam (Fan-Che-Nan), được dân chúng tôn lên làm vua, trị vì khoảng từ năm 205 đến năm 225 sau Tây lịch. Phạm Sử Nam là một vị quốc vương tài giỏi và tiếng tăm lừng lẫy. Chính vị hoàng đế nầy đã liên tục thôn tính hơn 10 thuộc quốc lân cận nằm trên bán đảo Mã Lai và vùng thung lũng sông Mê Nam như các xứ Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt (Chân Lạp), vân vân.” Tuy nhiên, trên bản đồ thế giới ngày nay, chúng ta không còn thấy tên của bất cứ vương quốc nào vừa kể trên nữa, nhưng chắc chắn những vương quốc nầy phải nằm trong vùng thung lũng sông Cửu Long, chạy dài từ vùng Tonlé Sap xuống miền Nam Việt Nam ngày nay kể cả vùng từ Đồng Nai đến Cam Ranh, Phan Rang và Nha Trang, nơi mà sau nầy người ta tìm thấy tấm bia đá tại vùng Võ Cạnh; hoặc vùng đất chạy dài từ thung lũng Mé Nam đến tận vùng bán đảo Malacca của Mã Lai Á ngày nay. 

Như vậy, vào giữa thế kỷ thứ III vương quốc Phù Nam đã kiểm soát hầu hết các yếu điểm trên bán đảo Đông Dương lên đến vùng Khánh Hòa ngày nay, và bán đảo Mã Lai xuống tới Malacca. Vào thời đó vương quốc nầy đã khống chế tất cả các hải trình từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương và ngược lại. Thư tịch cổ đời nhà Lương đã quả quyết rằng Phạm Sử Nam (Fan Shih Man) tử trận giữa những năm 205-210, trong lúc ông đang chỉ huy tướng sĩ đi chinh phục vùng Chin Lin(20). Trong khi thư tịch cổ nhà Nam Tề lại ghi: “Vua Phạm Sử Nam là một vì vua quả cảm và có tài. 

Ông đã từng chinh phục các nước láng giềng và bắt các nước nầy phải thần phục Phù Nam và tôn xưng ông là Phù Nam đại vương. Năm 225, Phạm Sử Nam tử trận trong một cuộc viễn chinh tại miền Bắc bán đảo Mã Lai.” Theo Finct, một nhà khảo cổ học người Pháp, thì Sri Mara là một chư hầu thuộc vương quốc Phù Nam. Riêng giáo sư G.E. Hall đã ghi lại trong quyển ‘Đông Nam Á Sử Lược’ như sau: “Dù sao chúng ta cũng rất khó xác định được niên đại liên hệ của các quốc vương hay các biến chuyển trong thời sơ khai của lịch sử Phù Nam.” Trong khi đó, theo nhà khảo cổ học người Pháp khác tên Coedès, thì Phạm Sử Nam (Fan Shih Man) chính là vua Sri Mara, được ghi trên bia đá bằng Phạn ngữ, được tìm thấy tại vùng Võ Cạnh, thuộc vùng Nha Trang, nguyên là đất của vương quốc Champa. Bia đá ghi rằng Sri Mara là chúa tể đạo Phật và dùng Phạn ngữ trong triều. Coedès còn cho rằng truyền thuyết về Hỗn Điền (Kaundinya) xảy ra sau thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, vì trong thời kỳ Phạm Chiêu (Fan-Tchao), người nối ngôi vua Phạm Sử Nam (Fan Shih Man), nhờ sự liên lạc giữa Phù Nam, Ấn Độ và Trung Hoa, nên những niên đại được ghi lại rất đáng tin cậy. Theo Coedès thì Phạm Chiêu bị một người cháu tên Phạm Chấn(21) giết chết để đoạt ngôi, rồi trị vì ở ngôi được 20 năm, cho đến khi bị em trai vua Phạm Chiêu (Fan Tchao) giết chết để trả thù cho anh mình. Theo Coedès thì chính Phạm Chấn, chứ không phải Phạm Chiêu, người đã tiếp đãi một du khách Ấn Độ và được vị du khách nầy tường thuật về đất Ấn, khiến nhà vua mê say về những huyền bí sông Hằng đến đỗi khoảng những năm từ 240 đến 245 sau Tây lịch, ông đã cử một sứ đoàn đi từ hải cảng Takola ở bán đảo Mã Lai, theo đường biển đi ngược dòng sông Hằng, đến triều đình Ấn Độ, mà theo nhà khảo cổ Sylvain Lévi, đó là triều đình vua Marunda. Sau khi Phạm Sử Nam băng hà, con trai là Phạm Chiêu (Fan-Tchao) lên ngôi và trị vì đến năm 245. 

Theo học giả người Pháp tên P. Pelliot, dưới thời vua Phạm Chiêu nhà vua đã phái sứ thần sang Ấn Độ và được vua Murunda tiếp đón rất nồng hậu. Trong khi theo Ngô Thư của Trung Hoa thời Tam Quốc, thì vào năm 243, Phạm Chiêu sai sứ sang cống nhạc công và phẩm vật quý cho vua nhà Ngô. Sau khi Phạm Chiêu băng hà, một tùy tướng tên Phạm Tần (Fan-Tsan) lên nối ngôi và trị vì từ năm 245 đến năm 287. Dưới thời vua Phạm Tần, hoàng đế nhà Ngô của Trung Hoa cũng đã sai sứ sang Phù Nam và đã được quốc vương của xứ nầy tiếp đón hết sức long trọng. 

Ông Khương Thái trong sứ đoàn Trung Hoa đã kể lại chuyện gặp gỡ với sứ giả của vua Marunda của Ấn Độ đang lưu lại kinh đô của Phù Nam. Trong khoảng thời gian từ năm 268 đến năm 287, có nhiều sứ đoàn của Phù Nam được phái sang Trung Hoa. Nhờ có các sứ đoàn lui tới Phù Nam nên mối giao hảo giữa vương quốc Phù Nam với các nước lớn trong vùng rất tốt đẹp, nhất là với các nước Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, kể từ năm 270 sau Tây lịch trở về sau nầy thì mối bang giao giữa Phù Nam với Trung Hoa không còn tốt đẹp như trước nữa, vì vào năm 270 sau Tây lịch, vua Phạm Tần (Fan-Tsan) của Phù Nam liên kết và yểm trợ vị vua của nước Lâm Ấp để gây chiến tranh với đất Giao Châu trong suốt mười năm, từ năm 270 đến năm 280 sau Tây lịch. 

Vào đời nhà Tấn bên Trung Hoa, về phía Nam quận Nhật Nam, có một vị thượng quan địa phương tên Khu Liên, lợi dụng trong lúc suy yếu của nhà Hán trong khoảng những năm từ 206 đến 221 sau Tây lịch, đã ly khai với quận Nhật Nam và lập nên xứ Tượng Lâm(22). Về sau người ta gọi vương quốc nầy là vương quốc Champa, kinh đô được đặt tại vùng Mỹ Sơn, Trà Kiệu, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay. Theo thư tịch cổ đời nhà Tấn, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn lên ngôi, quan thứ sử Trung Hoa ở đất Giao Châu có đệ sớ tâu lên nhà vua rằng với sự trợ giúp của vương quốc Phù Nam, quốc vương xứ Lâm Ấp đã khởi binh tấn công quận Nhật Nam. 

Nhưng sử ký nhà Tiền Tống chép về những tài liệu lịch sử khác vào những năm 434, 435 và 438 thì lại ghi rằng vua Phù Nam không thuận giúp vua Lâm Ấp cất quân đi đánh đất Giao Châu. Như vậy, dầu ngày nay chúng ta không còn nhiều tài liệu lịch sử của riêng vương quốc Phù Nam, nhưng hầu như tất cả những thư tịch cổ của Trung Hoa kể từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI đều có nói về vương quốc nầy. 

 Sau đó từ khoảng năm 287 đến 375(23), không thấy nói gì đến vương quốc Phù Nam nữa. Như vậy, nếu căn cứ theo các sử liệu Trung Hoa, thì khoảng hơn một thế kỷ nầy vương quốc Phù Nam phải trải qua nhiều lủng củng nội bộ, mặc dầu vương quốc nầy vẫn tiếp tục phát triển và lớn mạnh. Mãi đến đời nhà Lương mới đề cập đến phái bộ Phù Nam do quốc vương Chan Tan hay Chiên Đàn (Chandana) hướng dẫn đến triều cống Lương triều. 

Các sử gia nhà Lương ghi chép Chan Tan như một người Ấn Độ, và chữ Chan Tan theo Phạn ngữ là Chandana, tước vương của triều đại Kanishka. Vị vua nầy trị vị ở ngôi từ năm 375 đến 470. Điều đặc biệt là nền văn minh Ấn Độ đã từng lan tràn qua vùng Đông Nam châu Á nầy từ hơn 20 thế kỷ nay, nhưng trải qua hơn 2 ngàn năm chưa có một triều vua nào của Ấn Độ hoặc sử sách của Ấn Độ ghi chép lại về sự việc nầy. Mãi đến giữa thế kỷ thứ 20, sau khi lấy lại nền độc lập từ tay của người Anh, chánh phủ và nhân dân Ấn Độ mới bắt đầu quan tâm đến vùng đất mà nền văn minh Ấn Độ đã có mặt từ lâu. Ngược lại với người Ấn, người Trung Hoa luôn cho rằng các quốc gia xung quanh Trung Hoa đều thuộc vùng ảnh hưởng của Thiên Triều Trung Quốc, bằng chứng là khi viết bộ “Thủy Kinh Chú” vào những năm đầu kỷ nguyên Tây lịch, người Hoa đã mặc nhiên xem các vùng phía Nam Trung Hoa là của họ. Họ cử sứ giả đi kinh lý và điều tra những con sông, những điều mắt thấy tai nghe, những phong tục tập quán, và những nền văn hóa phương Nam. 

Nghĩa là từ hơn 2.000 năm nay, người Trung Hoa luôn xem vùng biển và lãnh địa phương Nam thuộc ảnh hưởng của họ. Ngay từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch, các vương quốc trong vùng Đông Nam Á đều phải có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa qua những hình thức triều cống và cầu phong. Đối với Trung Hoa, họ cho rằng họ là thiên triều và mặc nhiên có quyền can thiệp vào nội bộ của các vương quốc trong vùng nếu cần. Tuy nhiên, nhờ vậy mà ngày nay chúng ta còn có những sử liệu quí giá về các vương quốc cổ trong vùng. Giữa thế kỷ thứ III đến đầu thế kỷ thứ VI, Phù Nam đã có mối quan hệ ngoại giao với các nước lớn thời bấy giờ như Trung Hoa, Ấn Độ và La Mã. 

Dù cho tới bây giờ người ta vẫn chưa phác họa được diện mạo của người Phù Nam, nhưng qua sử liệu của các xứ Ấn Độ và Trung Hoa, phải nói Phù Nam là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong lịch sử vùng Đông Nam Á. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, các triều vua thời nhà Hán bên Trung Hoa đã nhiều lần sai sứ đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Dưới thời Chan Tan, từ năm 375 đến 470 từ năm 375 đến 470 mối giao hảo với nhà Lương bên Trung Hoa rất tốt, điều nầy phù hợp với những điều được ghi trong Lương Thư: “Những năm 431 và 432, nước Lâm Ấp muốn cất quân sang đánh Giao Châu nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng đã bị vua Phù Nam là Chan Tan từ chối.” Thời vua Chan Tan, chẳng những Phù Nam có mối giao hảo rất tốt với Trung Hoa mà với cả Ấn Độ nữa. Thời vua Chan Tan là gia đoạn đánh dấu sự phục hồi của ảnh hưởng Ấn Độ tại xứ sở nầy, vì vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, Phù Nam có liên hệ mật thiết với triều đại Ca Nị Sắc Ca ở Ấn Độ, nghĩa là vào lúc cực thịnh, khoảng thế kỷ thứ 3, lúc bấy giờ lãnh thổ vương quốc Phù Nam bao gồm vùng phía Nam nước Cao Miên, toàn bộ vùng Nam Kỳ lục tỉnh, và có lẽ chạy dài đến tận bán đảo Malacca, thuộc Mã Lai. Họ là giống dân Úc Á, đến định cư tại bán đảo Đông Dương vài mươi thế kỷ trước Tây lịch. Người Phù Nam chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Ấn Độ thời cổ, dùng chữ Bắc Phạn (Sanskrit), theo luật pháp Ấn Độ. Đa số cư dân theo đạo Bà La Môn và đạo Phật, có lẽ hai tôn giáo nầy được du nhập vào vương quốcPhù Nam cùng lúc vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. 

Các nhà khảo cổ học đã khai quật và tìm thấy rất nhiều những biểu tượng của Bà La Môn như những ‘linga’ bằng đá, tượng thần Vishnu có kích cỡ như người thật. Bên cạnh đó, họ cũng tìm thấy rất nhiều tượng Phật bằng gỗ, đá và đồng tại các vùng Rạch Giá, Đồng Tháp Mười, Cần Thơ, Vũng Tàu. Vào khoảng thế kỷ thứ II, vương quốc Phù Nam phát triển rất cao trên địa bàn miền Tây Hậu Giang và được mở rộng qua khỏi bờ Tiền Giang. Theo những khám phá mới về những đường kinh từ núi Sập qua Đồng Tháp Mười, chứng tỏ thời đó nền canh nông của người Phù Nam đã phát triển khá cao. Ngoài canh nông, họ còn làm thương mại và buôn bán với các dân tộc ở vùng Đông và Nam Á, cũng như các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Mã Lai, và có lẽ ngay cả với những quốc gia ở Âu châu nữa. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI, bờ biển của vùng Nam Kỳ bây giờ là vùng Óc Eo. 

Theo các sứ thần của Trung Quốc thì vào thế kỷ thứ III, Óc Eo đã là một hải cảng lớn trong vùng. Vào khoảng thế kỷ thứ III đã có những nhà ngoại giao Trung Hoa thời nhà Ngô đến đây và được vua xứ Phù Nam tiếp kiến. Đây là một trong những sự kiện lịch sử xác đáng và được ghi nhận trong thư tịch cổ Trung Hoa như một sự kiện lịch sử về ngoại giao giữa hai nước Trung Hoa và Phù Nam. Cũng theo các nhà ngoại giao Trung Hoa thời nhà Ngô thì thời kỳ huy hoàng nhất của vương quốc Phù Nam là vào khoảng thế kỷ thứ III này, lúc ấy toàn bộ các lãnh thổ vùng phía Đông của nước Xiêm, bán đảo Malacca(24), một phần đất của Miến Điện, Chân Lạp, Nam Lào và Nam Kỳ đều nằm trong lãnh địa Phù Nam. Chính vào thời kỳ này, vương quốc Phù Nam hùng mạnh và kiểm soát toàn bộ hải trình buôn bán Đông Tây từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Cũng theo các thư tịch cổ của Trung Hoa thì một trong những vị vua đã đưa vương quốc Phù Nam đến chỗ mạnh nhất vào thế kỷ thứ V là vua Xà Da Bạt Na(25). 



Năm 484 vua Phù Nam cất quân đánh Chiêm Thành, đồng thời cho sứ giả sang giao thương với Trung Hoa (nhà Tống) và yêu cầu nước này yểm trợ. Ngài được xem là vị vua mạnh nhất trong những năm cuối thế kỷ thứ V. Ngài theo đạo Phật, mặc dù đạo Bà La Môn đang có ảnh hưởng rất lớn trong vương quốc Phù Nam. Đặc biệt, ngài rất tôn sùng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì ngài tin rằng nhờ sự che chở của vị Bồ Tát này mà toàn cõi thần dân trong vương quốc của ngài luôn được an cư thịnh vượng. Về ngoại giao, vương quốc Phù Nam dưới thời vua Jayavarman giao hảo rất thân thiện với các nước Âu châu, Ấn Độ và Trung Hoa. 

Khoảng năm 480, vua Jayavarman phái nhiều thương gia sang buôn bán ở Quảng Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Trên đường về, đoàn tàu chở theo một vị thiền sư người Ấn Độ tên Cakya Nagasena(26). Năm 484, vua Jayavarman phái vị thiền sư ấy trở lại Trung Hoa dâng sớ, nói rõ về hiện tình của vương quốc Phù Nam và sư mong muốn giữ được mối giao hảo bền vững với Trung Hoa, lúc đó nhà Tề đang cai trị. Vị thiền sư ấy cũng đạo đạt lời thỉnh cầu của vua Xà Da Bạt Na(25) xin Trung Hoa gửi quân tiếp viện Phù Nam đánh Lâm Ấp, nhưng vua Trung Hoa từ chối. Theo lá sớ của vua Xà Da Bạt Na trình lên triều đình Bắc Kinh thì tôn giáo thịnh hành ở Phù Nam thời bấy giờ là Phật giáo Tiểu Thừa. Khoảng cuối thế kỷ thứ V, nhà Tề gửi quốc thư yêu cầu vương quốc Phù Nam phái 2 nhà sư gốc người Phù Nam tên Mandrasena(27) và Sanghapala(28) sang Trung Quốc phiên dịch kinh điển từ Phạn ngữ và văn tự Phù Nam ra Hoa ngữ. Tuy nhiên, khi 2 nhà sư này đến Trung Quốc thì nhà Tề đã bị nhà Lương tiêu diệt. Dầu triều đình Bắc Kinh từ chối không gửi viện quân sang giúp Phù Nam, nhưng vào năm 503, theo Lương Thư, vua Lương Võ Đế đã ban chiếu khen vua Phù Nam: “Vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và các đời vua trước trị vì ở phương Nam xa xăm, tuy ở xa nhưng họ vẫn tỏ rõ lòng trung thực và tính hòa hiếu, nhiều lần họ đã sai sứ mang lễ vật sang tặng. Bởi vậy, cần phải tưởng lệ bằng cách phong cho danh hiệu: Bình Nam Tướng Quân, Phù Nam Đại Vương.” 

Đến năm 506, vua Lương Võ Đế chính thức yêu cầu 2 sư phiên dịch kinh điển. Trong thời kỳ nầy, Xà Da Bạt Na đệ nhất cho dựng lên đền thờ Thần Vishnu tại khu vực Đồng Tháp Mười ngày nay, gọi là Đền Chakratirthasvamin. Tuy nhiên, mãi đến ngày nay người ta không tìm được bia đá nào nói về vua Xà Da Bạt Na đệ nhất và triều đại của ông ta, chỉ có hai tấm bia khắc chữ Phạn, ghi lại việc hoàng hậu hạ sanh thái tử Gunavarman và việc khai khẩn vùng đất sình lầy nầy mà thôi. 

Năm 514, vua Xà Da Bạt Na đệ nhất băng hà để lại cho dân tộc Phù Nam một vương quốc hùng mạnh với nhiều công trình thủy lợi trong khu vực ven vùng biển cạn Tháp Mười và Óc Eo ngày nay, biến những vùng trũng ngập mặn thành những cánh đồng phì nhiêu trù phú. Theo thư tịch cổ của nhà Lương, thì vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) là con của một bà thứ phi của vua Xà Da Bạt Na đệ nhất. Lưu Bà Bạt Ma đã giết chết người con trưởng thuộc dòng chánh là thái tử Gunavarman để cướp ngôi và trị vì Phù Nam từ năm 514 đến năm 550. 

Cũng theo cổ thư Trung Hoa thì đây là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam còn quan hệ với Trung Hoa. Vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) cũng muốn nối chí vua cha củng cố mối giao hảo với Trung Hoa, bằng chứng là vào năm 517, vua Rudravarman phái một đoàn sứ giả dưới sự hướng dẫn của một vị tu sĩ Bà La Môn sang Nam Kinh dâng sớ và cống lễ lên hoàng đế nhà Lương. 

Rồi đến năm 518, vua Rudravarman (514-539) lại phái một đoàn sứ giả khác sang dâng một tượng Phật bằng gỗ bạch đàn ở Ấn Độ và nhiều lá bồ đề được mang về từ nơi cây Bồ Đề nơi Đức Phật thành đạo. Phái bộ Phù Nam còn cho triều đình nhà Lương biết là hiện còn lưu giữ một lọn tóc xá lợi của Đức Phật tại vương quốc Phù Nam. Cũng chính trong khoảng thời gian nầy các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã phiên dịch bộ Vimutti Magga(29) sang Hán văn. 

Hiện bộ kinh nầy chỉ còn lại bản chữ Hán, trong khi bản chữ Phạn đã bị thất lạc. Năm 535, sử nhà Lương còn ghi lại về việc một phái đoàn sứ giả Trung Hoa được gửi sang Phù Nam để thỉnh kinh Phật, đồng thời yêu cầu vua Rudravarman của vương quốc Phù Nam cho dời các sư sãi sang Trung Hoa. Vua Rudravarman liền cử thiền sư người Ấn tên Gunaratna, đang hành đạo tại đây, mang 240 bộ kinh sang Trung Hoa. Sư Gunaratna đến Nam Kinh vào năm 546, nhưng sử Trung Hoa không nói rõ sư lưu lại đây bao lâu và dịch được những bộ kinh nào nữa. 



Tuy nhiên, lúc đó uy tín và thế lực của Phù Nam đã hết nên sau đó vương quốc Phù Nam bị tiêu diệt. Có lẽ chính việc soán ngôi của vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) mà các quan lại và thần dân không phục, nên vào khoảng năm 550, một số người còn tưởng nhớ đến người con trưởng vua Xà Da Bạt Na nổi lên đánh chiếm kinh thành Đặc Mục. Cũng theo thư tịch cổ thời nhà Lương, khi vua Lưu Bà Bạt Ma (Rudravarman) băng hà, vào năm 550, tại vương quốc Phù Nam đã xảy ra một cuộc nội loạn, có lẽ do một người cháu vua Rudravarman tên là Bhavavarman lãnh đạo(30) đánh chiếm kinh đô Đặc Mục, đã lật đổ được vương triều Phù Nam thời bấy giờ, và cuối cùng đã hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp làm một. Quốc vương đương thời của Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại vùng Na Phất Na Khái(31). Như vậy sau một thời vàng son rực rỡ, vương quốc Phù Nam trở nên suy sụp vào giữa thế kỷ thứ VI. Thấy thế mới biết vào thời mà Việt Nam chúng ta chỉ là một quận huyện của Trung Hoa thì vương quốc Phù Nam đã là một vương quốc rất lớn và rất mạnh ở phương Nam. 



Kinh Đô Đặc Mục (Vyadhapura) Của Vương Quốc Phù Nam: 

Các nhà cổ sử đều đồng ý rằng kinh đô Phù Nam đặt tại thành Đặc Mục, tiếng Phạn là Vyadhapura, có nghĩa là thành phố của những thợ săn(32). Theo các nhà nghiên cứu cổ sử kinh đô nầy nằm gần gần thị trấn Banam, gần ngọn núi Ba Phnom ngày nay, thuộc tỉnh Prey Veng của Cao Miên ngày nay. Theo các nhà cổ sử thì đây là một trong những đô thị trù phú vào bật nhất trên thế giới, vì nó tọa lạc trên một vùng núi không xa đồng bằng mà cũng không xa biển, rất thuận tiện cho việc giao thương và nông nghiệp. Theo Hán sử của người Trung Hoa thì đô thị nầy cách bờ biển khoảng 120 lý(33), nằm trên tuyến hải hành giữa Trung Hoa và Ấn Độ. 

Kinh đô Vyadhapura được xây dựng bằng gạch và đá rất kiên cố, chung quanh có hệ thống kinh đào vừa được dùng để dẫn thủy nhập điền, vừa được dùng để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ của của vương quốc. Hải quân của Phù Nam rất hùng mạnh, vào khoảng giữa thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, vương quốc nầy đã có một đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh nhất trong vùng. Họ đã kiểm soát cả trên bộ lẫn dưới biển trên một tuyến đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Chính vì vậy mà khoảng 300 năm sau ngày thành lập họ đã chinh phục hầu hết các bộ tộc trên một phạm vi rất lớn từ Mã Lai, Malacca, Thái Lan, Miến Điện, Kambuja, và Lão Qua. Lãnh địa của vương quốc nầy trải rộng từ phía Nam Trung Việt hiện nay và toàn vùng Nam Phần, ở phía tây sang tận đến thung lũng sông Menam thuộc Thái Lan, phía Bắc đến tận vùng Trung Lào, và phía Nam đến tận bán đảo Malacca (Mã Lai). Ngày đó hầu như các tiểu quốc nằm trên bán đảo Malacca và quần đảo Nam Dương ngày nay như Sri Vijaya ở Palembang, Sailendra ở Java... đều nằm dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Để có thể khắc phục những vùng nê địa chạy từ vùng cảng Óc Eo đến kinh đô Đặc Mục (Vyadhapura). Đây có thể nói là một trong những vùng nê địa khắc nghiệt nhất, vì hàng năm cứ đến mùa mưa là bị lũ lụt, còn vào mùa nắng là đồng khô cỏ cháy, không còn lấy một giọt nước. Vì thế, người Phù Nam đã đào rất nhiều kinh chạy từ Angkor Borei ra Vịnh Thái Lan, vừa làm đường giao thông thủy, mà cũng vừa làm hệ thống thoát nước và dẫn thủy nhập điền(34). Đến khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, người Chân Lạp cũng tiếp tục đào kinh thoát nước, như kinh Cái Bác từ ngọn Cái Bác đến sông Vàm Cỏ Tây. Bên cạnh đó, để khắc phục việc thiếu nước về mùa khô, người Chân Lạp đã cho đào nhiều hồ nước lớn ở rải rác khắp nơi, như ao Bà Om ở Trà Vinh, hồ Tịnh Tâm ở Sóc Trăng, và những hồ nước lớn ở vùng Tịnh Biên (Châu Đốc). Theo các nhà khảo cổ và nhân chủng học nghiên cứu về Phù Nam, thì Óc Eo là hải cảng quan trọng nhất của Phù Nam từ khi mới lập quốc(35) cho mãi đến thế kỷ thứ VI sau Tây lịch. Nền kinh tế nghiêng về thương mãi của Phù Nam đã phát triển mạnh nhờ vị trí thuận tiện của Phù Nam. Trong lúc kỹ thuật hàng hải chưa tiến bộ, các nước đi từ Ấn Độ Dương qua Biển Đông, đến Nhật Bản và Trung Hoa đều phải ghé lại hải cảng Óc Eo của Phù Nam. Chính nhờ vậy mà ngành thương mãi của Phù Nam phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, từ sau khi thế giới có những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, thuyền buôn có thể đi xa bờ và không cần phải ghé lại những hải cảng không cần thiết nữa, nên nhu cầu ghé lại cảng Óc Eo của các tàu buôn đi từ các xứ Ấn-Âu đến Trung Hoa không còn nữa, vì vậy mà nền thương mãi của Phù Nam suy sụp một cách nhanh chóng. 



Hải Cảng Óc Eo Của Vương Quốc Phù Nam: Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1942, nhà khảo cổ học người Pháp tên Louis Malleret đã tiến hành khai quật nhiều địa điểm khác nhau quanh khu vực Núi Sập(36). Đồng thời, người Pháp cũng cho chụp nhiều không ảnh từ phía Campuchia xuống tận các vùng duyên hải của miền Nam Việt Nam. Sau khi hoàn tất một số khai quật trên cánh đồng Óc Eo, nhà khảo cổ học Louis Malleret đã cho công bố kết quả những bằng chứng về vương quốc cổ Phù Nam(37). Kết quả của những cuộc khai quật nầy đã làm chấn động và thay đổi những hiểu biết về vương quốc Chenla(38), vì từ trước người ta luôn cho rằng Phù Nam là tiền thân của Chân Lạp. Theo Louis Malleret thì khu hải cảng Óc Eo nằm cách bờ biển khoảng 25 cây số, nhưng ông Malleret quả quyết rằng cách đây 20 thế kỷ, hải cảng nầy phải nằm sát bờ biển. Qua tài liệu và những không ảnh thu thập được, cũng như sự quan sát tại chỗ của ông, ông Malleret đã kết luận diện tích của thành phố nầy khoảng 450 mẫu. Toàn vùng chia thành nhiều ô nhỏ, chứng tỏ ngày xưa đô thị nầy tọa lạc gần biển với số lượng dân cư rất đông. Vùng di tích quanh núi Ba Thê có phạm vi rộng lớn, tập trung nhiều di tích thờ phụng và lăng mộ. Bên cạnh đó, di tích nầy còn cho thấy đây là vùng trung tâm, nơi qui tụ nhiều tinh hoa kỹ thuật và nghệ thuật của nền văn hóa mang tên Óc Eo. Cũng theo ông Louis Malleret, qua những gì mà đoàn khảo cổ của ông đã khai quật được cũng đủ cho thấy Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương mại, mà nó còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam. Ngoài ra, những pháthiện nầy còn cho phép các nhà khảo cổ thời đó thấy được vai trò của thành phố cảng Óc Eo trong nền văn hóa cổ của Phù Nam. Óc Eo là hình ảnh tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ đã thành hình sớm nhất trong vùng Đông Nam Châu Á. Theo không ảnh chụp được vào năm 1942, phải nói Óc Eo(39) là một trong những hải cảng lớn trên thế giới thời bấy giờ. Óc Eo có hình chữ nhật, dài khoảng 3 cây số và rộng khoảng 1.5 cây số. Chung quanh cảng có 5 con đê cao và 4 hào rộng ở bốn cạnh, với diện tích bên trong cảng Óc Eo ít nhất phải trên 450 mẫu. Điều nầy chứng tỏ cách nay gần 2 ngàn năm, người Phù Nam đã có khả năng đắp những con đê chận biển giống như kiểu ‘Amsterdam’ của Hòa Lan ngày nay. Từ năm 1942 đến năm 1944, Louis Malleret tiếp tục tiến hành khai quật khu Núi Sập (Ba Thê), hy vọng tìm thêm dấu vết của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, sau năm 1945, chiến tranh bùng nổ tại Đông Dương nên những cuộc khai quật của ông Louis Malleret phải bị gián đoạn. Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khai quật nhiều địa điểm, không chỉ quanh quẩn vùng Óc Eo, mà những cuộc khai quật sau nầy có qui mô rải khắp miền Nam Việt Nam. Ngoài những di cốt của con người được tìm thấy trong các khu lăng mộ và chum mộ, người ta còn tìm thấy dưới những hố khai quật rất nhiều di cốt của những con vật được nuôi trong nhà như chó, heo, mèo, gà, vân vân. Đặc biệt, người ta cũng tìm thấy rất nhiều hình voi được khắc trên các vật dụng, điều nầy chứng tỏ cư dân Phù Nam đã thuần dưỡng được loài voi để làm phương tiện giao thông trong sinh hoạt hằng ngày cũng như trong chiến tranh của họ. Điều nầy cũng cho thấy về mặt tâm lý học, người Phù Nam đã phát triển đến một trình độ rất cao(40). Sau nhiều cuộc khai quật, người ta thấy hình ảnh của vương quốc Phù Nam ngày càng hiện lên rõ nét, không chỉ tại Óc Eo, mà hầu quanh vùng Óc Eo và khắp cả miền Nam đâu đâu cũng có di tích hay phế tích của vương quốc cổ Phù Nam, như Cạnh Đền(41), Gò Tháp(42), Vĩnh Long, Tiền Giang, Gò Năm Tước và Gò Rộc Chanh(43), Sài Gòn, Cát Tiên (thuộc vùng Đồng Nai ngày nay), và Vũng Tàu. Đó là dấu tích của những gì mà các nhà khảo cổ đã khai quật được, nhưng chắc chắn các nhà khảo cổ sẽ không dừng lại ở đó. Trong tương lại, nếu được sự hợp tác của các nước Campuchia và Thái Lan, chắc chắn hình ảnh của vương quốc Phù Nam sẽ hiện lên ngày càng rõ nét hơn. Riêng những phát hiện phong phú hiện có về khu di chỉ Óc Eo cũng đủ chứng tỏ vai trò quan trọng của nó đối với vương quốc Phù Nam. Đây là một đô thị rộng lớn, một hải cảng có tầm cỡ thời bấy giờ với những sinh hoạt nhộn nhịp, một trung tâm kinh tế và thương mại phồn thịnh và sống động với những chứng cứ về mối quan hệ giao thương giữa Phù Nam và nhiều xứ Âu Á khác. Óc Eo là một di tích hết sức đặc biệt về vương quốc Phù Nam, vì nó chẳng những tiêu biểu cho nền văn minh của của vương quốc cổ nầy, mà nó còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh của một nền văn minh thành hình sớm nhất trong vùng Đông Nam châu Á. Ngoài ra, theo kết quả của những cuộc khai quật sau năm 1975, người ta còn tìm thấy những mẫu lúa ở các di tích Nền Chùa, Óc Eo có dạng hạt tròn và người ta cũng tìm thấy dấu tích của những hạt lúa ma(44). Theo quyển ‘Con Đường Lúa Gạo’ của Watabe, trong những di tích gạch Óc Eo có chứa những vỏ trấu hạt dài. Đây là loại lúa có tên là lúa Tiên, thuộc hệ Bengal, được du nhập từ Ấn Độ vào khoảng những thế kỷ đầu Tây lịch. Qua những phát hiện về lúa, cộng với những phát hiện về hệ thống những kinh đào, nhà khảo cổ học Việt Nam Nguyễn Xuân Hiển đã đưa ra quan điểm về việc trồng lúa nước của vương quốc Phù Nam như sau: “Nghề trồng lúa ở Óc Eo thuộc dạng đầm lầy, đã sử dụng dạng kênh rạch để hỗ trợ cho cây lúa, và không xa nơi trồng lúa, còn bạt ngàn cả từng vạt lúa hoang dại.” Ngoài những phát hiện về nông nghiệp người ta cũng tìm thấy dấu tích thủ công nghiệp, nổi bậc nhất là những tượng Phật, tượng Thần và tượng những linh vật, cũng như những đồ thờ cúng, đồ trang sức và đồ gia dụng đủ kích cỡ, mà vật liệu xây dựng được dùng từ vãng, bạc, đồng, sắc, đá quí, gỗ quí, đất nung, và thủy tinh nhiều màu sắc. Bên cạnh những di vật nầy người ta còn phát hiện rất nhiều dụng cụ chế tác cũng như dấu vết của những lò nung, những nguyên liệu, phế liệu, những quặng nung chảy, những con lăn, bàn nghiền, cối, chày vồ, nồi nấu, khuôn đúc, bàn mài, vân vân. Có nhiều ngành nghề thủ công không phải của dân bản địa đã được thiết lập tại chỗ để sản xuất cho nhu cầu nội địa và cho cả việc xuất khẩu đi nơi khác nữa. Theo thư tịch cổ của Trung Hoa về đời nhà Lương: “Xứ Phù Nam xuất cảng vàng, đồng, thiết, trầm hương, ngà voi, công, chim thằng chài, vẹt ngũ sắc. Dân Phù Nam tìm thấy kim cương rất nhiều dưới sông và trên núi đá. Dân chúng lặn xuống nước mó kiếm rất dễ dàng.” Bên cạnh những phát hiện về công kỹ nghệ nội địa, các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy những tấm huy chương của các vương triều La Mã, những miếng gương bằng đồng dưới thời nhà Đông Hán, những tượng Phật thời Bắc Ngụy, cùng những tượng thần Ấn Độ giáo, cho đến những đồ trang sức và vật dụng ngoại nhập... cho thấy ngành ngoại thương của vương quốc Phù Nam đã phát triển rất mạnh. Ngày nay, hầu hết các nhà khảo cổ đều đồng ý với ông Louis Malleret rằng Óc Eo chẳng những là trung tâm kinh tế và thương mại, mà nó còn là trung tâm quyền lực chính yếu của vương quốc Phù Nam. Gunarvarman – Vị Hoàng Tử Đã Khai Phá Vùng Đồng Tháp Mười: Gunarvarman là con của quốc vương Jayavarman, trị vì vương quốc Phù Nam từ năm 470 đến 514 sau tây lịch. Đáng lý chàng phải ở lại vùng kinh đô Đặc Mục hay hải cảng Óc Eo với đầy đủ những tiện nghi vật chất của hoàng gia, nhưng vì sự phát triển đất nước chàng đã vâng lệnh vua cha đi đến khai phá vùng Prasat Pram Loven, nay là vùng Đồng Tháp Mười(45). Thuở đó Tháp Mười là một vùng đầm lầy hoang vắng, không một bóng người. Theo ý phụ vương, hoàng tử Gunarvarman và đoàn tùy tùng đã khai khẩn toàn vùng và xây tại đây một ngôi đền, mà về sau nầy người ta đã tìm thấy bia văn mà vị hoàng tử đã khắc lên để ca ngợi tinh thần của vua cha. Vào đầu thế kỷ thứ XX, những nhà khoa học khảo cổ người Pháp đã tìm thấy tại ngôi tháp nầy một tấm bia, mà người đứng chủ là Gunarvarman. Bên cạnh đó, người cũng tìm thấy hai tấm bia khác trong vùng Tà Keo bên Campuchia, gần biên giới Việt Nam, một của hoàng hậu Kulaprabhavati, vợ vua Jayavarman, và một của chính vị vua Jayavarman, nói về việc xây dựng một khu đền mà người đứng chủ là ông và con của ông, vị vua kế vị có tên là Rudravarman. Dựa vào những bia văn tại những nơi nầy cũng như những thư tịch cổ của Trung Hoa, một số những nhân vật lịch sử và những biến cố chánh trị tại vương quốc nầy tuần tự được phơi bày ra ánh sáng. Theo lời kể trong bia văn, tuy còn rất trẻ nhưng Gunarvarman hội tụ cả phẩm hạnh và giá trị, đã được quyền cai quản một xứ sở gồm những người sống bằng lộc thánh trên đất khai khẩn từ bùn lầy. Họ đã dựng một ngôi đền thờ thần ở Pram Loven, ngôi đền đã được dâng cúng bởi nhiều vị thần Ấn Giáo thông hiểu kinh kệ. Họ tin rằng ngôi đền sẽ che chở cho Gunarvarman và những người đến đây qua lời văn trong đoạn cuối của bia văn: “Cầu cho con người sùng kính (vị thần nầy) của Guanarvarman đức hạnh, sùng tín, khoáng đạt. Cũng cầu cho ai đến lễ nơi đây, cũng sẽ được đến nơi ngự trị tối thượng của Visnu, tâm linh thoải mái, giải thoát khỏi xấu xa.” Khi mà những vùng đất phía đông nam và tây nam như Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau hãy còn là những vùng ngập nước quanh năm, nhờ công lao của hoàng tử Gunarvarman mà khu vực quanh ngôi đền Tháp Mười thời đó chính là nơi tập trung cư dân đầu tiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nội dung của các bia văn cũng cho thấy những uẩn khúc của hoàng tộc Phù Nam trong giai đoạn cuối của vương quốc nầy. Kulaprabhavati là hoàng hậu, vợ của vua Jayavarman, phải ẩn tu nơi vùng Tà Keo hẻo lánh; trong khi đó con trai dòng chính của bà và vua Jayavarman là thái tử Gunarvarman lại phải tìm về nơi đầm lầy xa hẳn kinh đô Đặc Mục, nhưng vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của con của một bà thứ phi là vua Rudravarman. Không bao lâu sau đó vương quốc Phù Nam cũng bị người Chân Lạp từ bình nguyên Korat tiến chiếm. Và từ thế kỷ thứ VII trở đi người ta không còn nghe nhắc đến vương quốc Phù Nam nữa. 



Cư Dân Và Nếp Sống Của Người Phù Nam: Ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất vương quốc nầy đã có thư viện với nhiều sách vở được viết bằng chữ Phạn. Ngôn ngữ và chữ viết chánh của vương quốc Phù Nam là Phạn ngữ (Sanskrit). Dù phái đoàn kinh lý không nói gì đến hệ thống hành chánh, nhưng họ mô tả hệ thống luật lệ và thuế má của Phù Nam thời bấy giờ không thua gì tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, nông nghiệp và ngoại thương của xứ nầy rất phồn thịnh. Sứ thần Trung Hoa đã tỏ ra khinh khi người Phù Nam khi họ cho rằng dân Phù Nam là một dân tộc man di, da đen, xấu xí, tóc quăn, đa số đều ở truồng và đi chân không. Sau khi sứ thần Trung Quốc than phiền với vua Phù Nam thì nhà vua liền ra lệnh cho tất cả thần dân phải quấn vải vào thân mỗi khi có sứ thần nước khác đến. Các nhà cổ sử cho rằng có lẽ đây là tiền thân của chiếc xà rông mà các dân tộc Thái Lan, Mã Lai, Cao Miên và Lào thường mặc ngày nay. Tuy nhiên, những điều nầy ngược lại với những báo cáo của các thương nhân ngoại quốc. Họ ghi lại rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc màu mè sặc sỡ với vô số đồ trang sức làm bằng ngọc ngà châu báu. Chính Khương Thái đã ghi lại như sau: “Vị vua đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở Ấn Độ hay là một Tăng lữ Bà La Môn, tên là Hỗn Điền (Kaundinya). Cũng theo Khương Thái thì vương quốc Phù Nam có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở. Người Phù Nam có nước da màu đen, tóc quăn, xấu xí và sống khỏa thân. Nếp sống của họ rất đơn giản nhưng trong xã hội của họ không có trộm cắp. Đa số làm nghề nông theo lối cổ xưa. Họ rất khéo chạm trổ trên đá và trên gỗ. Trong cung đình, đa số chén dĩa đều làm bằng vàng, bạc, trân châu. Trong khi đó đồ dùng của thường dân thì đa phần được làm bằng đất nung. Tại kinh đô, có văn khố và thư viện lớn với rất nhiều sách vở bằng chữ Phạn. Họ dùng chữ viết gần giống như loại chữ viết của các dân tộc ở vùng Trung Á, có nguồn gốc từ chữ Phạn của Ấn Độ.” Ngay từ những năm đầu Tây lịch, người Phù Nam đã biết dùng chữ viết trong công việc hành chánh và thương mãi rồi. Họ chiêm ngưỡng và sùng bái các tượng Thần làm bằng đồng, chạm hình người 2 mặt 4 tay, hoặc 4 mặt 8 tay. Về nghi thức ma chay, gia đình nào có người chết thì những người đàn ông trong gia đình đều cạo hết râu tóc. Thường thì họ thủy táng(46) người chết, hoặc hỏa táng(47). Một số cư dân khác tại các vùng ngập nước thì theo phương cách ‘điểu táng’(48). Ông Khương Thái(49) đã ghi nhận là cư dân trong vùng không sử dụng nước giếng, mà họ thường đào những cái ao lớn cho cả xóm xài chung. Tục lệ đào những cái ao lớn cho cả sóc ngày nay vẫn còn tại một số địa phương như Trà Vinh, Sóc Trăng hay Tri Tôn (Châu Đốc). Theo truyền thuyết thì chính Khương Thái là người đã thuyết phục nhà vua Phạm Tần (Fan-Tsan) ra sắc luật bắt buộc mọi người phải mặc quần áo. Từ đó dân chúng lấy tấm vải quấn tròn quanh người, giống như họ quấn xà rông (sarong) ngày nay. Theo thư tịch cổ đời nhà Lương, người Phù Nam rất thích dùng voi trong mọi công tác vận chuyển, có lẽ thời bấy giờ vùng nầy rất nhiều voi, nên chẳng những nhà vua và triều thần dùng voi, mà hầu như cung nữ và những thương gia tại kinh đô đều sử dụng voi làm phương tiện đi lại. Hầu hết những dữ kiện liên quan đến vương quốc và cư dân cổ Phù Nam đều được dựa theo cổ sử Trung Hoa và những di vật khai quật từ các nhà khảo cổ học cho thấy dân Phù Nam thờ thần 2 tay hay thần bốn tay (theo Ấn giáo), nhưng cũng thờ Phật. Họ đã có tổ chức hành chánh, quân sự và kinh tế rất vững vàng. Những dữ kiện nầy phản ảnh một thực tế lịch sử thực tế về nguồn gốc của người Khmer. Dầu theo cổ sử thì vương quốc Chân Lạp chỉ mới được thành lập vào thế kỷ thứ VII sau Tây lịch, nhưng người Cao Miên ngày nay luôn xem Hỗn Điền là vị Bành Tổ của họ, vì họ cho rằng chính Hỗn Điền là người đã sáng lập ra đất nước của họ và mang đến cho họ văn hóa Ấn Độ mà họ luôn hãnh diện. Chính vua Hỗn Điền là người đã mang lại cho họ một nền văn hóa với đỉnh cao Angkor Wat và Angkor Thom. Chính nhờ vị vua nầy mà phụ nữ biết may mặc y phục một cách kín đáo, chính nhờ vị vua nầy mà dân tộc Khmer có được ngôn ngữ riêng cho chính họ, dù họ vẫn lấy chữ Phạn làm chữ viết. Theo họ thì chính hoàng đế Hỗn Điền đã du nhập vào xứ sở của họ tôn giáo, luật pháp, cũng như chế độ chánh trị từ Ấn Độ. Cũng theo Khương Thái trong chuyến đi kinh lý vương quốc Phù Nam, đã ghi lại trong sách “Phù Nam Phong Thổ” như sau: “Vị vua đầu tiên của Phù Nam, có lẽ là một người quí tộc đến từ Ấn Độ, hay là một tăng lữ Bà La Môn tên Hỗn Điền (Kaundinya).” Theo ‘Phù Nam Phong Thổ’ thì thời đó dân Phù Nam đã biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện kim của họ đã lên đến trình độ rất cao. Theo thư tịch cổ đời nhà Tề, vương quốc Phù Nam dưới thời vua Xà Da Bạt Na(25), dân chúng Phù Nam chuyên nghề thương mãi và rất giỏi nghề đi biển. Họ thường tổ chức những chiến thuyền đi đến cướp phá các vùng lân cận. Cung điện nhà vua thường rất uy nghi lộng lẫy, xây nóc bằng, bên trong được trang trí bằng nhiều ngọc ngà châu báu. Thường dân thì cư trú trong những ngôi nhà sàn lợp bằng lá tre, có rào cây bao quanh. Người Phù Nam rất giỏi về canh tác nông nghiệp. Mỗi khi có lễ hội hay những lúc rảnh rỗi họ thường tụ tập lại để coi đá gà, hoặc xem trâu, bò, heo cắn lộn giống như những bộ tộc man di khác. Đối với người Trung Hoa, họ luôn xem những dân tộc không phải là Hán tộc đều là những dân tộc man di, nên lời lẽ trong các nhựt ký hoặc cổ thư có vẻ khinh miệt. Nhưng theo lời kể hoặc nhựt ký của thương nhân các nơi khác, họ tỏ vẻ thán phục nền văn minh và sự cường thịnh của người Phù Nam. Theo họ, dân tộc Phù Nam phải là một dân tộc văn minh lắm mới có thể biết cách luyện kim và kỹ thuật luyện kim của họ đã lên đến trình độ rất cao. Riêng về lãnh vực thủ công đồ trang sức và kim hoàng, người Phù Nam thời đó có khả năng chế tác ra đủ loại đồ trang sức bằng châu báu, vàng bạc hay những thứ đá quí. Vương quốc Phù Nam suy yếu kể từ sau năm 539 và bị buộc phải triều cống cho vương quốc Chân Lạp, một phiên quốc của Phù Nam trước đây. Đến năm 627, vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa tên vương quốc Phù Nam trên bản đồ Đông Nam Á. Lúc đó thần dân Phù Nam bị sáp nhập và ép buộc phải sống chung với người Chân Lạp. Những ai không chịu khuất phục phải rút sâu vào rừng núi phía đông bắc, hoặc dong buồm sang tị nạn tại các đảo Sumatra, Java, và Borneo... Theo các nhà sử học, khảo cổ học và nhân chủng học, rất có thể những hậu duệ của hoàng gia Phù Nam nầy đã dựng lên triều đại Sailendra huy hoàng trên quần đảo Nam Dương, và cũng rất có thể họ đã kết hôn với những ông hoàng bà chúa tại vùng Nam Đảo nầy, nên các giới quí tộc hiện nay tại các vùng Mã Lai, Nam Dương, Malacca... có thể đều có liên hệ huyết thống với người Phù Nam. Riêng những người Phù Nam còn ở lại vùng Nam Bộ, bị ép buộc phải cộng sinh với người Khmer, họ dần dà biến thành một dân tộc sống trong lục địa và mất dần khả năng hàng hải của cha ông ngày trước. 
(Mời Xem Tiếp Phần 3)

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Chiều Tím

Chiều tím màu mây nhuộm tím chiều
Yêu người mơ ước được người yêu
Bến xa khắc khoải thuyền xa bến
Hiu quạnh bao mùa vẫn quạnh hiu.
                             Quên Đi
***

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

Đáp Nhân - Thái Thương Ẩn Giả



Trích Đoạn Nhật Ký Rời - Trả Lời Người
PKT 11/15/2016

Trích Ðoạn Nhật Ký Rời , từ khởi đầu  một đêm  đầu tháng 7 /2016 ở Hoàng Liên Sơn nghe mưa núi rơi rồi cũng đến lúc kết thúc vào một sáng đầu tháng 11/2016, ở quán thu phong bên cầu thệ thủy tạ từ  ngắm hoa nắng vàng nổi trôi trên đầu sóng . Những gì muốn nói nhưng không thể thành lời và những gì có thể nói thành lời mà đã nói không được,  quả  tình, không muốn biết đến nữa . Chỉ dám mong thông cảm, định mệnh an bài ,mỗi thân tình có được trong suốt một đời người thương khó, cười vui khi nghĩ về nhau và đã là một kỷ niệm đẹp . Thế thôi .
  PKT 11/15/2016 

    答人                                Đáp Nhân
       太上隐者                         Thái Thương Ẩn Giả

偶 來 松 樹 下                   Ngẫu lai tùng thụ hạ
高 枕 石 頭 眠                   Cao chẩm thạch đầu miên
山 中 無 歷 日                   Sơn trung vô lịch nhật 
寒 盡 不 知 年.                  Hàn tận bất tri niên

Ngẫu nhiên đến gốc cây tùng  / thảnh thơi gối đầu lên một tảng đá cao nằm ngủ  / trong núi không có lịch ghi ngày tháng / mùa lạnh qua rồi ,không biết bây giờ là năm nào đây  (PKT - Mây Tần)

Somehow I ended up beneath pines  / sleeping in comfort on boulder / there aren't any calendar in the mountains / winter ends but who counts the years  ( In Reply - Red Pine  - Poems Of The Masters )

             Trả Lời Người
                          PKT - Mây Tần

     Thảnh thơi nằm dưới bóng tùng ,
   Gối đầu lên đá ngủ cùng mây bay .
      Núi hoang đâu có tháng ngày ,
Tàn đông đánh giấc xuân dài an nhiên . 
                            Tri Khac Pham

Các Bài Dịch Khác

             Trả Lời  Người 


         Tình cờ dừng lại cội  tùng 
  Thảnh thơi  gối đá ung dung ngủ vùi 
        Hoang dã không có lịch rơi 
Đông tàn chẳng biết khắc thời năm nao 
                                  Kim Oanh 
***
                Trả Lời Người

       Ngẫu nhiên đến dưới tàng thông
     Cao đầu gối đá giấc nồng ngủ say
      Trong non quên bẵng tháng ngày
Lạnh qua chẳng biết xuân nay năm nào.
                                     Quên Đi
***
              Đáp Lời Người Ta

       Nhàn du núp mát bóng tùng,
Tựa đầu phiến đá yên lòng ngủ ngon.
      Núi cao ngày tháng chon von,
Đông - xuân chẳng rõ lịch còn ở đâu !
                    Mai Xuân Thanh
***
       Trả Lời Người

Cội tùng đã đến ngẫu nhiên thôi
Phiến đá đầu kê tạm giấc rồi
Ngày tháng hẳn quên nơi núi ẩn
Xuân nào sẽ tới bước lên ngôi
                      Kim Phượng
***
         Đáp Lời Người 
Bổng dưng ngồi tựa gốc thông già
Mây đá gối đầu ngủ sướng a !
Say giấc đâu hay ngày,tháng mấy
Đông tàn mới biết lại năm qua !!!

                       songquang
***
             ĐÁP NHÂN
    Ngẫu nhiên đến dưới cội thông,
  Gối đầu lên đá thong dong ngủ vùi.
      Núi sâu không lịch biết ngày,
Đông tàn hết lạnh không hay Tết về !

                     Đỗ Chiêu Đức

***
               Đáp Nhân
   Ngẫu nhiên đến gốc tùng cao ngất
       Đá gối đầu thả giấc vùi say
       Núi sâu chẳng có lịch ngày
Lạnh vừa mới dứt,biết nay năm nào !

                               MaiLoc
*** 
           TRẢ LỜI NGƯỜI 
        Vui chân lạc đến cội thông
 Gối đầu phiến đá giấc nồng say sưa
        Núi sâu chẳng có lịch mùa
Không hay Tết đến khi vừa dứt đông.

                           Phương Hà
***
 

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Vương Quốc Phù Nam Phần 1


(Vương Quốc Phù Nam) 



Tổng Quan Về Sự Thành Hình Của Vùng Đông Nam Á: 

Trong suốt quá trình thành hình lục địa và biển của địa cầu thì mực nước biển toàn cầu đã nhiều lần dâng lên rồi hạ xuống với sự sai biệt lên tới 150 mét. Vùng lãnh thổ của vương quốc Phù Nam tại miền Nam Việt Nam ngày nay, tức là vùng Thủy Chân Lạp, nằm ở hạ lưu sông Mékong, có quá trình thành hình với 3 thời kỳ chính, đó là Cổ Sinh Muộn, Trung Sinh, và Tân Sinh. 



Đây là các thời kỳ Late Paleozoi, Mesozoi và Kainozoi. Vào cuối thời Tân Sinh, do hoạt động kiến tạo mới, vỏ trái đất trong khu vực nầy bị nứt nẻ nhiều chỗ đã gây ra sự sụt lún, làm chênh lệch các lớp đá. Hậu quả là hai khối được nâng lên. Riêng tại Việt Nam, có khối nâng Nam Trung Phần; ở Campuchia có khối nâng ở phía Đông; và ngay giữa hai khối nâng nầy là một khối lún sụt, gồm những vùng trũng lớn, mà sông Mékong và những phụ lưu của nó chảy ngang qua đây với vô số những bùn, đất sét, và cát... lấp đầy các vùng trũng nầy để hoàn thành lớp trầm tích Plio-Pleistoxen cách nay khoảng 700.000 năm. 

 Riêng tại vùng Biển Đông, mà các bản đồ hàng hải quốc tế gọi là South China Sea(1), cách nay khoảng trên dưới 20.000 năm thì diện tích của vùng biển nầy chỉ bằng phân nửa diện tích hiện tại. Lúc ấy vùng Đông Nam Á bây giờ nối liền với Nam Dương và Úc Châu qua vùng lục địa Sunda, và các vùng vịnh Bắc Việt và vịnh Thái Lan là những cánh đồng trũng nước. Khi các khối băng thạch ở hai cực Bắc Nam của địa cầu tan rã thì mực nước biển dâng lên thật nhanh, khiến phần lớn vùng thềm lục địa Việt Nam hiện tại bị chìm dưới mặt nước biển. 



Riêng tại vùng mà bây giờ là Nam Phần Việt Nam trở thành một vùng trũng ngập nước quanh năm tại các vùng Cần Giờ, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Cà Mau. Nếu không nhờ sự bồi đắp của dòng Mekong thì có lẽ giờ nầy các vùng nầy hãy còn chìm dưới mực nước biển. Ngay khi mực nước biển dâng cao, các bộ tộc sống rải rác trong vùng lục địa Sunda đang bị ngập nước phải chạy về các vùng cao hơn ở hướng Tây, hoặc chạy xuống các hải đảo phía Nam. 

Riêng những bộ tộc chạy về phía Tây thì co cụm lại để thành lập những vương quốc trong vùng. Theo William Meacham, khi nghiên cứu bản đồ địa hình đấy biển cho biết, lúc xưa bờ biển Đông tương đối bằng phẳng. Khoảng 18.000 năm trước diện tích biển Đông chỉ bằng phân nửa ngày nay(2). 

Khi băng đá hai cực địa cầu tan rả thì nước biển dâng lên nhanh. Vào khoảng 14.000 năm trước đây, nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển đạt đến gần mức độ hiện nay, chừng 25 mét, lúc nầy là lúc biển tiến, bờ biển đã lùi sâu vào lục địa. Rồi cách nay khoảng trên 10.000 năm, vùng đất nầy đã xảy ra các giai đoạn biển tiến và biển lùi. Cho đến khoảng năm 4000 trước tây lịch, hàng trăm ngàn dặm vuông lục địa đã bị chìm ngập dưới Biển Đông. Thế rồi từ đó đến nay với nhiều đợt biển tiến, làm cô lập các giồng đất cao(3). Hiện vẫn còn các di tích tại các giồng trong huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, nhất là Giồng Tân Hiệp. Sau đó, cách nay khoảng 5.000 năm, lại xảy ra hiện tượng biển lùi, mực nước biển rút dần. Trong khoảng từ 4.000 đến 2.700 năm trở lại đây, những dao động biển khá rõ rệt, những cồn cát miền duyên hải hạ lưu sông Mékong lại hiện ra, lộ hẳn lên khỏi mặt nước biển. 



Tiếp theo đó là sự xuất hiện của các thảm thực vật, cũng như thế giới động vật đa dạng. Do tác động của sóng biển và dòng hải lưu, các đống sò điệp tụ lại tại các cồn mới nổi lên. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại vùng Cai Lậy các dĩa sò điệp, dấu vết của bờ biển xưa(4). Từ khoảng 2.700 năm trở lại đây, vùng đất miền Nam Việt Nam đi dần vào thế ổn định và định hình. Tuy nhiên, toàn vùng mà ngày nay là miền Tây vẫn còn chìm dưới mực nước biển, khoảng 0,4 mét, nên cư dân miền Đồng Nai không thể di cư xuống đây được, chính vì thế mà hồi nầy miền Tây Nam Phần vẫn chưa có người sinh sống. Chỉ đến khoảng đầu Tây lịch, khi nước đã rút xuống thì vùng nầy mới bắt đầu có cư dân. Cách nay khoảng 2.000 năm, người Malayopolynesia từ các đảo ngoài biển tràn vào tạo dựng văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam. 

Trong khi đó, bờ biển miền Trung từ Thuận Hóa vào đến Bình Thuận (Phan Thiết) đã được định hình rõ ràng và gần giống như ngày nay. Tuy nhiên, bờ biển Nam Kỳ vẫn còn đang trong thời kỳ bồi đắp. Lúc đó chưa có bờ biển chạy từ Chân Bồ(5) đến Cà Mau và từ Cà Mau đến Hà Tiên, mà gần như là một đường thẳng chạy từ Chân Bồ đến Hà Tiên, phần còn lại chỉ là một cái biển thật cạn, một vùng trũng ngập nước quanh năm. Thời đó hải cảng lớn nhất của Phù Nam là Óc Eo chỉ cách bờ biển khoảng vài ba cây số, và các núi trong dãy Thất Sơn hiện nay là những núi nằm sát bờ biển, bằng chứng là người ta đã tìm thấy rất nhiều những vỏ sò biển trong vùng chân núi Núi Sập và chân núi Thất Sơn. Tuy nhiên, đến khoảng năm 350 sau Tây lịch, nước biển lại bắt đầu dâng lên từ từ, người Phù Nam đã phải tìm cách sống chung với lũ bằng cách đào thêm kinh rạch xả nước, đồng thời cất nhà sàn tránh lũ. 

Đến năm 650, đột nhiên nước lũ dâng lên cao hơn 1 mét với tốc độ quá nhanh, khiến người Óc Eo không thể tiếp tục ở lại vùng châu thổ miền Tây được nữa, một phần đã dong buồm trở ra các hải đảo phía Nam, phần khác ở vùng tiếp giáp với miền Đông Nam Phần đã bỏ chạy lên phía Nam dãy Trường Sơn. Theo nhà địa chất học người Pháp tên H. Fontaine, do sự nóng dần của địa cầu, từ khoảng 7.000 năm trở lại đây, vùng Đông Nam Châu Á đã bị ảnh hưởng bởi quá nhiều đợt ‘Biển Tiến’ và ‘Biển Lùi’. Cuối Đại Pleistoxen đầu Holoxen có một đợt biển thoái, mực nước biển hạ thấp từ 100 đến 120 mét so với mực nước biển ngày nay, khiến cho toàn vùng Biển Đông chỉ còn là những vũng nước nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wum cách nay từ 60 đến 11 ngàn năm. Tiếp theo là trên 500 năm băng tan, từ khoảng 11.000 đến 10.250 năm trước, khiến nước biển bắt đầu dâng cao lại. Đến khoảng 4850 năm trước Tây lịch, nước biển tiếp tục dâng lên bằng với mực nước biển ngày nay. 



Sau thời kỳ nầy là bốn đợt hải xâm và hải thoái: 

Đợt ‘Hải Xâm Holoxen I, từ năm 4850 đến 1650 trước Tây lịch, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao 4 mét năm 3900 trước Tây lịch, 3 mét năm 2950 trước Tây lịch, và 2 mét vào năm 2350 trước Tây lịch’. Tiếp theo đó là đợt hải thoái Holoxen 1, trong khoảng thời gian 500 năm, từ khoảng 1650 đến 1150 năm trước Tây lịch. Mực nước biển hạ thấp nhất là 0,8 mét vào năm 1400 trước Tây lịch. Đợt hải thoái ở miền Nam bán đảo Đông Dương cách nay 3.350 năm tương đương với đợt hải thoái 2 mét ở Crane Key cách nay 3.300 năm. 

 Đợt Hải Xâm Holoxen II trong thời gian 300 năm, từ 1150 đến 850 trước Tây lịch. Đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Tây lịch. Tiếp theo đó là đợt hải thoái Holoxen 2, từ năm 850 đến năm 200 trước Tây lịch, với điểm cực tiểu xảy ra vào năm 550. Đợt Hải Xâm Holoxen III trong thời gian 150 năm, từ 200 đến 50 trước Tây lịch, mực nước cao nhất khoảng 0,4 mét vào năm 50 trước Tây lịch. Rồi đến đợt hải thoái Holoxen 3 trong thời gian 500 năm, với mực nước thấp nhất là 0,5 mét vào năm 200. Điều đáng chú ý là đợt hải thoái ở miền Nam bán đảo Đông Dương cách nay 1.750 năm tương đương với đợt hải thoái 3 mét ở Florida cách nay 2.000 năm. Đợt Hải Xâm Holoxen IV trong thời gian 800 năm, từ 350 đến 1150 sau Tây lịch, với mực nước cao trung bình khoảng 0,8 mét vào năm 650. Từ năm 1150 đến năm 1950, nước biển dao động 1 mét, được coi như là ổn định hơn các thời kỳ trước đó. 



Đại Cương Lịch Sử Của Các Vùng Đất Mà Bây Giờ Là Nam Kỳ: 






Trước khi tìm hiểu sâu hơn về vương quốc Phù Nam, tưởng cũng nên nhắc lại một điều rất quan trọng về ngọn nguồn nhân chủng của các dân tộc Phù Nam, Chân Lạp, Lâm Ấp, Nam Chiếu, Chà Và (Java) và Việt Nam. Các thư tịch cổ đời nhà Hán đã không nói gì nhiều về vương quốc Phù Nam, vì cho rằng Phù Nam nằm quá xa lãnh địa của người Hán, nên không cần phải chiếm cứ mà chỉ cần vương quốc nầy chịu đời đời thần phục là đủ. Cũng theo Hán Thư, vào khoảng những năm 144, 157, và 178 đã có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Man Di ở huyện Tượng Lâm, huyện nằm về cực Nam của một trong 5 huyện của quận Nhật Nam. 

Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa ấy đều bị dẹp yên. Nhưng theo sách Thủy Kinh Chú của người Trung Hoa thời nhà Ngụy chép rằng: “Đến những năm từ năm 190 đến năm 193, viên công tào huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên đã nổi lên đánh phá huyện đường và giết chết quan huyện lệnh mà thành lập nước Lâm Ấp. Lúc ấy huyện Tượng Lâm về phía Nam có núi Đại Lãnh, và về phía Bắc có núi Ải Vân. Như vậy có lẽ Khu Liên nổi lên từ huyện Tượng Lâm, nhưng đã mở rộng bờ cõi về phía Bắc bằng cách đánh chiếm một số đồn trú nằm về phía Nam của Giao Chỉ, nên biên giới của Lâm Ấp mới chạy lên đến các vùng phía Nam của Thanh Hóa bây giờ. Thời Đông Hán (25-220 A.D.), Dương Phù đã viết quyển sách đầu tiên đề cập đến Phù Nam là “Dị Vật Chí”. Đến thời nhà Ngô (220-280 A.D.), theo Ngô Thư thời Tam Quốc, vào tháng chạp năm 243, vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô Tôn Quyền (182-252 A.D.). 

Đến khi nhà Ngô đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô cũng đã sai người đến các nước ở phương Nam gồm Lâm Ấp và Phù Nam. Theo sách Lương Thư, Ngô Tôn Quyền sai Cu Ứng (Chou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển “Phù Nam Thổ Tục”, còn gọi là “Phù Nam Truyện”. 

Cũng theo Thủy Kinh Chú thì vào năm 280 sau Tây lịch, thái thú Giao Chỉ là Đào Hoàng đã gửi sớ về triều xin đừng rút bớt quân đồn trú tại Giao Chỉ vì sợ rằng sẽ bị người Lâm Ấp tấn công. Trong thư có nói rõ là về phía Nam Giao Chỉ có 2 nước Lâm Ấp và Phù Nam tiếp giáp với nhau. Theo sử Nam Tề, người Phù Nam thường buôn vàng bạc, tơ lụa. Con cái nhà quí tộc thường mặc xà rông bằng lụa the. Đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu. Người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình. Họ làm nhẫn và vòn đeo tay bằng vàng, làm chén bát bằng ngọc. Họ đốn cây lấy gỗ làm nhà và rào vườn tược xung quanh nhà. Nhà vua ở trong nhà lầu có tầng gác. Dọc bờ biển người ta trồng cây thốt nốt, lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài từ 8 đến 9 trượng(6), rộng 6 đến 7 phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi. 

Đàn bà có thể cỡi voi. Họ thích chơi đá gà. Họ không có nhà tù. Khi có kiện cáo hay tranh chấp, họ ném nhẫn vàng hoặc trứng vào nước sôi. Ai dúng tay vào nước sôi đó lấy ra mà không bị phỏng thì người ấy được thắng kiện. Theo Lương sử, nước Phù Nam ở về phía nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía tây biển. Nước nầy cách Nhật Nam chừng 7 ngàn lý và cách Lâm Ấp chừng 3 ngàn lý về phía tây nam. Đô thành của Phù Nam cách biển 500 lý(6). Một con sông lớn từ tây bắc chảy về phía đông và đổ ra biển. Khí hậu đại để giống như xứ Lâm Ấp. 

Họ không đào giếng, nhưng mấy chục gia đình thường chung nhau xây một cái hồ nước để dùng chung. Họ có tập tục sùng bái các vị thần trên trời. Họ đúc tượng thần để thờ, tượng có một mặt bốn tay hay tám tay, mỗi tay cầm một vật gì đó, hoặc một đứa trẻ, hoặc một con chim, hay một con thú nào đó, hoặc hình mặt trời hay mặt trăng. 

Nhà vua thường ngự giá trên mình voi, đình thần cũng vậy. Khi vua ngồi thì đầu gối chân phải gấp thẳng đứng, đầu gối chân trái gấp bằng sát đất, tư thế nầy thường thấy nơi các tượng thờ của Ấn Độ giáo. Trước mặt vua người ta thường trải một tấm vải và đặt trên đó những lọ bằng vàng và những lư hương. Khi nhà có tang, người ta có tục cạo râu và cạo đầu. Người Phù Nam có bốn cách mai táng: bỏ xác xuống biển hay dòng sông, hỏa táng, địa táng, hoặc bỏ xác ngoài đồng cho chim quạ mổ xẻ. Theo Tấn Thư, đất Phù Nam rộng 3 ngàn lý, có những thành phố xây tường, có lâu đài và nhà ở. 

Đàn ông Phù Nam xấu và đen, quấn tóc, ở truồng và đi chân không. Tánh tình họ rất đơn giản và không hề trộm cắp. Họ thích trang trí bằng điêu khắc, chạm trổ, nộp thuế bằng vàng, bạc, châu báu, hương liệu. Họ có sách vở, thư viện và nhiều vật khác. 

Chữ viết của họ giống thứ chữ Hồ. Ma chay cưới hỏi đại để giống như Lâm Ấp. Theo các nhà sử học Tây phương thì có lẽ thuộc quốc của vương quốc Phù Nam vương ra đến tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam ngày nay. Theo “Journal Asiatique” vào tháng giêng năm 1927, L. Finot đã khẳng định rằng bia Võ Canh tại tỉnh Khánh Hòa cho thấy vùng nầy đã từng là một thuộc quốc của Phù Nam vào thế kỷ thứ III. Như vậy chúng ta có thể đoán được là vào thế kỷ thứ III, lãnh thổ phía Bắc của vương quốc Phù Nam với Chiêm Thành là núi Đại Lãnh, và lãnh địa của Chiêm Thành có thể từ phía Nam Thanh Hóa đến tận miền Đại Lãnh. 



Còn theo các thự tịch cổ thì các dân tộc vừa kể trên đều có chung gốc tích Nam Á. Chính vì vậy mà trong quá khứ họ đã nhiều lần chung lưng đấu cật, cùng đứng lên đánh đuổi quân Hán xâm lược và hiếu chiến. Thuở đó cộng đồng cư dân Nam Á (Protoviets) trong vùng mà bây giờ là bán đảo Đông Dương gồm các dân tộc Việt ở Giao Châu, Lâm Ấp ở Trung Việt, Phù Nam ở Nam Việt, và Kambuja ở Nam Lào và Cao Miên ngày nay luôn luôn liên kết để chống lại ách thống trị của Hán tộc. Bằng chứng là theo Biên Niên Sử Việt Nam, năm 722, Mai Thúc Loan, một nông dân nghèo ở Hà Tỉnh, thuộc Châu Hoan đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Đường, đã được sự ủng hộ rộng rãi của các nước đồng chủng như Lâm Ấp và Chân Lạp. Các nước nầy đã tiếp trợ hơn 20 vạn quân hợp cùng với 20 vạn nghĩa quân của Mai Thúc Loan ào ạt tấn công 20 vạn quân thiện chiến nhà Đường, khiến cho quan An Nam Đô hộ Phủ là Quang Sở Khách phải cùng tàn quân tháo chạy về nước. Mai Thúc Loan lên ngôi lấy hiệu là Mai Hắc Đế. Lúc ấy mối giao hảo giữa Đại Việt, Lâm Ấp và Chân Lạp hết sức tốt đẹp. 

Khi người Pháp đánh chiếm Chân Lạp vào năm 1864 thì vương quốc nầy không có một tài liệu lịch sử nào được ghi chép lại từ trước, nên họ chỉ biết có những bản văn được ghi lại trên lá thốt nốt chép lại những chuyện xảy ra cách đó khoảng 150 năm mà thôi, vì lá thốt nốt không tồn tại trên 150 năm. Đến khi các nhà khảo cổ học khám phá ra vùng Đế Thiên Đế Thích (Angkor) thì họ mới biết được những diễn tiến trong vương quốc Chân Lạp qua nhiều thế kỷ về trước qua các chữ Phạn khắc trên bia đá. Tuy nhiên, khi soạn bộ sử ký Chân Lạp, người Pháp lại lầm tưởng vương quốc Phù Nam và vương quốc Chân Lạp là một. Kỳ thật, hai vương quốc nầy có hai nguồn gốc hoàn toàn khác nhau. Có lẽ lúc đó người Pháp không có đủ tư liệu lịch sử nói về vương quốc Phù Nam, chính vì thế mà trong bộ L’histoire du Cambodge (Lịch Sử Cao Miên), người Pháp ghi từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ VI là vương triều Phù Nam. Đến thế kỷ thứ 6 mới thấy xuất hiện vị quốc vương đầu tiên của Chân Lạp. 

(Bản đồ Vương Quốc Phù Nam)


Cổ Sử Vùng Nam Phần Thời Kỳ Tiền Phù Nam: Khi nói về Nam Phần Việt Nam, người ta thường liên tưởng đến một vùng đất mới với chiều dài lịch sử chỉ trên dưới 300 nay mà thôi. Tuy nhiên, theo những kết quả khảo cổ được khai quật, thì vùng đất nầy đã có lịch sử tương đối khá lâu đời, nghĩa là ngay từ trước khi vương quốc Phù Nam được thành lập cách nay khoảng 2.000 năm. Ngay từ 4 hoặc 5 ngàn năm về trước, thì vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Miền Đông Nam Phần, đã có cư dân cổ cư ngụ và tạo nên nền “Văn Hóa Đồng Nai”. Vào năm 1976, qua cuộc khai quật ở Cầu Sắt, thuộc Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, kết quả cho thấy nền văn hóa “Đá Mới” của vùng Đồng Nai đã tồn tại tại vùng nầy cách nay khoảng trên dưới 5 ngàn năm. Vào thời Pháp Thuộc (1944), các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dụng cụ bằng đồng có niên đại cách đây từ 3 đến 4 ngàn năm tại những khu di chỉ “Mộ Cổ Hàng Gòn”(7), khu Núi Gốm(8), và khu Dốc Chùa(9). 



Điều nầy chứng tỏ nền văn hóa đồ đồng đã xuất hiện tại đây vào khoảng trên dưới 1.000 năm sau nền văn hóa đồ đá mới. Đi xa về miền Tây, nơi mà dưới thời vương quốc Phù Nam gần như phân nửa diện tích hãy còn chìm ngập trong sình lầy, nhưng người ta vẫn tìm thấy được rất nhiều những di chỉ thuộc văn hóa Tiền Óc Eo và Óc Eo, có niên đại từ 1.500 năm đến 2.500 năm trước. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VII sau Tây lịch, nền văn hóa Óc Eo đã phát triển rực rỡ tại vùng An Giang bây giờ. Các nhà khảo cổ học lấy tên theo địa danh Óc Eo tại chân núi Ba Thê, thuộc tỉnh An Giang. Căn cứ theo những không ảnh chụp được từ thập niên 1930s, với hệ thống kinh đào cổ, có hình nan hoa, tỏa khắp miền Tây, mà tụ điểm của nó nằm tại vùng Đá Nổi(10), có những con kinh cổ dài đến 80 cây số, các nhà khảo cổ học cho rằng tại vùng nầy đã từng có những sinh hoạt nông nghiệp và giao thông bằng đường thủy rất phát triển. Mặc dầu công cuộc khai quật khảo cổ vẫn còn đang tiếp diễn, và các di chỉ đã được khai quật vẫn còn đang trong vòng nghiên cứu, nhưng kết quả cho thấy rõ rệt hình ảnh một dân tộc có một nền văn hóa thật rực rỡ đang từ từ được phơi bày ra ánh sáng: dân tộc Phù Nam với nền văn hóa Óc Eo. 



Cổ Sử Về Sự Thành Lập Và Lãnh Thổ Của Vương Quốc Phù Nam: 

Riêng về phần lịch sử vùng Nam Phần thời kỳ vương quốc Phù Nam cho tới bây giờ hãy còn rất mù mờ không những đối với thế giới, mà còn ngay cả với các lân quốc trong vùng Đông Nam Á nữa. Hiện tại trong các thư tịch cổ của các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có lịch sử lâu đời như Ấn Độ và Trung Hoa, lại không có nhiều ghi chép về vương quốc Phù Nam một cách rõ rệt, vì vương quốc này đã bị triệt tiêu cách nay gần 15 thế kỷ rồi còn gì. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ thứ 19, lịch sử thế giới cận đại đã có những ghi chép lại về một vương quốc mang tên Phù Nam. Phù Nam là tên của một vương quốc cổ đầu tiên trong lịch sử Đông Nam Á. 

Theo các thư tịch cổ được viết bởi các quan hoặc các sứ giả Trung Hoa, hoặc nhựt ký của các thương thuyền Âu châu thời cổ, cũng như những di tích khai quật được thì vương quốc nầy trải dài trên một vùng đất rộng lớn, chạy dài từ Trung Lào qua Nam Thái Lan đến bán đảo Malacca về phía Tây; và về phía Đông chạy dọc theo bờ biển từ phía Nam Champa đến tận vùng Hà Tiên. Nghĩa là vùng đất trù phú miền Nam Việt Nam ngày nay, khu vực Đồng Nai đến Hà Tiên đã từng là lãnh địa của vương quốc nầy. 

 Theo các thư tịch cổ của Trung Hoa thì vương quốc Phù Nam hay còn gọi là ‘Diệu Nghiêm Quốc’ xuất hiện khoảng đầu thiên niên kỷ Tây lịch và tồn tại khoảng trên dưới bảy thế kỷ. Các nhà khảo cổ đã và đang tiếp tục khai quật các di chỉ rải rác khắp vùng Nam Kỳ từ di chỉ Gò Chùa, Gò Tháp, Gò Rộc Chanh, Gò Sao, Gò Cây Thị, và Cạnh Đền, vân vân. Tuy công việc chưa hoàn tất, nhưng qua những kết quả gặt hái được từ những mẫu đất nung, những mảnh gốm sứ, và rất nhiều di vật khác có thể giúp chúng ta có những nhận định tương đối ít mù mờ hơn về hình ảnh của một vương quốc mang tên Phù Nam xưa. Hơn thế nữa, những kết quả gặt hái được còn giúp cho chúng ta thấy được những lấp lánh sắc màu của nền văn hóa Óc Eo một thời rực rỡ trong suốt từ đầu thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ sáu. Sau một số khai quật về khảo cổ học tại vùng Óc Eo, các nhà khảo cổ đều đồng ý rằng ngay từ những năm đầu thiên niên kỷ thứ nhất, một vương quốc rộng lớn được thành hình tại vùng Đông Nam châu Á, phía Đông giáp với biển Đông, chạy dài từ Vũng Tàu đến Hà Tiên. 

Thời đó các vùng ven biển Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu Cà Mau và Rạch Giá đều còn là những vùng trũng thấp nằm dưới mặt biển, hoặc giả khi hải triều xuống thì một dãy đất ven biển xuất hiện mà khi hải triều lên thì dãy đất ấy lập tức bị chìm vào biển nước. 

Phía Bắc lên tận miền Trung Lào và Bắc Thái bây giờ. Phía Tây trải dài đến các miền trung tâm Thái Lan tại vùng thung lũng sông Mê Nam, và phía Nam đến tận vùng Malacca của Mã Lai. Nhờ những khai quật khảo cổ học trong giữa thế kỷ thứ XX, mà các nhà khảo cổ học và sử học đã xác định được vị trí cũng như lãnh thổ của một vương quốc mang tên Phù Nam và một nền văn hóa khá mạnh mang tên văn hóa Óc Eo. Thời đó vương quốc Phù Nam có một một thương cảng rất lớn nhất, nằm trong vùng đất mà bây giờ thuộc vùng Núi Sập(11), thuộc tỉnh An Giang. Không ai biết ngày đó thương cảng ấy có tên gì, chỉ biết nó có nhiều di chỉ thuộc văn minh Óc Eo, nên người ta gọi nó là cảng Óc Eo, thế thôi. 

Qua những di chỉ khai quật được người ta thấy thương cảng nầy đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt kinh tế của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, mãi đến hôm nay chúng ta có quá ít sử liệu nói về vương quốc Phù Nam. Hiện tại chỉ còn một số rất ít ghi chép hoặc ký sự viết về vương quốc Phù Nam của các học giả Trung Hoa. 

Danh hiệu của vương quốc Phù Nam hãy còn rất mù mờ với nhiều nhà sử học trên thế giới. Thậm chí nhiều nhà cổ sử vẫn tưởng vương quốc Chân Lạp chính là hậu thân của vương quốc Phù Nam, hay dân tộc Phù Nam và Chân Lạp chỉ là một chứ không sai khác. 

 Mãi đến ngày nay, đa số những dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất tại vùng Đông Nam Châu Á đều lấy từ sử liệu Trung Hoa hoặc từ kết quả tìm được từ các di vật khai quật được quanh vùng Óc Eo. Phù Nam(12) là tên phiên âm theo tiếng Hán của từ “Phnom”, có nghĩa là núi hoặc đồi. Các vua Phù Nam đều lấy vương hiệu là “Sailaraja” hoặc “Kurung Bonam”, có nghĩa là “Vua Núi”. 

Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Trung Hoa cổ gọi vương quốc nầy là Diệu Nghiêm. Đây là vương quốc được thành lập trước nhất tại vùng Đông Nam châu Á. Nó tồn tại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu sau Tây lịch. Theo những khai quật khảo cổ mới đây trong vùng cho thấy đã có nhiều xã hội hay nhiều cộng đồng cư dân cổ sinh sống trên vùng đất nầy trước khi người Phù Nam thành lập vương quốc của họ. 

Theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Bắc Kinh thì vào khoảng giữa thế kỷ thứ III, sứ giả Trung Hoa có đến đây và có ghi chép lại một vài điều về địa lý và phong tục tập quán của vương quốc nầy, nhưng không được chi tiết. Chỉ biết dân Phù Nam thời đó thuộc văn hóa Ấn Độ với một nền văn minh rất cao. Về ngoại thương thì Phù Nam đã có sự giao dịch với Trung Hoa, Ấn Độ, và ngay cả với các xứ Ba Tư, Hy Lạp và La Mã nữa(13). 



Theo tài liệu nầy thì tại vùng Óc Eo, dưới chân núi Ba Thê, vào những thế kỷ thứ II và thứ III có nhiều ngôi đền bằng gạch bên cạnh những khu nhà sàn liền nhau trên một khu đất rộng lớn. Điều nầy trùng hợp với những khai quật khảo cổ tại đây vào những thập niên 1930s và 1940s. Căn cứ vào những bông tai, nhẫn, cà rá, và chuỗi hột đào được, người ta đoán những khu nhà sàn nầy có lẽ là những khu buôn bán sầm uất của người Phù Nam. 

Điều nầy cũng trùng hợp với những ghi chép từ phía Ấn Độ là vào những thế kỷ từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ VII, rất nhiều thương gia Ấn Độ đến khu mà bây giờ chúng ta gọi là Đồng Bằng Sông Cửu Long để mua bán. Họ bán vải và mua về gia vị và những thổ sản. Không thấy bất cứ tài liệu nào ghi chép lại về việc sản xuất lúa gạo của vùng nầy vào thời vương quốc Phù Nam, nhưng theo các nhà khảo cổ Louis Malleret và B. Groslier thì thuở ấy vùng phía Bắc và Đông Bắc của cảng Óc Eo đã có những cánh đồng, nhất là khu vực từ chân núi Ba Thê đến bờ sông Hậu Giang, và dân chúng ở đây đã biết cách đào kinh dẫn thủy nhập điền, qua không ảnh chụp được người ta tìm thấy cả một hệ thống kinh đào thẳng tắp theo hướng Đông Bắc-Tây Nam chạy từ Óc Eo đến tận vùng Banam(14), nghĩa là đem nước trũng phèn từ những cánh đồng ngập mặn chảy thẳng ra vịnh Thái Lan. 

Có lẽ ngày đó dân Phù Nam chỉ làm lúa sạ, nghĩa là chỉ dọn đất rồi sạ lúa, cây lúa lớn lên theo con nước lũ, rồi đến mùa nước rút là họ gặt hái. Có người cho rằng việc dân Phù Nam biết làm ruộng lúa sạ tại vùng nầy hồi thế kỷ thứ nhất là vô lý, nhưng họ quên rằng các dân tộc tại vùng Đông Á, từ Trung Hoa, xuống Việt Nam, Chăm Pa, kể cả Phù Nam, vân vân, đã biết làm ruộng lúa nước từ lâu lắm rồi. Thật ra thì tất cả những lý luận trên đều là những suy đoán, dựa theo kết quả của những khai quật khảo cổ mà thôi, chứ không có lấy cái gì làm bằng chứng chính xác. 

Các nhà khảo cổ học cũng đoán rằng ngày đó nhiều thương thuyền đã theo các kinh đào đi tận vào vùng Đồng Tháp để mua bán trao đổi với dân bản địa, hồi nầy vẫn còn là một vùng duyên hải ngập mặn, vì người ta khai quật được trong trung tâm vùng Đồng Tháp rất nhiều xác tàu và cột buồm xưa. Ngày nay các sử gia trên thế giới đều nhìn nhận rằng vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên trong vùng Đông Nam Á, một vương quốc cổ đại ở hạ lưu sông Cửu Long, được khai sáng từ đầu Tây lịch. Và theo cổ thư Trung Hoa cũng như những di tích còn ghi lại trên những bia đá tìm thấy tại miền Nam Việt Nam, không có một dấu vết nào chứng minh sự có mặt cũng như sự liên hệ về vương triều chính thống giữa Phù Nam và Chân Lạp (Kambuja), mà mãi đến năm 598 sau Tây lịch mới thấy xuất hiện vị quốc vương đầu tiên của Kambuja là Bhavavarman I dựng lên vương quốc Chân Lạp, đóng đô ở Kompong Thom, cách Nam Vang khoảng 200 cây số về hướng tây bắc. Mãi cho đến ngày nay người ta vẫn chưa biết rõ vì lý do gì mà vương quốc Phù Nam sụp đổ. Có thuyết cho rằng vương quốc Phù Nam bị nước chư hầu là Kambuja tiêu diệt, nhưng lại có thuyết cho rằng vương quốc Phù Nam bị một trận đại hồng thủy khiến đa số đất đai của họ tại vùng Óc Eo bị chìm trong biển nước và cư dân của họ phải sơ tán đến các vùng cao. 



Vương Quốc Phù Nam Theo Cổ Thư Và Nhật Ký Của Các Nhà Hành Hương: 

Theo Nghĩa Tịnh, một nhà hành hương Trung Quốc vào thế kỷ thứ VII, Phù Nam là một vương quốc hùng cường nằm về phía Nam của vương quốc Lâm Ấp (Champa), nhưng đã bị Chân Lạp tiêu diệt vào thế kỷ thứ VI. Nghĩa Tịnh chỉ ghi lại vỏn vẹn có như vậy về vương quốc Phù Nam. Trong khi đó, theo nhật ký của các nhà hành hương Tây phương cũng như những thương nhân thời cổ, vương quốc và dân tộc Phù Nam có một nền văn minh rực rỡ đáng phục. 

Theo họ, giới quí tộc Phù Nam ăn mặc lòe loẹt và ở trong những cung điện nguy nga bật nhất của nước Phù Nam, với đầy đủ phương tiện vật chất và ngọc ngà châu báu. Nhưng chính vì thiếu sử liệu ngay tại các vương quốc đã bị suy tàn như Phù Nam và Chiêm Thành (Lâm Ấp), nên nhật ký của các nhà hành hương cũng như các cổ thư Trung Hoa có liên hệ đến vùng Đông Nam Á thật là quí báu vô cùng, vì nếu không có những tài liệu nầy, chúng ta không tài nào phác họa lại được hình ảnh của những vương quốc đã bị suy tàn từ nhiều thế kỷ trước như Phù Nam và Chiêm Thành. 

Trong số những cổ thư nầy phải kể đến Thủy Kinh Chú, quyển sách ghi lại những con sông xưa ở Trung Hoa và các vùng Nam Trung Hoa cũng như những biến cố xảy ra vào lúc bộ sách được sáng tác. Cuốn Niên Giám Đời Nhà Tiền Hán (Ts’ien Han Shu) ghi lại các biến cố về những cuộc bang giao với quần đảo Nam Dương từ năm 206 trước Tây lịch đến năm 24 sau Tây lịch. Bên cạnh đó, những cổ thư khác của Trung Hoa ghi lại lịch sử Trung Hoa qua các thời đại từ đời nhà Ngô, qua Hậu Hán, Nam Tề, Lương, nhà Tùy, rồi đến đời nhà Đường, khoảng từ năm 222 đến 916, đều có những ghi chép về vương quốc Phù Nam. Dựa theo những sự kiện lịch sử ngoại giao của Trung Hoa, chúng ta có thể khẳng quyết rằng vương quốc Phù Nam đã được khai sanh trước vương quốc Chân Lạp, vì vào thế kỷ thứ 3 là lúc thịnh thời của vương quốc Phù Nam thì Chân Lạp chỉ là một chư hầu phụ thuộc vương quốc Phù Nam có tên là Kambuj. Từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, vương quốc Phù Nam là một trong những vương quốc hùng mạnh nhất trong vùng Đông Nam Châu Á, nằm về phía Nam nước Lâm Ấp (Champa). 



Hán sử có ghi chép nhiều về tình trạng bang giao giữa Trung Quốc với một vương quốc phía Nam mang tên Phù Nam. Theo truyền thuyết, Phù Nam là một vương quốc được thành lập trước vương quốc Cao Miên khoảng 5 hay 6 thế kỷ. Trước khi Phù Nam được thành lập thì trên những vùng đất mà bây giờ là Cao Miên và vùng Nam Kỳ bây giờ đã từng có nhiều sắc dân có nguồn gốc từ Môn Khmer sinh sống. Cổ sử Trung Hoa gọi họ là tộc Tây Khương (Khel). Họ có một nền văn hóa khá cao thời tiền sử. Trong khi Hán tộc còn là một bộ tộc du mục thì họ đã biết canh tác, dù hãy còn là du canh, họ biết canh tác lúa nước, biết sản xuất dụng cụ đồ đồng. Họ chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Tuy nhiên, trước áp lực lấn chiếm một cách thô bạo của những người du mục thuộc Hán tộc, những người thuộc chi Môn-Khmer phải thiên cư xuống phương Nam, nhất là sau năm 314 sau Tây lịch khi quân đội nhà Tần tiêu diệt nước Thục, thì đa phần cư dân bản địa phải rời bỏ địa bàn sinh sống để thiên di về miền Trung Lào, đánh đuổi những người đồng chủng đã thiên di xuống đây trước họ để thành lập nước Chân Lạp ở vùng Trung Lào. Đây chính là phiên quốc Kambuja đã từng thần phục vương quốc Phù Nam trong nhiều thế kỷ. 



Lãnh Thổ Của Vương Quốc Phù Nam: 

 Lãnh thổ của vương quốc Phù Nam có nhiều sông rạch nên người Trung Hoa có thể chạy buồm đi xuyên qua đất Phù Nam, trên đường đi đến bán đảo Mã Lai. Vào hậu bán thế kỷ thứ XX khi kỹ thuật không ảnh đã được áp dụng trong nghiên cứu lịch sử và địa chất, người ta tiến hành khai quật khu vực Óc Eo, nay thuộc quận Ba Thê (Núi Sập), thuộc tỉnh Long Xuyên. Các nhà nghiên cứu cổ sử Hervley de Saint Denys (1883), De Rosny (1886), và G. Schlegel (1896) đã nói về một vương quốc cổ mang tên Phù Nam, nhưng vào thời đó ngành hàng hải chưa phát triển nên người ta không định vị được một cách chính xác vị trí của vương quốc Phù Nam. 

Trong khi đó, nhà khảo cổ học người Pháp tên Giteau, tác giả quyển “Lịch Sử Cao Miên” (Histoire du Cambodge), cho rằng vào hậu bán thế kỷ thứ II, một biến cố chánh trị lớn đã xảy ra tại Ấn Độ: dòng họ Kushana sụp đổ, dòng họ Gupta hưng khởi. Sau biến cố nầy, nhiều người Ấn Độ, nhứt là những hoàng thân quốc thích thuộc dòng họ Kushana đã dong buồm đi về bán đảo Nam Đông Dương, họ định cư lại tại vùng nầy và xây dựng nên vương quốc Phù Nam. Vương quốc nầy cường thịnh trong suốt gần 6 thế kỷ, nhưng sau đó vào thế kỷ thứ 6, họ chạm trán với vương quốc Champa, và bị vương quốc Champa lấn dần về phía Nam(15). 

Những di tích nầy vẫn còn được ghi lại trong một tấm bia đá của Phù Nam tại vùng Võ Cạnh. Nội dung về nguồn gốc của vương quốc Phù nam được ghi trên bia đá tại Võ Cạnh phù hợp với các cổ thư Trung Hoa như sau: “Một vị hoàng thân Ấn Độ theo đạo Hồi, tên Kaundinya, sau khi cưới công chúa Thủy tề là Thần Rắn 7 đầu tên Soma, liền phóng ngọn giáo xuống đất chọn địa điểm dựng nước Phù Nam.” Như vậy, qua những chứng cứ khảo cổ, lãnh thổ của vương quốc Phù Nam chạy dài từ Mã Lai, Thái Lan, Nam Miến Điện, Cao Miên, Nam Lào và toàn thể vùng đất mà bây giờ là Nam Phần Việt Nam(16). Đây là vùng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, điều trớ trêu là không có một tài liệu nào của Ấn Độ đề cập đến vùng đất phía đông của Ấn Độ nầy. Mà ngược lại, tất cả những ghi chép còn sót lại về vùng đất nầy đều nằm trong những thư tịch cổ của Trung Hoa. 
(Mời Xem Tiếp Phần 2 )
***
Để tiện theo dõi "Đất Phương Nam 1", kính mời Quí Độc Giả mở Link bên dưới:

***