Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Buồn Vào Thu

Bài Thơ Xướng :

         Buồn Vào Thu

Nhìn rặng liễu xanh chợt úa màu ,
Trời buồn le-lói ánh trăng sao .
Đón Thu mới đến , rừng vàng lá ,
Tiễn Hạ vừa đi , núi bạc đầu .
Lặng ngắn hoa tàn trong nắng sớm ,
Thầm nghe dế khóc giữa đêm thâu .
Tình quê lai-láng hồn thi khách ,
Hạ bút đề thơ giải mối sầu .
                     Los Gatos Thu 2012
                            Quang Tuấn
 
Các Bài Thơ Hoạ:

               VÀO THU

Lác đác rừng phong lá đổi màu ,
Đêm dài lấp lánh những vì sao .
Ngập ngừng Thu đến còn e lệ ,
Lặng lẽ Hè đi chẳng ngoảnh đầu .
Lá úa xạc xào trong gió sớm ,
Dế mèn ri rỉ suốt canh thâu .
Lòng buồn trằn trọc quê hương nhớ ,
Chẳng tiếng cuốc kêu dạ đã sầu .
                                  Mailoc
***
           Buồn Thu

Lấp lánh nền trời những ánh sao
Len lén Hạ đi còn dấu mặt
Thập thò Thu đến đã nghiêng đầu
Heo may nhẹ thổi màn sương sớm
Dế nỉ non rền suốt mấy thâu
Khiến dạ nôn nao thân lữ khách 
Quốc kêu nào thấy lại đeo sầu !!!
                              Song Quang       
***
          Xin Được Chia Sẻ
Trần gian nếu mãi giữ nguyên màu
Thế sự bây giờ biết nói sao?
Không có anh tôi không lớn nhỏ
Chẳng thành sông núi chẳng đuôi đầu
Bởi thân tạm bợ vô thường  biến
Nên bệnh trầm kha héo hắt thâu
Thu mãn đông về gây khốn khổ
Xin cùng chia sẻ nỗi ưu sầu!
                       Cao Linh Tử
                         20/9/2015
***
             Dáng Thu Về

Thu sang nắng hạ vội thay màu
Man mác vương buồn bởi tại sao
Có phải heo may đùa ngọn cỏ
Hay do Chức nữ khóc giang đầu
Kìa mây đưa xám từ muôn nẻo
Nên sắc u hoài mấy tháng thâu
Khiến kẻ tao nhân càng lẩn thẩn
Gieo vần xướng hoạ để tiêu sầu
                                 Quên Đi
***
            Cảm Hoài 

Lá xanh rồi cũng phải phai màu
Diễn biến tuần hoàn biết nói sao !
Thuở trước trẻ trung đen mượt tóc
Bây giờ già lão bạc phơ đầu
Nào khi đối ẩm nhìn trăng sáng
Nay chỉ một mình khơi bấc thâu
Chìm đắm tâm tư trong nỗi nhớ
Mưa đêm rả rích gợi thêm sầu.
                            Phương Hà
***
         Buồn Vào Thu 

Thu gây nỗi nhớ bởi thu màu 
Thu khiến cho ta yêu chứ sao 
Thu đến mang theo bao kỷ niệm 
Thu qua nhắc lại chuyện ban đầu 
Thu từ xanh lá tràn mơ mộng 
Thu tới cô thân bị thấm thâu 
Thu khép kín đời nơi đất khách 
Thu nay bó gối hát Thu Sầu(*) 
                   Thái Huy,9-20-15
(*) Nhạc Lam Phương
***

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Giai Thoại Và Tính Năng Của Rau Diếp Cá



Cây cỏ giản đơn nhưng nếu vào tay thầy thuốc giỏi thì cũng nào khác chi linh đan thần dược. Giai thoại và những bài thuốc từ diếp cá là một ví dụ, thật đáng để người đời lưu danh.

Dao sắc không gọt được chuôi

Dân gian thường bảo “Dao sắc không gọt được chuôi“. Còn trong y giới  thường nói “Y sinh nan trị tự gia bệnh“. Nhận định trong hai thành ngữ trên quả không sai, nhất là đối với trường hợp danh y Lưu Hoàn Tố.

Lưu Hoàn Tố (1120-1200), còn có tên là Lưu Hà Gian, tự là Thủ Trân, hiệu Thông Huyền xử sĩ. Ông xuất thân nghèo khổ, năm 15 tuổi mẹ bị bệnh, ba lần mời thầy chữa không khỏi và đã bị chết. Từ đó ông quyết chí học y và đã trở thành một thầy thuốc kiệt xuất, sáng lập ra “Chủ hỏa học phái” và được tôn vinh là một trong “Kim Nguyên tứ đại gia” (bốn thầy thuốc lớn thời Kim – Nguyên, Trung Quốc). Ông từng được vua ba lần triệu ra làm quan, nhưng cả ba lần ông đều từ chối. Ông được triều đình phong danh hiệu “Cao thượng tiên sinh“.

Trong nhiều thư tịch của Đông y có chép sự việc Lưu Hoàn Tố mắc bệnh thương hàn, phải nhờ Trương Nguyên Tố mới chữa khỏi được.

Sự việc cụ thể như sau:

Khi tuổi đã ngoài 60, có lần Lưu Hoàn Tố vào núi hái thuốc, gặp trời mưa to và đã bị thương hàn nặng. Ban đầu  người ông thấy rét run, đồng thời phát sốt, họng khô, miệng khát, ho rất nặng và rất nhiều đờm, dần dần thì trong đờm có lẫn cả máu… Lưu Hoàn Tố cho rằng, đã bị thương hàn nặng, biến thành phế ung (tương tự áp-xe phổi trong y học hiện đại). Ông đã kê đơn thuốc để tự chữa trị, nhưng tất cả hoàn toàn vô hiệu. Bệnh kéo dài, ngày càng trầm trọng, cứ liên tục nôn ra máu mủ, không ăn uống được…

Người nhà và môn sinh xoay quanh, mà không biết cần phải làm gì. Cuối cùng, môn sinh đã phải mời một thầy thuốc khác là Trương Nguyên Tố đến để chữa trị. Đương thời thanh vọng của Lưu Hoàn Tố cao hơn Trương Nguyên Tố rất nhiều. Khi Trương Nguyên Tố đến thăm bệnh, Lưu Hoàn Tố quay mặt vào tường, nhưng Trương Nguyên Tố vẫn bình tĩnh, chẩn mạch cẩn thận. Sau khi chẩn bệnh, Trương Nguyên Tố lấy từ túi ra một bó cỏ, đưa cho môn sinh và nói:

 – Loại thuốc này tôi đã dùng chữa cho nhiều người. Cực kỳ linh nghiệm.

Nói dứt lời, liền lập tức cáo từ ra về. Sau khi Trương Nguyên Tố đi khỏi, Lưu Hoàn Tố liền bảo lấy thuốc ra xem. Ông thấy nó có hình dạng tựa như tam bạch thảo và nói:

 – Tam bạch thảo là thuốc thanh nhiệt, lợi thủy, tiêu thũng, giải độc… Làm sao mà có thể chữa khỏi được bệnh phế ung của ta!.

Dứt lời, ông liền bỏ thuốc sang một bên. Môn sinh đã phải van nài và khuyên nhủ mãi, Lưu Hoàn Tố mới chịu uống thử.

Thuốc sắc xong, Lưu Hoàn Tố nhìn thấy nước thuốc có màu hồng tựa như hồng trà, vị hơi chát và có mùi rất giống nhục quế. Ông đưa chén thuốc lên và nói:

– Thuốc này không phải tam bạch thảo.

Dứt lời liền một hơi uống cạn chén thuốc. Sau ba ngày, bệnh của Lưu Hoàn Tố đã giảm đi nhiều. Hơi thở đã đều đặn, ho giảm nhiều và đờm đã sạch.

Lưu Hoàn Tố rất phục tài dùng thuốc của Trương Nguyên Tố, đang định cho người đi mời, thì thấy ông đã đến.

Sau khi hàn huyên, Lưu Hoàn Tố tỏ ra rất cảm phục và hỏi:

– Không biết tiên sinh đã cho tôi uống loại thuốc gì? Có phải là đặc sản của quê ngài không?

Trương Nguyên Tố lấy từ trong giỏ ra một bó thuốc còn tươi. Lập tức có thứ mùi tanh như cá tràn ngập khắp phòng. Ông nói:

 – Quê tôi gọi nó là trấp thái. Mùi nó tanh như cá, nên có tên là ngư tinh thảo. Nó sinh trưởng ở nơi ẩm thấp, bên các ao đầm. Hái về, phơi trong bóng râm (âm can), thì sẽ hết mùi tanh. Sắc lên có mùi thơm rất dễ chịu. Không biết lão tiên sinh uống có cảm thấy như vậy không?

 Lưu Hoàn Tố đáp:

 – Quả đúng như vậy.

Từ đó đi đâu Lưu Hoàn Tố cũng hết lời khen ngợi tài chữa bệnh của Trương Nguyên Tố. Tin Trương Nguyên Tố chữa khỏi bệnh thương hàn cho Lưu Hoàn Tố lan truyền khắp nơi, khiến thanh danh của ông càng ngày càng tăng.

Trương Nguyên Tố, tự là Khiết Cổ, người cùng thời với Lưu Hoàn Tố, nhưng trẻ tuổi hơn. Trương Nguyên Tố từ nhỏ thông minh. Năm 27 tuổi đã đỗ Tiến sĩ, nhưng vì phạm húy nên đã bị xóa tên. Từ đó, ông quyết chí theo học nghề y và đã trở thành một thầy thuốc nổi tiếng.

Trương Nguyên Tố là một người có tư tưởng cách tân, chữa bệnh có nhiều sáng tạo. Ông chủ trương, chữa bệnh trước hết phải biện biệt rõ tình trạng hư thực của tạng phủ, căn cứ vào khí hậu lúc đang phát bệnh và đặc điểm thể chất của bệnh nhân, mà dùng thuốc một cách linh hoạt, không nên câu nệ vào cổ phương. Ông đã sáng tạo ra rất nhiều phương thuốc rất đơn giản và rất hiệu nghiệm. Sử dụng rau diếp cá chữa khỏi bệnh cho Lưu Hoàn Tố nói ở trên là một ví dụ. Sau này, rất nhiều phương thuốc của Trương Nguyên Tố đã được Lý Thời Trân thu thập, đưa vào bộ “Bản thảo cương mục“, đánh giá rất cao.



Thần dược chữa phế ung:

Diếp cá, còn có tên là lá giấp, trấp thái. Đông y thường gọi là ngư tinh thảo.

Diếp cá là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ra từ các đốt, thân mọc đứng, cao tới 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8.

Nhìn thoáng qua, cây diếp cá có hình dạng tựa như tam bạch thảo nên Lưu Hoàn Tố đã có nhận định về tính năng của nó như trong truyện kể trên.

Trong sách thuốc Đông y hiện đại, diếp cá được xếp được xếp trong loại thuốc “Lương huyết tiêu độc” (mát máu, tiêu độc).

Theo Đông y: Ngư tinh thảo có vị cay, tính lạnh; vào các kinh Phế và Can. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi thủy tiêu thũng. Dùng chữa chứng ho do phế nhiệt, phế ung, thủy thũng, nhiệt lỵ, bạch đới, mụn nhọt…

Trong Đông y truyền thống, rau diếp cá thường được sử dụng để chữa các chứng bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi… đặc biệt là chứng bệnh mà người xưa gọi là “phế ung” (“phế ung” có những triệu chứng giống như áp-xe phổi trong y học hiện đại).

Để chữa phế ung và các chứng bệnh đường hô hấp: Thời xưa người ta thường giã lá diếp cá rồi vắt lấy nước hoặc đem diếp cá sắc với nước, cho bệnh nhân uống.

Ngoài ra người xưa còn hay sử dụng diếp cá dưới hình thức một số Món ăn – Bài thuốc như sau:

(1) Món ăn – Bài thuốc 1: Dùng diếp cá tươi 30g, cho vào nồi đất, đổ ngập nước ngâm trong 1 giờ, sau đó đun sôi 1-2 phút (chú ý không được đun lâu), bỏ bã chắt lấy nước, đập một quả trứng gà vào trộn đều; ăn từ từ từng ít một; mỗi ngày ăn 1 lần, liên tục 20-30 ngày. Có tác dụng chữa chứng ho ra máu, khạc ra đờm hôi thối ở bệnh nhân bị bệnh lao phổi.

(2) Món ăn – Bài thuốc 2: Diếp cá tươi 60g, phổi lợn 1 bộ, nấu thành món canh; ăn phổi và uống nước thuốc, cách 2-3 ngày ăn 1 lần, dùng liên tục khoảng 3-5 thang. Có tác dụng chữa chứng ho ra máu trong bệnh viêm phế quản, viêm phổi.

Những năm gần đây, kinh nghiệm sử dụng rau diếp cá để chữa các bệnh đường hô hấp của người xưa đã được chứng thực trên lâm sàng. Xin phép được giới thiệu hai kết quả nghiên cứu tương đối tiêu biểu:

(3) Thử nghiệm lâm sàng 1: Dùng diếp cá tươi 30g, sắc với nước, chia 2-3 lần uống trong ngày. Theo tạp chí “Thượng Hải Trung y dược“, thầy thuốc Chư Vân Trình đã thử nghiệm dùng đơn thuốc trên cho 23 ca bệnh phổi (bao gồm 5 ca áp-xe phổi, 2 ca viêm phổi, 2 ca giãn phế quản, 14 ca viêm phế quản cấp và bán cấp), sau 1 tuần điều trị các chứng trạng suyễn thở, ho, khạc ra đờm lẫn máu… đều cải thiện rõ rệt.

(4) Thử nghiệm lâm sàng 2: Dùng diếp cá 30g, cát cánh 15g; đầu tiên sắc riêng cát cánh, sau khi sôi giữ nhỏ lửa 10-15 phút, tiếp đó cho rau diếp cá vào đun thêm 5 phút là được; chia 3-4 lần uống trong ngày. Theo tạp chí “Trung Hoa Nội khoa“, người ta đã tiến hành thử nghiệm đơn thuốc trên đối với 120 ca viêm phổi; kết quả rất khả quan, sau 10 ngày dùng thuốc 92% số bệnh nhân đã khỏi bệnh mà không cần dùng đến một thứ thuốc nào khác.

Những tác dụng khác:

Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, rau diếp cá có một số tác dụng chủ yếu như sau:

  1. Đối với virus:Kết quả thí nghiệm ngoài cơ thể người cho thấy, diếp các có tác dụng ức chế đối với nhiều loại virus; có khả năng kìm hãm tác dụng gây bệnh của echovirus. Tinh dầu diếp cá, dùng dưới dạng thuốc tiêm, thuốc uống hay thuốc nhỏ mũi, đều có tác dụng phòng ngừa cúm ở mức độ nhất định. Nước cất diếp cá có tác dụng ức chế đối với Herpes simplex virus (HSV).
  2. Đối với vi khuẩn gây bệnh khác:Thuốc nước chế từ diếp cá tác dụng ức chế đối với nhiều loại vi khuẩn, như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn tan huyết, phế cầu khuẩn, trực khuẩn lao, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn coli, trực khuẩn lỵ…
  3. Tác dụng kháng viêm:Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, rau diếp cá có tác dụng kháng viêm đối với động vật thí nghiệm.
  4. Đối với hệ thống miễn dịch:Nước sắc diếp cá, cũng như thuốc chế từ một số hoạt chất chiết từ diếp cá có tác dụng tăng cường khả năng diệt khuẩn của bạch cầu và của đại thực bào.
  5. Một số tác dụng khác:Còn có tác dụng lợi niệu, cầm ho (trấn khái) và cầm suyễn (bình suyễn).
  6. Độc tính:Kết quả thí nghiệm cho thấy, rau diếp các có độc tính rất thấp.

Tuy nhiên, khi sử dụng cũng nên lưu ý một số cảnh báo của người xưa như sau: Diếp cá là một thứ có tính hàn (lạnh), nên nếu dùng quá nhiều sẽ hao tổn tinh tủy và dương khí, có thể sinh ra khí suyễn. Ngoài ra, người thể tạng hư hàn cần kiêng sử dụng.

Một số đơn thuốc khác có dùng diếp cá:

(1) Chữa viêm tai giữa, sưng tắc tia sữa: Dùng toàn cây diếp cá khô 20g, hồng táo (táo tàu) 10 quả, nước 600ml; sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

(2) Chữa mắt đỏ đau: Lá diếp cá giã nhỏ, ép vào hai miếng gạc sạch, đắp lên mắt khi ngủ, làm như vậy 2-3 lần là khỏi.

(3) Chữa trĩ, lòi rom: Lá diếp cá 6-12g sắc nước uống; đồng thời sắc nước lấy hơi xông rồi rửa. Nhiều người dùng thấy hiệu nghiệm.

(4) Chữa tiêu chảy do nhiễm khuẩn trong mùa hạ: Lá diếp cá tươi 60g (khô 20g), sắc với nước, thêm chút đường trắng vào uống trong ngày.

(5) Chữa viêm đường tiết niệu: Lá diếp cá tươi 30g, mã đề 15g, kim tiền thảo 15g; sắc với nước, chia thành 2-3 lần uống trong ngày.

(6) Chữa viêm tiền liệt tuyến cấp tính: Lá diếp cá tươi 60g, giã nát, đổ ngập nước vo gạo ngâm trong 1 giờ, sau đó bỏ bã, chia 2 lần uống trong ngày.

Theo thuocvuonnha.com
Lê Thị Tuyết Sưu Tầm

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Họp Mặt Cựu Giáo Sinh SPVL lớp 6 Khoá 8 lần thứ 19

Như thường lệ, sau ngày 20 tháng 11, lớp chúng tôi đều có buổi họp mặt. Năm nay, buổi gặp gỡ được tổ chức tại nhà Trần Văn Lượm huyện Chợ Mới An Giang. Do sức khoẻ chưa bình phục, tôi không thể tham dự buổi họp mặt lần thứ 19. 
Từ sáng sớm, Các Bạn ở các tỉnh đã khởi hành. Đến hơn 10 giờ, tất cả có mặt đông đủ.
Duyên đã chu đáo, lưu lại những tấm ảnh kỷ niệm này.


Vợ Chồng Lượm


Trước nhà Lượm: Vợ chồng Lượm đứng trước
Hàng phía sau: Phỉ, Sương, Thơ, Chí Thanh, Đào, Điệp, Lài, Cúc Duyên. 

Hàng Nữ trên cùng: như ảnh trên
Hàng giữa: Tài (Bến Tre), Xuân, Vinh, Khai, Anh Hồng, Xiềm, Khải
Hàng ngồi: Hưng, Huệ, vợ chồng Lượm.


 Từ trái sang phải: Khai, Khải, Tài(đứng), Điệp, Huệ, Lài.

Đứng: Thơ và Tài 
Ngồi: Chí Thanh, Sương, Đào.

 Vinh, Tài, Hồng, Xiềm, Lượm.


 Cúc, Chánh, Hưng, Tài Xế.


 Thơ, Phỉ, Chí Thanh, Sương, Đào.


 Xuân, Cúc, Chánh, Huệ, Vinh.

Đào thay mặt các bạn trao quà kỷ niệm cho vợ chồng Lượm.

Từ trái sang phải:
Đứng: Xiềm, Vinh, vợ Lượm, Khai, Huệ, Lượm, Khải, Xuân, Chánh, Hưng, Hồng, Tài.
Ngồi: Duyên, Thanh, Cúc, Lài, Đào, Điệp, Thơ, Phỉ, Sương.

Buổi Họp Lớp kết thúc vào lúc 13 giờ cùng ngày trong niềm vui và quyên luyến của mọi người.
Tất cả cùng hẹn gặp lại vào lần họp mặt năm sau 2016 tại nhà Phan Văn Huệ huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre.

Hình ảnh: Vương Kim Duyên
Lời bình: Huỳnh Hữu Đức

***

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Giang Thành Tử - Tô Đông Pha


Đây là bài hát theo điệu Giang Thành Tử của Tô Đông Pha có lời tựa "Ất Mão Chính Nguyệt Thập Nhị Nhật Dạ Ký Mộng". Lời ca thống thiết, đan xen giữa mộng và thực, thật đau thương, cho dù người vợ đã mất từ 10 năm trước.

江城子                            Giang Thành Tử
 
十年生死兩茫茫,Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
不思量,                Bất tư lượng
自難忘。                Tự nan vong
千里孤墳,            Thiên lý cô phần
無處話淒涼。        Vô xứ thoại thê lương
縱使相逢應不識,Túng sử tương phùng ưng bất thức
塵滿面、                Trần mãn diện
鬢如霜。                Mấn như sương
夜來幽夢忽還鄉,Dạ lai u mộng hốt hoàn hương
小軒窗,                Tiểu hiên song
正梳妝。                Chính sơ trang
相顧無言,            Tương cố vô ngôn
惟有淚千行。        Duy hữu lệ thiên hàng
料得年年腸斷處,Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ
明月夜、                Minh nguyệt dạ
短松崗。                Đoản tùng cương.
                 苏 轼                           Tô Thức

Dịch Nghĩa: Điệu Hát Giang Thành Tử
Ghi Lại Giấc Mộng Đêm 20 Tháng Giêng Năm Ất Mão

Đã mười năm qua, hai ngã âm dương mênh mông mờ mịt
Dù không muốn nghĩ
Nhưng lòng này chẳng thể quên được.
Nấm mồ lẻ loi từ nơi xa ngàn dặm
Thì còn nơi nào để ta nói hết nỗi thê lương
Cho dù mình có gặp lại cũng không nhận được nhau
Bụi đã phủ đầy khuôn mặt
Tóc đã nhuốm màu sương
Khi đêm về, chìm vào giấc mộng thấy mình về quê cũ
Nhìn nàng bên hiên cửa nhỏ
Đang chải tóc và trang điểm
Cả hai nhìn nhau không nói
Chỉ có hàng ngàn giọt lệ tuôn rơi
Ở nơi này, năm lại qua năm càng thêm đứt ruột
Đêm nay trăng sáng
Trên lưng chừng đồi thông

Dịch Thơ:
         Mộng Nhớ Cố Thê


Mười năm qua âm dương đôi ngã
Nào muốn nhớ
Lại khó quên
Mộ xa ngàn dậm
Đau thương kể chốn nào
Nếu gặp gỡ làm sao nhận được.
Mặt đầy bụi
Tóc màu sương
Đêm về mơ cố hương quay lại
Hiên cửa này
Nàng điểm trang
Nhìn nhau không nói
Ngàn giọt lệ tuôn tràn
Năm trôi chốn này lòng như cắt
Trăng nay sáng
Lưng đồi thông.

                             Quên Đi
***

Thập Niên Sinh Tử Lưỡng Mang Mang

Mười năm cách, sinh tử mịt mù
Nhớ khôn lường
Đâu nào quên
Ngàn dặm mộ phần
Sao nói hết thê lương
Túng sử gặp nhau cũng khó nhận
Mặt gió cát
Tóc pha sương
Mộng đêm mơ thấy chợt về nhà
Ai bên song
Tóc xuôi vai
Lặng lẽ nhìn ta
Nước mắt đổ tuôn dòng
Đâu nữa bên nhau ngày cõi thế
Dưới trăng sáng
Trên đồi thông
                        Tri Khac Pham
***
Âm Dương Cách Biệt Còn Vương Tơ Lòng


Tử mất sanh tồn trải mấy thu,
Âm dương cách trở vẫn lu bu.
Mười năm đôi ngã ai không nhớ,
Một kiếp chưa quên vĩnh biệt ru.
Mộ chí lẻ loi xa vạn dặm,
Phòng không gối chiếc thấy thê lương !
Làm sao nhận diện khi mình gặp,
Bụi bám đầy trên mặt bạn đường
Thời gian tóc đã nhuốm màu sương,
Giấc mộng tưởng mình lạc cố hương.
Cửa nhỏ hiên nhà nàng nháy mắt,
Điểm trang gở tóc thấy mà thương !
Nhìn nhau chẳng nói rơi châu lệ,
Đứt ruột, trần gian vẫn vấn vương.
Trăng sáng đêm nay buồn biết mấy,
Đồi thông thấp thoáng dưới sườn dương...

                               Mai Xuân Thanh
***
Giang Thành Tử


Mười năm cách biệt cõi âm dương
Những tưởng quên
Lòng mãi nhớ
Mộ ngàn dặm xa
Ôi nhớ thương khôn siết
Nếu gặp gỡ sao biết nhận ra
Bụi đầy mặt
Tóc nhuốm sương
Đêm tơ tưởng mộng về quê cũ
Song cửa trông
Nàng trang điểm
Căm lặng nhìn nhau
Lệ ngàn giọt trào tuôn
Năm đến lại qua buồn đứt ruột
Này trăng sáng
Lưng đồi thông

                        Kim Phượng
***

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Thăm Thầy


Bài Thơ Xướng

        Thăm Thầy

Am mây một tối ghé thăm Thầy ,
Mờ mịt lưng đồi khói trắng vây .
Chuông mõ ngân nga hồn lắng đọng ,
Sóng lòng xao xuyến phút vơi đầy .
Giường thiền sư cụ đà an giấc ,
Tràng kỉ khách trần cứ trở xoay .
U tịch tư bề ngoài tiếng suối ,
Qua song len lén mảnh trăng gầy . 

Trăng gầy lặng lẽ ngả về tây ,
Chuông sớm công phu tỉnh mộng nầy .
Sương giá trắng ngần xoa mặt đất ,
Vầng hồng le lói vén màn mây .
Lây quây chú tiểu trà cùng bánh ,
Thoang thoảng trầm hương khách với Thầy .
Xuống núi còn vương đêm thú vị ,
Mai rừng  trên áo xác hoa rây .
                                     Mailoc
                               Cali  11-18-15
Các Bài Thơ Hoạ

          Nhớ Thầy                          

Hai mươi mười một ghé thăm thầy,
Lũ bạn ai ngờ đã bủa vây.
Sư đệ xưa nay luôn giữ đúng,
Thầy trò tình nghĩa thật đong đầy.
Một ngày cũng đạo tôn sư kính,
Suốt kiếp không quên mặc thế xoay.
Trọng đạo tôn sư nên nhớ lấy,
Kẻ nào phụ bạc phước hao gầy !

Tháng ngày lặng lẽ tựa trời tây,
Thoáng chốc già nua đến nỗi nầy.
Thầy đã ra người thiên cổ sớm,
Trò đà đổi tóc trắng như mây.
Trò trông thầy cũ thêm hồi tưởng,
Thầy thấy trò xưa chợt nhớ thầy.
Ngày ấy thao thao trên bục giảng,
Đầu đà bạc bởi phấn bay rây !
                     Đỗ Chiêu Đức
***
          Thất Lễ

Cơ hội nào đây đuợc ghé thấy?
Đường xa vạn dặm cách trùng vây
Thu tàn trăng lẻ sương rơi ngập
Đông lạnh cây trơ tuyết đổ đầy
Do đó cụ đồ xin miễn chấp
Bởi chưng kẻ hạ chẳng sao xoay
Đàng dùng dăm vận nương thơ họa
Chúc khỏe ngài nhe,dẫu sức gầy

Sức gầy nhưng sống ở trời tây
Chẳng dễ à nha thời buồi nầy
Sảng khoái sáng ra đi dạo phố
An bình chiều lại hướng trông mây
Một ly rượu chát vui bên mợ
Một tách trà thơm để cạnh thầy
Thi vị xiết bao tình chấp cánh
Áo xưa xóa sạch phấn không rây.
                     Thái Huy,11-19-15
***
                Tâm Sự

Tập tánh không không giữ đạo Thầy
Bốn phương chướng ngại bủa vòng vây
Công phu tự biết còn non kém
Phước huệ hằng thu chửa đủ đầy
Lục tặc thừa cơ thường phá khuấy
Tam bành được dịp mãi vần xoay
Vô vô minh tận nghe thì dễ
Bát Nhã thuyền nan chỉ mới gầy

Mới gầy nên tuổi sắp về tây
Vẫn nặng lòng nơi cõi tạm nầy
Oan trái bao đời chưa xóa sổ
Thiên Đàn nửa bước khó lên mây
Ưu tư héo hắt mòn năm tháng
Học cách bình an chỗ bạn thầy
Lạc lõng trong phù hoa cám dỗ
Ráng gìn cho khỏi trật đường rây.

                        Cao Linh Tử
                          21.11.2015
***
      Tôn Sư Trọng Đạo

Một người ngoan Đạo thọ ơn Thầy,
Buông thả có ngày cám dỗ vây...
"Có Chí Thì Nên " lòng tự trọng,
Tham lam thâm thủng hám không đầy !
An nhiên tự tại tâm hoan hỉ,
Nóng nảy sân si chuyển động xoay.
Sắc đẹp vô thường đâu giữ mãi,
Trần gian hổn độn cũng hao gầy !

Hao gầy xế bóng ngã non tây,
Độ lượng khoan dung cũng chốn này.
Trả nợ tình xa còn lận đận,
Kim hoàn chủ cũ ngắm trời mây...
Đêm nằm tỉnh giấc hay mình sống,
Sáng dậy nhanh chân vội lễ Thầy...
Hiếu hạnh làm gương cho lũ trẻ,
Sương rơi xuống lá giọt như rây...
                   Mai Xuân Thanh 
          Ngày 20 tháng 11 năm 2015
***
            Tự Sự

Sao vẫn còn mơ khoát áo thầy
Nhớ thời bọn trẻ đứng quanh vây
"Thầy ơi" tiếng gọi nghe êm ái
"Nghiệp giáo" rời xa vận đổi xoay
Phấn trắng bảng đen chưa vẹn chữ
Nghề thanh đời bạc nghĩa chưa đầy
Hoàng hôn dần đến còn chi nữa
Tâm trí tàn phai với dáng gầy

Dáng gầy ấp ủ nỗi riêng tây
Thao thức bao đêm kỷ niệm nầy
Cửa Khổng đã rồi khoa bút mực
Sân Trình đâu nữa hội rồng mây
Ngôi trường thuở trước in tâm trí
Bục giảng năm nao bặt bóng thầy
Cuộc sống êm đềm sao vội tắt
Trăng tàn chênh chếch đẫm sương rây 
                                  Quên Đi