Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Khuê Tình - Lý Bạch


閨情
流水去絕國。浮雲辭故關。
水或戀前浦。雲猶歸舊山。
恨君流沙去。棄妾漁陽間。
玉箸夜垂流。雙雙落朱顏。
黃鳥坐相悲。綠楊誰更攀。
草錦心。挑燈淚斑斑。
窺不自鏡識。況乃狂夫還。

Khuê tình
           Lý Bạch

Lưu thủy khứ tuyệt quốc,
Phù vân từ cố quan.
Thủy hoặc luyến tiền phố,
Vân do quy cựu san.
Hận quân Lưu Sa khứ
Khí thiếp Ngư Dương gian.
Ngọc trợ dạ thùy lưu,
Song song lạc châu nhan.
Hoàng điểu tọa tương bi.
Lục dương thùy cánh phan?
Chức cẩm tâm thảo thảo,
Khiêu đăng lệ ban ban.
Khuy kính bất tự thức,
Huống nãi cuồng phu hoàn.

Dịch nghĩa:
        Tình trong khuê phòng

Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẫm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.

Dịch Thơ :

Nước trôi miền về nơi xa vắng ,
Biên thùy xưa mây trắng lưa thưa
Nước còn lưu luyến bến xưa
Mây về núi cũ tình chưa xóa nhòa  
Hận chàng đi Lưu Sa lòng chạnh
Thiếp Ngư Dương cô quạnh sầu thương .
Châu sa đũa ngọc đêm trường 
Hai dòng lệ thắm vương vương má hồng .  
Tiếng oanh hót khiến lòng xao xuyến
Liễu tơ xanh chẳng luyến vin cành
Vẩn vơ , gấm dệt chẳng thành
Khêu đèn , thổn thức , long lanh lệ tình .
Soi gương không nhận ra mình
Chàng về có
lẽ càng nhìn càng đau
                                       MaiLộc

Khuê Tình

Nước chảy đi cuối xứ
Mây trôi từ ải xưa
Nước chẳng quên bến cũ
Mây sẽ lại non nhà
Giận chàng đến Lưu Sa
Ngư Dương bỏ thiếp lại
Hằng đêm lệ tuôn dài
Dung nhan dần héo úa
Than thở cùng chim oanh
Liễu biếc ai vin cành
Dệt gấm buồn mang mang
Thắp nến lệ hàng hàng
Soi gương tìm dáng cũ
Chàng về thiếp
chẳng an.
                          Quên Đi

 

Thơ Tranh : Thiên Trường Vãn Vọng


Thơ Nguyên Tác Trần Nhân Tông
Thơ Dịch Quên Đi
Thơ Tranh Hữu Đức



Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Bụng Làm Dạ Chịu hay là Truyện Thầy Hít

Ngày xưa, có một anh chàng vô công rồi nghề, ngày ngày chỉ biết ăn bám vợ và khoác lác. Người vợ rất lấy làm bực mình vì phải nai lưng ra làm nuôi chồng và ba đứa con. Một hôm, chị vợ bắt anh ta phải đi học một nghề gì để nuôi thân vì mình không cáng đáng nổi nữa. Anh chàng đi lang thang suốt buổi, hết đứng bụi này lại ngồi bụi kia chả học nghề ngỗng gì cả, cho đến xế trưa lại về.
Trước khi vào nhà, hắn đứng nấp sau vách có ý nghe ngóng xem vợ có nói xấu gì mình chăng. Vừa khi người vợ đi chợ về mua được năm tấm bánh gói, chia cho ba đứa con mỗi đứa một cái. Còn lại hai cái, mẹ bảo con đưa vào buồng cất vào trong vại gạo cho cha. Nghe thấy thế, anh ta rất thích, chờ một lúc lâu mới giả bộ đi từ phía cổng bước vào nhà. Vợ hỏi:
- Đã tìm được nghề gì chưa?
- Đã, hắn đáp.
- Nghề gì mà học nhanh thế?
- Tao đi dọc đường gặp một ông thầy hít, ông ấy dạy cho tao bói bằng cách hít. Bây giờ có cái gì cất giấu ở đâu, tao chỉ dùng lỗ mũi hít hít mấy cái là tìm ra ngay. Nào, có cái gì cần tìm để tao làm thử cho mà xem?
Vợ tiếp lời ngay:
- Vậy thì tôi có mua cho hai cái bánh còn cất đi một nơi, cứ hít cho ra mà ăn, như không tìm được thì nhịn vậy!
Thế là anh chàng ngước mũi lên giả bộ hít mấy cái, rồi nói:
- Đúng rồi, nó ở trong vại gạo.
Rồi hắn chạy vào lấy bánh ra ăn trước con mắt kính phục của vợ con.
Người vợ tưởng thật, mừng quá, vội chạy đi loan báo với xóm giềng rằng chồng mình học được nghề thầy hít, thử đoán một việc thấy hay như thần. Từ nay ai có một cái gì cứ đến nhờ anh ấy tìm hộ.
Hôm ấy, trong xóm có một bà mất một ổ lợn con, kiếm khắp mọi nơi không thấy. Nghe nói thế, bà ta vội chạy đến khẩn khoản nhờ tìm. Thật là may cho anh chàng, vì lúc đứng nghỉ ở một bụi tre dọc đường, hắn đã trông thấy bầy lợn con chạy lạc vào đó. Hắn ta mừng quá, bảo bà già: - "Nếu kiếm được thì bà sẽ cho tôi những gì!". Bà ta hứa cho hai con lợn con. Anh ta cũng giả vờ hít mấy cái rồi dắt bà đến ngay chỗ có lợn. Bầy lợn được tìm ra ngay và sau đó anh được chia hai con như lời chủ nhân đã hứa. Vợ thấy chồng chỉ học một nghề giản dị mà làm ra của dễ dàng thì sung sướng quá, vội chạy về khoe với cha mẹ đẻ. Người cha nghe nói con rể học được phép lạ cũng có ý hâm mộ. Ông ta nói riêng với vợ : - "Bà cứ bảo gọi rể sang đây. Nếu nó chỉ đúng món tiền chôn ở gốc táo sau vườn thì cho nó một nửa". Ông ta không ngờ chàng rề của ông đã lén theo vợ sang từ lúc nãy và đứng nấp ở một góc nhà. Nghe cha vợ bảo thế, anh ta lén chạy một mạch về nhà rồi giả cách nằm ngủ. Khi vợ và mẹ vợ về, phải thức mãi hắn mới chịu dậy. Thế là anh chàng theo sang nhà ông nhạc, chỉ đúng chỗ chôn của, và được thưởng một nửa số tiền chôn.
Từ đó tiếng đồn về thầy hít lan đi rất nhanh. Cũng vào thời gian ấy trong hoàng cung bỗng xảy ra một vụ trộm lớn. Nhà vua mất trộm một con rùa vàng và một con rùa bạc là hai món bảo vật của vua Trung-quốc tặng. Trong cung rối rít cả lên, chả có cách gì tìm ra thủ phạm cả. Vừa nghe tiếng đồn có thầy hít đại tài, vua vội sai quân lính đi mời về cho bằng được.
Khi thấy sứ giả đến nhà triệu mình, anh chàng vô cùng hoảng hốt. Chót đánh lừa mọi người, anh ta không còn biết than thở với ai cả. Nằm trong cáng dọc đường về kinh đô, anh ta nghĩ bụng: - "Thôi phen này thì bay đầu đến nơi rồi!". Anh chàng buồn quá, tưởng tượng những nhục hình đang chờ mình ở cung vua mà rụng rời chân tay. Vì thế khi qua sông, anh ta nhảy đại xuống nước, nghĩ rằng thà chết ở đây còn hơn bị kìm kẹp khổ thân. Hai người lính khiêng cáng sợ rằng hắn chết thì tai vạ sẽ đổ lên đầu mình, bèn chia nhau lặn xuống nước tìm và cuối cùng cũng lôi được anh chàng lên bờ. Khi tỉnh lại, hắn ta rất thất vọng, nhưng cũng làm bộ giận, mắng hai người đó:
- Tao xuống để hỏi vua Thuỷ tề xem ai là thủ phạm chứ có can gì mà chúng mày hốt hoảng lên như thế.
Nhưng trong bụng anh ta nghĩ: - "Thế là muốn thoát cũng không thoát nổi. Biết tính làm sao bây giờ?". Anh chàng lại nằm lên cáng cho hai người kia khiêng đi, miệng lẩm bẩm mấy tiếng:
- Bụng làm dạ chịu, chớ khá than van!
Không ngờ hai người khiêng cáng mà vua sai đi: một người tên là Bụng và một tên là Dạ. Hai đứa đã đồng mưu ăn trộm hai con rùa của vua. Tang vật hiện còn giấu trên máng nhà, chưa đưa đi thoát được. Nay nghe thầy hít lẩm bẩm như thế, tưởng là thầy đã hỏi vua Thủy tề biết rõ cơ sự rồi, bọn họ bèn hạ cáng xuống và lạy thầy như tế sao. Cả hai thú tội cho thầy nghe rồi cuối cùng xin thầy làm ơn giấu giùm, nếu không sẽ khó mà thoát án tử hình.
Nghe đoạn, thầy như mở cờ trong bụng, vội hứa để bọn họ an tâm. Khi gặp vua, anh chàng lại giở giói phép hít của mình và quả nhiên tìm được hai bảo vật còn giấu ở trên ống máng. Nhà vua thán phục tài năng của anh, tặng thưởng rất hậu, lại ban cho tước lớn.
Anh ta về nhà chưa được bao lâu thì bỗng một hôm được sứ Trung quốc tìm đến tận nhà ngỏ lời mời mọc khẩn khoản. Số là trong cung cấm của hoàng đế Trung-quốc vừa xảy ra một mẻ trộm rất lớn. Nhiều món bảo vật quý giá nhất trần đời đều bị bọn người táo gan lấy mất. Nhiều thầy bói được vời đến cung nhưng chả nên tích sự gì cả. Nay nghe tiếng có thầy hít Việt-nam đại tài nên phái sứ giả sang mời tìm hộ. Nếu tìm được bảo vật, hoàng đế sẽ ban tứ rất hậu.
Anh chàng lần này lại lo sốt vó, có thể nói hơn cả mấy lần trước. Vừa qua một khúc sông, anh ta đã nhảy ngay xuống nước định tự vẫn như lần trước. Không ngờ người ta lại cứu được lên. Nhưng lần này không hiểu anh ta nhảy thế nào mà khi lên bị sứt một một bên mũi. Hồi tỉnh lại, anh chàng chỉ cái mũi sứt nói với sứ giả Trung-quốc rằng: - "Tôi nhờ có cái mũi này mới làm ăn được. Nay con cá nóc đã cướp mất sự mầu nhiệm của tôi rồi, còn gì mà sang nữa". Sứ giả không biết nói thế nào, đành phải để cho anh ta trở lại nhà[1].

KHẢO DỊ

Nhiều người chỉ kể có một phần của truyện trên: hoặc kể phần đầu nhưng không nói đến việc hít, mà chỉ nói đến một nhành tre để anh chàng cầm về, nói là có phép tìm ra vật giấu kín, hoặc kể phần cuối nhưng thay cho "Bụng làm Dạ chịu là "Quýt làm Cam chịu", v. v... Truyện của ta tương tự với khá nhiều truyện của các dân tộc trong nước và trên thế giới.
Trước hết là truyện của dân tộc Vân-kiều. Thầy mo ngửi, cũng có một nhân vật vì trót giả điên lừa vợ và cả làng rằng mình có phép dùng mũi hít có thể tìm ra vật bị mất. Cũng gần như truyện của ta, đầu tiên anh tìm cho vợ một dụng cụ làm cỏ mà anh cố ý giấu đi một nơi. Sau đó, anh tìm ra chum bạc của bố vợ chôn ở gốc mía (do anh đến nhà nấp kín một chỗ nghe được). Nhưng khác với truyện của ta, anh lần lượt giải đáp đúng hai cuộc đố với hai bọn lái buôn bằng cách trước khi vào cuộc, cải trang tới làm quen với họ, để tìm ra điều bí mật. Cuộc đố thứ nhất là bắt hai con mèo buộc vào cổ hai con voi, xem con nào đực con nào cái. Cuộc thứ hai đem một khúc gỗ chỉ đàng nào gốc đàng nào ngọn, v. v... Anh đều thắng lợi và chiếm được của cải hàng hóa bộn bề. Nhà vua cũng nghe tiếng anh, triệu về không phải để tìm bảo vật bị mất mà để bắt anh trị một con hổ dữ. Anh đi cùng với một toán lính, nhưng vừa thấy hổ thì đã chết ngất. Bọn lính đuổi hổ đi, ném anh vào giữa một bụi tre rồi bỏ về. Tỉnh dậy anh thấy hổ gầm ghè xung quanh bụi tre. Chờ khi hổ ngồi thò đuôi vào bụi, anh lẳng lặng chẻ lạt, dùng lạt buộc đuôi hổ vào gốc tre. Hổ lồng lộn vẫn không rút được đuôi, lại bị anh thò dao cắt mất dái, lăn ra chết. Thế là anh trở về tâu vua đã giết được hổ và cải chính cái tin chết ngất do bọn lính tung ra; anh nói lúc đó mình nằm xuống làm phép, v. v... Lần thứ hai vua bắt anh cầu đảo gọi mưa, làm được vua sẽ nhường ngôi cho, nếu không thì chém đầu. Anh trở về hoảng quá, đi cả ra khố. Không ngờ nước đái rơi vào đầu một con cóc. Cóc sợ anh xối nước mặn vào hang của nó, xin tha, và báo cho anh biết ngày nọ tháng nọ sẽ mưa lụt. Anh về bày đàn làm bộ cầu cúng, quả nhiên có mưa to. Vua giữ lời hứa nhường ngôi[2].
Thứ hai là truyện của đồng bào Tày:
Khọn, một anh chàng chỉ có một con trâu, một hôm không biết chăn thế nào để trộm lấy mất. Anh bèn chặt một ống cọn[3] rồi về bảo với vợ rằng mình đã đổi trâu lấy cái ống này có phép tìm ra vàng bạc. Vợ về mách bố, bố sợ rể có phép lấy mất vàng bạc của mình, bèn mang chôn giấu ban đêm. Không ngờ chàng rể đã ngồi rình trên ngọn cây, thấy hết. Nhân bố vợ thách tìm của, Khọn bèn làm bộ nhờ cái ống mà phát hiện ra những của cải đó, và được bố vợ chia cho một nửa.
Sau đó vua mất cái ấn vàng, đòi Khọn - bấy giờ đã nổi tiếng - đến tìm. Cũng như truyện của ta, ngồi trên kiệu về cung, Khọn than thở: - "Thằng đầu chết, thằng bụng cũng hết sống". Không ngờ ăn trộm ấn vàng lại là hai người khiêng kiệu; thấy anh nói thế tưởng anh đã biết, vội lạy anh để anh giấu đi cho. Do đó mà Khọn tìm ra ấn và được vua thưởng hậu.
Nhưng rồi về sau Khọn thấy phải tống khứ cái ống nguy hiểm có thể làm anh mất đầu. Một hôm anh làm một mâm cỗ linh đình đặt sẵn trong hang kín.. Rồi anh nói với một bọn lái trâu về sự mầu nhiệm của cái ống có thể làm ra cơm rượu. Bọn lái trâu thấy anh gõ vào ống và thấy có cơm rượu thật, bèn gạ đổi đàn trâu. Dĩ nhiên là Khọn ưng thuận[4].
Đồng bào Tày còn có truyện một người dốt đặc cán mai nhờ may mà đỗ Trạng. Tất cả những hành động của Trạng đều là nhờ vợ vô tình làm cho, mà kết quả, tiếng khen lại dồn vào Trạng. Sau đó một hôm, Trạng được làng cử đi đánh chiêng làm lễ cầu mát. Trạng cột một sợi dây vào chân nhờ vợ giật để ra hiệu đánh cho đúng lễ nghi: không ngờ người ta đi lại vấp dây lia lịa. Tưởng vợ nhắc, Trạng cũng vội đánh chiêng lia lịa. Dân đang ngơ ngác vì thấy Trạng đánh loạn xạ thì bỗng thấy sau xóm có đám cháy, nên cho là Trạng tiên tri đánh chiêng cho dân di chữa cháy.
Phần sau cũng như truyện trên, nghe nói Trạng tiên tri, vua bèn cho gọi về triều để tìm cái ấn vàng. Trạng lo quá bảo vợ: - "Thôi đêm nay ta quyết tử cho rồi!". Không ngờ con "quỷ cốt tử" là kẻ ăn trộm ấn vàng nghe vậy, tưởng Trạng biết sự thực, bèn tìm tới xin Trạng tha đừng tâu vua. Trạng chỉ mong có thế[5]. 


Truyện Miến-điện (Myanmar) Chàng lừa phỉnh và chàng nói khoác:
Có hai chàng túng đói tìm cách làm ăn. Một người đánh cắp một con trâu giấu đi, rồi tìm đến chủ có trâu nói có ông thày bói giỏi. Chàng lừa phỉnh làm bộ bói, chỉ đúng được thưởng 10 đồng. Lúc ấy thôn trưởng mất một hộp thuốc lá bằng vàng, nghe tiếng, gọi đến, bắt bói và dọa nếu chạy trốn sẽ ra lệnh cả làng đuổi bắt. Đành phải ở lại than với nhau: - "Chỉ nên trách thời vận thôi". Không ngờ kẻ trộm vốn tên là Thời Vận, nghe thế tưởng thầy đã biết, sụp lạy xin tha. Thế là hai người chỉ cho thôn trưởng chỗ giấu hộp. Nhà vua nghe tin bói giỏi, họi họ về triều vì có một bọn lái buôn chở tới bảy thuyền châu báu đánh cuộc với vua, nếu đoán được trong một cái hộp có gì họ sẽ mất tất cả thuyền hàng, trái lại thì vua mất vương quốc. Hai chàng lần này lo sốt vó, tính nhảy xuống nước chết cho rồi, nhưng họ lại biết bơi, đành bảo nhau cứ bơi ra khơi cho đến khi không bơi được nữa là chết. Không ngờ khi bơi qua bảy chiếc thuyền, bỗng nghe đứa con đầu bếp của bọn lái buôn đang hỏi bố nó trong hộp có gì. Bố nó đáp: - "Trong hộp sắt là hộp đồng, trong hộp đồng là hộp bạc, trong hộp bạc là hộp vàng, trong nữa là một lạng chất thơm thượng hạng".
Nghe thế hai chàng lại bơi trở vào, nói cho vua hay và vua thắng cuộc. Sau đó một hôm trong khi chàng nói khoác vào cung, thì chàng lừa phỉnh ở nhà đổi quách nhà và làm bộ bị bỏng. Lành rồi, hắn vào tâu vua là sách bói đã cháy mất không thể làm ăn được nữa. Vua bèn cho họ làm quan[6].
Một truyện của Ấn-độ cũng rất gần với truyện của ta, chỉ có khác là không nói tới việc hít và ở đoạn cuối tình tiết có hơi khác. Chằng hạn, khi vợ sang khoe tài chồng mình ở nhà bố mẹ đẻ, anh chàng tự xưng đoán giỏi cũng chạy sang trốn ở một xó, nhìn trộm người ta ăn uống. Đêm đến hắn làm bộ mới ở nhà mình sang, nói với mẹ vợ: - "Tôi có thể biết những người khác ăn gì". Mẹ vợ bảo hắn: - "Thế ngày hôm nay mấy đứa con tôi ăn những gì nào?". Hắn kể ra vanh vách. Mẹ vợ rất thán phục. Tin hắn giỏi đoán truyền đến vua. Vua cho gọi đến. Trong tay cầm một con dê, vua bảo hắn: - "Nghe nói mày giỏi đoán, vậy phải đoán cho ra trong tay tao cầm gì? Hắn sợ quá buột miệng kêulên: "Pi-la-găng-ti ơi, giờ chết của mày đã điểm rồi!" Pi-la-găng-ti là tên của của hắn mà cũng là tiếng Ấn chỉ con dê. Vua tưởng hắn có tài, trọng đãi và cho về. Ít lâu sau, vua mất một chuỗi ngọc, cho gọi hắn vào cung bắt nội trong 15 ngày phải tìm cho ra, nếu không sẽ treo cổ. Hắn bỏ cả ăn uống, chỉ mếu máo kêu tên mẹ và bà: "Ối Xu-ni-da, ối Mu-ni-da ơi, biết làm sao đây!" - Chính hai người hầu của vua có tên như thế dã ăn trộm chuỗi ngọc. Chúng nó nghe thấy hô danh mình thì sợ quá, bèn thú thật với thầy và chỉ chỗ giấu ngọc. Thế là hắn thành công và được vua ban rất hậu.
 

Một truyện Ấn-độ khác từng chép trong sách Biển truyện (Kathâ Sarit-sâgara) từ thế kỷ thứ XII:
Một người bà-la-môn nghèo tên là Ha-ri-xác-măng. Vì không nuôi nổi một đàn con, phải đi ở với một người giàu. Người này làm lễ cưới cho con gái mà không mời anh ta. Anh chàng giận lắm, dặn vợ: - "Có dịp cứ mách với họ là ta bói giỏi". Bèn vào chuồng ngựa nhà chủ dắt một con giấu vào rừng. Nhà chủ mất ngựa, tìm mãi không thấy. Người vợ bèn mách rằng chồng mình bói giỏi. Thấy họ khẩn khoản, anh chàng giả vờ làm như kiểu thầy bói thực thụ, và cuối cùng dĩ nhiên tìm ra được ngựa. Từ đó mọi người phục chàng như thần. Tiếng đồn lan ra khắp nơi. Một hôm trong cung vua có vụ trộm lớn mất nhiều vàng ngọc và của quý. Vua gọi anh ta đến và bắt tìm cho ra. Hắn xin khất đến mai. Của cải của vua vốn bị một tên thị tỳ trong cung tên Đô-ri-hô-va (cái lưỡi) lấy trộm. Người thị tỳ ấy đến nghe ngóng từ buồng chàng. Giữa lúc đó Ha-ri-xác-măng đang chửi cái lưỡi của mình đã làm mình khốn khổ. Thị tì tưởng thầy đã biết, nên mở cửa chạy vào thú tội và xin thầy thương cho. Sáng mai anh chàng chỉ cho vua những của đã mất. Vua toan thưởng thì một viên quan cố vấn không chịu tin, bắt thử lại. Người ta mang đến một cái chậu úp, trong có một con cóc, bắt đoán. Anh chàng tưởng nguy đến nơi. Hắn nhớ hồi nhỏ cha mình thường gọi mình bằng cóc nên kêu lên: - "Cóc ơi! Ít ra trước kia mày cũng tự do hơn bây giờ". Vua nghe nói ngỡ hắn đoán đúng: khen ngợi và thưởng rất hậu.
 

Người Ai-cập cũng có truyện một anh lái buôn vỡ nợ, do vợ xúi giục đi ra nước ngoài làm nghề bói bất đắc dĩ. Được vua gọi vào cung thử tài, hắn lo sợ đến mất mật. Nhưng hắn vô tình đoán trúng chỗ giấu con châu chấu và con chim sẻ bằng cách gọi tên mình và tên vợ ra để than thở. Một lần khác. để tìm một vụ trộm lớn trong cung, hắn giao cho vợ một túi sỏi và vợ hắn tình cờ ném trúng mấy lần vào đầu những tên trộm đứng rình nghe ngóng. Thế là bọn trộm tưởng thầy đã biết, vội tặng hắn tiền đế hắn đừng làm cho chúng phải treo cổ.
Phần cuối còn có tình tiết: một hôm các vua láng giềng gọi bọn thầy bói của mình đến để thi tài với hắn. Các vua cho bí mật chôn dưới đất: một nồi sữa, một nồi mật và một nồi đậu. Các thầy bói kia chịu không đoán ra. Đến lượt hắn, hắn ngoảnh bảo vợ: - "Tất cả đều tại mình, thôi chúng ta có thể khuân đồ đạc đi khỏi nước này, lần thứ nhất là sữa, lần thứ hai là mật, lần thứ ba là đậu". Do là hắn kể những thức ăn mà vợ hắn mới mua. Các vua tắc lưỡi và thưởng hắn rất hậu.
 

Ở phương Tây cũng có nhiều truyện cổ tích gần giống với truyện của chúng ta. Dưới đây là truyện Ông thầy pháp, của người Pháp, mà người Bồ-đào-nha (Portugal), người Anh, người Ý (Italia), Tây-ban-nha (Espana) cũng kể tương tự:
Một chàng trẻ tuổi một hôm bỗng tự xưng là thầy pháp, có khả năng tìm thấy những vật bí mật. Một bà chúa mất một chiếc nhẫn quý, gọi hắn đến bắt tìm cho ra thủ phạm. Ông chúa hỏi: - "Mày đòi công bao nhiêu?" - "Ba bữa ăn", hắn đáp - "Được".
Người đầu bếp mang đến cho hắn bữa ăn đầu tiên. Hắn nói : - "Đó là một". Thì chính tên đầu bếp ấy lại là một trong những tên trộm chiếc nhẫn của chủ. Nó trở về nói lại với đồng lõa. Lần sau người thứ hai lại mang thức ăn đến. Hắn lại nói: - "Đó: đã hai rồi". Lần thứ ba cũng thế. Cả ba tên trộm sợ quá, vì tưởng hắn đã biết, bèn đến gặp hắn thú thật, và, hẹn nếu không mách chủ, chúng sẽ tặng một nửa của cải. Hắn bày một mẹo là bắt một con gà cho nó nuốt chiếc nhẫn vào bụng.
Tuy được nhẫn quý, ông chúa vẫn không tin, lại sai bắt một con dế để lên đĩa, trên úp một cái chuông con, rồi bảo hắn: - "Trong ấy có gì nói ngay, nếu không hai khẩu súng lục đây tao sẽ bắn mày vỡ óc". Hắn không còn biết làm thế nào đành than một mình: - "Thân ta như con dế bị bắt". Đó là hắn nói theo một câu tục ngữ "tình trạng bối rối như con dế bị bắt" nhưng cũng làm cho ông chúa tưởng là thầy đoán giỏi.
 

Truyện của người Na-uy ( Norvège) đại khái cũng như truyện của người Pháp:
Một người đốt than một hôm mua được cái áo cũ của một ông thầy cả. Anh ta mặc vào người và tự cho mình là tiên tri. Vua mất cái nhẫn quý. Anh ta gõ cửa nhà vua, nói mình có thể tìm được. Vua hẹn cho ba ngày phải tìm cho ra, nêu không sẽ đuổi. Chiều hôm đầu tiên một người hầu - chính là một trong những tên trộm - mang thức ăn đến. Khi ăn xong, nó bưng mâm đi, anh ta nói: "Đó là một đã đi rồi" (tức là một ngày đã qua). Việc cũng diễn ra như thế đối với hai người hầu sau đều là đồng lõa ăn trộm chiếc nhẫn. Họ cho là thầy đã biết hết và tìm đến thú thực với thầy. Anh ta bảo kiếm một con lợn to cho nó nuốt chiếc nhẫn. Sau đó, vua lấy một cái bình bạc có nắp đi ra bờ biển, một lúc sau vào gọi anh ta đến đoán cái gì trong bình. Anh ta than một mình: - "Ôi cua tội nghiệp! Xảy ra cho mày bao nhiêu là thử thách". Đúng là con cua mà nhà vua đã bỏ vào bình để đố.
Một loạt truyện sau đây tuy hình tượng đã đổi khác nhưng câu nói dẫn đến sự hiểu lầm vẫn giữ nguyên, cũng đều là dị bản của các truyện trên. Truyện của người Đức:
Một người đàn bà có thói quen ngáp ba lần trước khi đi ngủ. Một hôm có ba tên trộm toan vào nhà khoắng của. Khi một đứa trèo thang nhìn vào cửa sổ thì vừa đúng lúc người đàn bà ngáp. Mụ nói to: - "Đó là một". Tên kia cho là bị lộ chạy ra nói với đồng bọn. Tên thứ hai thấy yên yên lại trèo lên, vừa vặn lúc mụ ngáp cái thứ hai: - "Đó là hai!". Lúc sau, tên trộm thứ ba sắp trèo thì cái ngáp thứ ba cũng đến với mụ ta cùng câu nói: - "Đó là ba". Ba tên chạy mất mật.
 

Truyện của người Pháp:
Một người mẹ có đứa con ăn không ngồi rồi. Một hôm mẹ bảo con: - "Khi người ta muốn có một ngày tốt thì phải dậy sớm". Đứa con nghe lời, dậy rất sớm đi ra khỏi thành phố, đứng ở cửa thành. Có ba anh đêm qua đào được một kho của bí mật đem về. Người thứ nhất gặp anh chào: - "Bông jua" (tiếng chào này cũng có nghĩa là ngày tốt). Anh chàng nói: - : "Đó là một"[7]. Người kia tưởng việc bí mật của mình đã bị lộ. Sau câu chuyện cũng lần lượt diễn ra như thế đối với người thứ hai, thứ ba. Tưởng là anh chàng đã biết cả, ba người bèn chia cho anh một phần tư kho của.
 

Những truyện sau đây có thể xếp vào một nhóm, vì cùng chung một loại hình tượng làm trung tâm cho câu chuyện:
 

Truyện từ sách Chú giải về Phật pháp (Dhammpadattha Kathâ):
Một người Ba-la-môn đi từ Bê-na-réx đến xứ Tắc-ca Si-la để học khoa học, hy vọng trở thành bậc thánh. Thầy giáo hắn có 500 đồ đệ mà trung thành tận tụy nhất là anh này vì hắn hầu hạ thầy bao nhiêu năm không tiếc sức. Nhưng hắn lại quá khờ khạo, nhét mấy cũng không vào. Thầy bụng bảo dạ: -"Phải giúp cho nó một cái gì để trả ơn. Khi một đứa dốt đã học được cái gì nhập tâm là nó không quên". Bèn dạy cho câu chú bắt phải nói đi nói lại hàng ngày: - "Mày xát, mày xát, tại sao lại xát? Ta biết hết ý định cả rồi!". Học xong anh trở về quê hương.
Hồi ấy vua Bê-na-rex thường cải trang đi khắp thành phố để nghe ngóng ý dân. Một đêm vua dừng lại trước nhà anh chàng đúng lúc bọn trộm đào ngạch rồi chui vào nhà. Chàng trẻ tuổi đang ngủ chợt tỉnh giấc, miệng quen thói nói ngay câu trên. Bọn trộm hoảng hồn, lỉnh mất.
Vua điều tra biết anh chàng học khoa học từ Tắc-ca Si-la về, nên ngày mai cho gọi anh đến bảo dạy cho mình cái môn học được. Học xong, vua thưởng cho một ngàn đồng vàng. Từ đó vua luôn mồm học câu nói kia. Ít lâu sau một quan đầu triều âm mưu giết vua, hắn đồng mưu với người phó cạo sẽ cắt cổ vua khi cạo gáy, và hứa sẽ cho y làm quan đầu triều nếu mình làm vua. Sắp cạo, vua đọc "câu chú" trên. Người phó cạo toát mồ hôi trán, vứt dao, sụp lạy. Vua bảo: - "Có gì cứ nói đừng sợ". Hắn kể lại mọi việc. Vua nghĩ bụng: "Nhờ thầy ta, ta mới sống được". Bèn bắt quan đầu triều đi đày rồi cho anh chàng thế chân[8].
 

Một truyện ở Bắc âu:
Một chàng vô công rỗi nghề, em của một nhà thông thái nghèo khổ, một hôm đến nhà vua xin việc làm. Vua hỏi: - "Anh biết gì?". Đáp: - "Biết làm thơ và chơi quạt". Vua nhận lời. Một hôm để có bài thơ dâng vua, anh ta đến ngồi dưới một gốc cây tìm tứ. Đang ngồi bỗng có một đàn lợn đến cọ vào người. Anh bật ra một câu: - "Chúng mày cọ đi cọ lại, ta biết âm mưu của chúng mày rồi". Cho là câu hay, anh về đọc. Vua nghe đúng vào lúc phó cạo hoàng cung đang liếc dao để cạo cho vua. Phó cạo bỗng tái mặt, sụp xuống chân vua, thú rằng lưỡi dao đã tẩm thuốc độc do một quan coi kho xúi hắn. Thế là quan coi kho bị xử tử, chàng vô công rỗi nghề được thế vào. Lần khác đề tỏ ra biết chơi quạt, anh ta vô tình cứu được vua lần nữa về trò chơi của mình. Được cất nhắc làm đại thần, anh ta gọi ông anh của mình đến nhà để giúp đỡ và nói - "Lúc nào định mệnh đang cai quản thế giới, thông minh và cố gắng của anh chả được tích sự gì".
 

Truyện Xây-lan (Sri Lanka):
Trong số đại thần của một ông vua, có một ông tính giản dị, không biết chữ, nhưng được vua yêu còn bọn kia thì ganh tỵ. Một hôm, chúng gợi ý cho vua là bắt mọi người làm thơ chúc tụng. Đại thần ta bối rối, nhưng cũng đến ngồi trên một hòn đá ngoài đồng để suy tư. Bỗng có một con trâu đến cà cổ và mài sừng ở hòn đá ấy. Tự nhiên một câu vụt đến: - "Ta há lại không biết mày đang mài lưỡi dao đó sao?". Hắn đọc cho vua nghe, vua thích thú và cứ ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Ở đây cũng có phó cạo cùng đồng lỏa âm mưu cắt cổ vua và cũng sụp lạy thú tội khi nghe vua ngâm câu ấy.
Một truyện của Hy-lạp (Grece) và một truyện của Ả-rập (Arabie) cũng gần như thế. Một ông vua mua của một lái buôn ba câu cách ngôn khôn ngoan: câu đầu là: - "Dà, mày làm gì cũng phải thận trọng và nghĩ đến hậu quả". Vua sai viết câu ấy lên khắp nơi, ngay cả áo quần. Phó cạo đang có âm mưu cắt cổ Vua (ở truyện Ả-rập thì là thầy mổ xẻ âm mưu chích huyết bằng mũi kim có thuốc độc) thấy câu trên ở khăn quấn cổ của vua (ở truyện Ả-rập thì thấy khắc trên bể nước) bèn sụp xuống thú tội[9].
 

Truyện của người Ca-ma-ôn ở chân núi Hy-mã-lạp(Himalaya):
Một người Bà-la-môn sống bằng nghe hành khất. Một hôm, người vợ nghe tin có một ông vua tốt bụng, ai đến xin cũng cho một đồng vàng và một con bò cái. Vợ giục chồng đi. Chồng bảo: - "Biết nói gì với vua đây?" - "Cứ nói những gì mình thấy dọc đường", vợ đáp. Lần đầu, anh ta thấy từ trong một cái lỗ, một con mối kêu "Cúc... Cúc", liền lặp đi lặp lại ngay cho nhớ. Đi một lát thấy một con rắn ăn sâu, anh đứng lại nhìn và nhắc đi nhắc lại: - "Ngẩng cổ thấy hay hay". Xa nữa thấy một con lợn đang rúc trong bùn, anh lặp lại câu: "Ghi... Ghi... nó đến, nó đi". Cuối cùng, anh nhờ một người ghi lên giấy, rồi đưa cho vua khi vua cho tiền.
Vua quý tờ giấy ấy, dán ở đầu giường, luôn luôn tụng niệm. Một hôm vua đang ngủ, có kẻ trộm vào cung. Bọn trộm nghe thấy vua nói lắp bắp những câu trên, tưởng vua biết, bên bỏ chạy. Lính gác trong cung bèn đuổi theo bắt được cả bọn. Vua tra hỏi, bọn trộm thú nhận: - "Chúng tôi vào cung định trộm, nhưng mỗi một cử động đều bị bệ hạ biết cả". Vua bảo: - "Tại sao ta lại biết?", - "Khi chúng tôi đục tường, bệ hạ nói: - "Cúc... Cúc". Chúng tôi nghển cổ nghe ngóng, bệ hạ nói: - "Ngẩng cổ thấy hay hay". Chúng tôi đi từ chỗ này sang chỗ khác, bệ hạ nói: - "Ghi... Ghi. Nó đến, nó đi". Do đó chúng tôi tin rằng bệ hạ đã biết cả[10]".
Một số hình tượng trong truyện trạng Bói (tức trạng Lợn) của ta có lẽ đều rút ra từ truyện Bụng làm Dạ chịu. Xem thêm truyện Chàng ngốc học khôn, số 189 tập V. 


Theo http://maxreading.com/





Về Lại Chốn Xưa




      Về Lại Chốn Xưa
                           Gởi Bảo Lộc 
Ta trở về thăm lại chốn xưa

Khung trời kỷ niệm quãng đời thơ
Mây giăng đỉnh núi sương mù sớm
Gió hú đồi thông ánh nắng trưa

Con dốc dã quỳ bên thác nước
Cánh rừng tre nứa dưới cơn mưa...
Vẫn còn tất cả như ngày ấy 
Vì...chỉ là trong một giấc mơ ! 
                          Phương Hà

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Bữa Tiệc Thân Tình CHS Tống Phước Hiệp-Cựu Giáo Sinh SP-Vĩnh Long

Ngoài những buổi tối gặp gỡ ở quán nước nơi bờ sông Tiền(Câu Tàu), thỉnh thoảng, chúng tôi còn những buổi Tiệc Mặn hoặc Tiệc Chay thân mật.
Dưới đây là buổi Tiệc Mặn vào cuối tháng 3-2014, do Thơ và Chí Thanh chủ xị: 
( Từ trái sang phải )

Nhung (Lê Quang), Khai, Xuân, Huệ (Từ Bến Tre cũng sang tham dự)



Điệp (Lê), Liên, Nhung, Khai, Xuân.


Thơ, Sanh ( CHS Kỹ Thuật), Điệp (Lê), Liên, Khai.


Chí Thanh, Điệp Bùi,Thơ, Con Khai, Duyên.

Hình Ảnh : Huỳnh Hữu Đức



Tình Yêu...Ráng!!!!



Lễ này là lễ... lễ tình yêu
Tình đã cho đi quá xá nhiều
Ì ọp tim này đà hết sức
Nhùng nhằng yêu có được bao nhiêu
Hỏi lòng còn muốn yêu chăng vậy
Yêu được thôi thì hãy cứ yêu
Êm ái gởi nhau lời hẹn ước
U hoài chỉ khiến dạ buồn thiu 

                             Quên Đi

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Khái Niệm về Đạo Hồi

 Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham xuất phát từ truyền thống Do Thái (Semitic) cổ xưa, khởi sự từ Abraham, được miêu tả trong kinh Torab, Thánh Kinh và Kinh Qur'an, các tôn giáo Độc Thần hay Nhất Thần  (monotheistic) này bao gồm: Do Thái Giáo,Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo, chiếm gần nửa số người có đạo trên thế giới.

Allah là tiếng Ả Rập dùng để gọi Thiên Chúa, truyền thống Hồi Giáo cũng miêu tả 99 tên của Thiên Chúa. Người Hồi giáo tin rằng Thiên Chúa của người Do Thái cũng là Thiên Chúa của họ và Chúa Giê-xu là đấng tiên tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Như thế, họ xem thần học của Kinh thánh Do thái và sự day dỗ của Chúa Giê-xu là đúng trên nguyên tắc nhưng họ tin rằng Hồi giáo là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo trên.  
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki Tô Giáo và Do Thái Giáo. Thể hiện rõ trong Kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu Ước và Tân Ước ). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an , gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng.
Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moser v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu Ước và Tân Ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự "lệch lạc" do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur'an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.

  • Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur'an đã phán:
    Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101)
  • Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve  không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.
 BÁN ĐẢO Ả RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7


Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.
Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.

Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v...

Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về đạo Islam.


1. Về địa dư:

Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.


2. Dân cư:

Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad).

Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ "Semites" để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là "con cháu của Shem" (Semites: Descendants of Shem).

Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông.


3. Chính Trị và Tôn Giáo:

Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô.

Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành "Công Giáo", tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.

Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập.

Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.

Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.

4. Phong Tục Tập Quán:

Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là "những người con của sa mạc" (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt:


a. Tục trả thù:

Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là "muruwah" bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc.

Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt.

Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ.

Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi.


b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide)

Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất.

Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc.


c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật

Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision).

Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái.

Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn.


d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu

Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride's Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ!


e. Tục giết gái chửa hoang

Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là "Giết người vì danh dự" (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi.


Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.


Huỳnh Hữu Đức Biên soạn theo Wikiperia - http://sachhiem.net



Khóc Tiễn Biệt Mẹ


Nguyện bao tội nghiệp tiêu trừ
Nguyện hành Bồ Tác đời đời vị tha
Nguyện sinh về cõi Di Đà
Hương linh cực lạc, qua đò Tây Phương.
Khóc Tiễn Biệt Mẹ            

Mẹ ơi! Mẹ mất thật rồi!
Đau lòng con lắm ngậm ngùi nhớ thương.
Ngày mai nắng sớm, sương tan,
Con đưa Mẹ đến đường về quê hương.
Đây làng Phú Phụng vấn vương,
Mẹ thương - Mẹ nhớ - trông mong trở về.
Biết rằng sinh ký, tử qui…
Mà sao con khóc biệt ly vô thường.
                                   Tâm Huấn        

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Albert Einstein (14/3/1879 – 18/4/1955)


Sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, có một nhà đại bác học được toàn thế giới ca ngợi về một phương trình lừng danh nhất của Khoa Học, đó là phương trình cho biết năng lượng của vật chất: E=mc2. Trong hàng chục năm trời, E = mc2 vẫn chỉ là đề tài của các cuộc tranh luận về mặt lý thuyết, nhưng sự san bằng thành phố Hiroshima vào năm 1945 do quả bom nguyên tử đã chứng minh sự thật của phương trình đó.
Trước lời ca tụng, trước vinh quang rực rỡ, Albert Einstein, tác giả của phương trình lừng danh kể trên lại, giữ một bộ mặt thẹn thùng, xa lạ. Sự quảng cáo thanh danh đã quấy nhiễu ông suốt đời nhưng tất cả đều bị ông coi thường, lãnh đạm. Einstein chỉ khao khát độc nhất sự trầm lặng để có thể suy nghĩ và làm việc.
Einstein sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 tại thị trấn nhỏ Ulm bên dòng sông Danube thuộc bang Baden-Württemberg của Đức. Einstein bỏ quốc tịch Đức năm 1896 và nhận quốc tịch Thụy Sĩ năm 1901. Sau khi tốt nghiệp trường Eidgenössische Technische Hochschule (một trường đại học kỹ thuật) năm 1900 ở Zurich, Thụy Sĩ, ông dạy toán tại một trường đại học kỹ thuật khác ở Winterthur, rồi từ 1902 đến 1908, bắt đầu làm việc cho văn phòng cấp bằng sáng chế kỹ thuật tại Bern, với chức vụ giám định viên kỹ thuật hạng III. Đây chính là thời gian Einstein có những phát kiến quan trọng trong vật lý lý thuyết, và cũng là nền tảng cho sự nghiệp của ông sau này, hoàn toàn làm ngoài giờ và không có nhiều liên hệ trực tiếp với đồng nghiệp và tài liệu khoa học.
Einstein nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Zurich năm 1905 và cùng năm này xuất bản 3 công trình khoa học trong đó có thuyết tương đối hẹp. Sau khi phát kiến ra nguyên lý tương đương của trọng trường năm 1907, Einstein trở thành giảng viên tại Đại học Bern năm 1908, rồi thành giáo sư vật lý tại Đại học Zurich năm 1909 và bắt đầu được biết đến là một nhà khoa học hàng đầu. 1911, trong khi chuyển đến giảng tại Đại học Karl-Ferdinand ở Praha (thủ đô của Tiệp Khắc lúc đó), ông đưa ra tiên đoán đầu tiên của thuyết tương đối rộng là ánh sáng phải đi theo đường cong khi qua gần Mặt Trời. Một năm sau đó trở lại Zurich tiếp tục phát triển lý thuyết về trọng trường bằng tính toán tensor, với sự giúp đỡ của bạn học và cũng là nhà toán học Marcel Grossmann. Năm 1914 ông quay lại Đức, trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Đức. Năm 1915, lần đầu thuyết tương đối rộng được xuất bản. Năm 1919, đo đạc với ánh sáng mặt trời khi có nhật thực của một đoàn chuyên gia người Anh đã khẳng định tiên đoán của Einstein vào năm 1911.
Einstein nhanh chóng trở nên rất nổi tiếng trên thế giới, còn ở Đức ông lại bị một số phần tử bài Do Thái tấn công. Từ năm 1920 đến năm 1927, ông đi khắp thế giới để thuyết trình và hoạt động xã hội (1921 Mỹ, 1922 Pháp và Nhật, 1923 Palestine, rồi 1924 Nam Mỹ). Năm 1921 cũng là năm Einstein được nhận giải thưởng Nobel về vật lý, không phải cho công trình nổi tiếng nhưng vẫn còn gây tranh cãi vào thời điểm này là lý thuyết tương đối, mà cho những giải thích về hiệu ứng quang điện. Bắt đầu từ năm 1927, Einstein tham gia vào một cuộc tranh luận với Niels Bohr về thuyết lượng tử. Ông làm việc quá sức và lâm bệnh năm 1928. Mặc dù bình phục ngay trong năm này, cường độ làm việc của ông buộc phải giãn hơn trước. Năm 1932, Einstein nhận giảng tại Đại học Princeton, tại Mỹ, và không quay trở lại nữa vì chính quyền chống Do Thái Đức quốc xã đã cầm quyền ở Đức. Năm 1933, ông tiếp tục chu du Oxford, Glasgow, Brussels, Zurich và nhận được những vị trí danh dự mà ông đã từng mơ ước vào năm 1901 từ Jerusalem, Leiden, Oxford, Madrid và Paris. Năm 1935 Einstein quyết định ở lại Princeton thực hiện những cố gắng trong việc thống nhất các định luật của vật lý. Năm 1940 ông nhận quốc tịch Mỹ, và vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ.
Einstein là một người phản đối chiến tranh và đã gây được 6 triệu đô la tiền quỹ bằng việc bán đấu giá bản viết tay về thuyết tương đối hẹp của mình vào năm 1944. Ông bắt đầu lâm bệnh từ năm 1949 và viết di chúc năm 1950. Năm 1952, chính phủ Israel mời Einstein nhận chức tổng thống, nhưng ông từ chối. Một tuần trước khi mất, Einstein ký tên vào một bức thư kêu gọi các nước không xây dựng vũ khí hạt nhân. Ông mất tại Trenton, New Jersey, 4 giờ chiều ngày 18 tháng 4 năm 1955.

Theo : tudiendanhngon.vn/

Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm